You are on page 1of 12

VỘI VÀNG- XUÂN DIỆU

HS: BÙI NGUYỄN THU HUYỀN-THPT NHO QUAN A

Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ
Vội vàng của Xuân Diệu

Đề bài: Em hãy viết bài văn phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội
vàng của Xuân Diệu.

Niềm say mê thiên nhiên, say mê cuộc sống của Xuân Diệu được thể hiện đầy đủ
nhất, cao độ nhất có lẽ là ở bài thơ Vội vàng. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, nhà
phê bình, nghiên cứu văn học Hoài Thanh nhận xét: Xuân Diệu say đắm tình yêu,
say đắm cảnh đời, sống vội vàng, sống cuống quýt… Đây là nhận xét tinh tế và
chính xác bởi khi đặt tên bài thơ là Vội vàng, Xuân Diệu đã tỏ ra rất hiểu mình. Có
thể coi bài thơ này là tuyên ngôn về lẽ sống của nhà thơ.

Xuân Diệu yêu cuộc sống tha thiết, nồng nàn. Theo nhà thơ, cuộc sống là tất cả
những lạc thú vật chất, tinh thần cùng với những gì trần tục và thanh cao của nó.
Bài thơ Vội vàng cho người đọc thấy thi nhân đang trải lòng mình ra mà viết và
bày tỏ cho hết tình cảm chân thành đối với cuộc đời.

Bàn về lẽ sống của Xuân Diệu, có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng lẽ
sống vội vàng của nhà thơ bắt nguồn từ nhận thức về thời gian vô hạn và kiếp
người hữu hạn. Cái đáng quý nhất của con người là cuộc sống cho nên phải tranh
thủ chớp lấy từng khoảnh khắc để sống. Ý kiến khác cho rằng Xuân Diệu yêu tha
thiết, yêu say đắm cuộc sống nên rất sợ mất nó. Trong khi yêu, Xuân Diệu đã cảm
thấy tình yêu đang mất nên luôn ở trong tâm trạng hoảng hốt, lo âu, chợt vui, chợt
buồn. Chính vì vậy nên dù là yêu cảnh hay yêu người, Xuân Diệu cũng đều ngấu
nghiến, vồ vập, vội vàng.
“Cái tôi” của tác giả trong bài thơ này được thể hiện ở hai trạng thái đối lập mà
thống nhất của tâm hồn: lúc mãnh liệt đến cuồng si, lúc lại da diết, lắng sâu. Đọc kĩ
bài thơ, chúng ta sẽ nhận ra diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình: lúc phơi phới
yêu đời, lúc sôi nổi, cuồng nhiệt như núi lửa phun trào, lúc lại bâng khuâng, lo
lắng.

Vội vàng tuy là bài thơ trữ tình nhưng nó lại chứa đựng một triết lí sống cụ thể. Kết
cấu bài thơ có thể chia làm hai phần, được phân cách bằng câu thơ ngắn: Ta muốn
ôm. Phần trên nghiêng về trình bày những lí lẽ vì sao lại phải sống vội vàng ? Thái
độ sống ấy xuất phát từ nhận thức và quan niệm về hạnh phúc trần gian, thời gian
và tuổi trẻ. Theo Xuân Diệu thì cuộc sống trần thế giống như một thiên đường kì
thú với bao nguồn hạnh phúc dành cho con người. Nhưng những cảnh sắc ấy chỉ
thực sự mang vẻ đẹp thần tiên trong buổi xuân thì của nó và con người chỉ tận
hưởng được những lạc thú khi còn trẻ; trong khi đó tuổi trẻ lại vô cùng ngắn ngủi.
Thời gian có thể cướp đi tất cả. Vậy chỉ có một cách là chạy đua với thời gian, là
phải vội vàng mà sống. Đây là một triết lí tích cực và tiến bộ.

Phần dưới của bài thơ thể hiện những hành động vội vàng của nhân vật trữ tình
trong khi hưởng thụ vẻ đẹp của đời. Nội dung cảm xúc thể hiện rõ ở những hành
động vồ vập, ở trạng thái chếnh choáng của một “cái tôi” đang muốn tận hưởng
thật nhiều hương sắc của khu vườn trần thế. Hai phần này chuyển tiếp rất tự nhiên
về cảm xúc và rất chặt chẽ về luận lí. Nó khiến cho bài thơ liền mạch và hoàn
Chỉnh, giống như một dòng chảy ào ạt, tự nhiên của tâm trạng. Đây chính là thành
công đáng kể của bài thơ.

Bốn câu ngũ ngôn mở đầu đoạn hai nêu lên ý tưởng táo bạo, dị thường đến mức
như nghịch lí:

Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
 Cho hương đừng bay đi.
Nhà thơ muốn đoạt quyền của tạo hóa, đảo ngược quy luật tự nhiên. Muốn tắt nắng
đi, muốn buộc gió lại, cái ham muốn lạ lùng ấy hé mở cho chúng ta thấy
lòograve;ng yêu bồng bột, vô bờ của nhà thơ đối với con người, cuộc sống, với thế
giới thắm sắc đượm hương đang trải rộng trước mắt. Dường như Xuân Diệu đã chỉ
cho chúng ta thấy rõ cái nghiệt ngã của tạo hóa để rồi sau đó từ từ lí giải lẽ sống
vội vàng của mình.

Trước hết, thiên nhiên và cuộc sống được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách
riêng. Với nhà thơ, đây là một thiên đường trên mặt đất. Cái thiên đường đầy
hương sắc đó hiện ra trong bài thơ vừa như một khu vườn tình ái

của vạn vật đương buổi xuân thì, vừa như một người tình đầy quyến rũ. Xuân Diệu
cảm nhận thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Xung quanh nhà thơ, cảnh vật tưng bừng, rạo rực một sức sống đang lên, đầy hấp
dẫn, lôi cuốn, khiến không ai có thể thờ ơ:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;


Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tất cả tình và cảnh trong đoạn thơ này được tác giả miêu tả rất cụ thể: Tuần tháng
mật của ong bướm, muôn hoa xuân nở rộ khoe sắc, khoe hương trên đồng nội xanh
rì. Chồi non, lộc nõn cành tơ phơ phất, khúc tình si rộn rã của yến anh, ánh sáng
chớp hàng mi. Đoạn thơ như tiếng reo vui hồn nhiên của đứa trẻ ngây thơ lạc vào
khu vườn đầy hương sắc, rộn rã, tưng bừng bàn nhạc đủ mọi thanh âm. Đối với
Xuân Diệu, mỗi ngày mới là một niềm vui mới và cuộc đời tưởng như là chuỗi vui
vô tận: Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.

Điệp từ này đây lặp lại tới năm lần, như nhấn mạnh từng nét đẹp của vườn xuân,
như giới thiệu sự phong phú bất tận của thiên nhiên với niềm hào hứng lạ thường,
để rồi đi đến một so sánh rất độc đáo: Tháng giêng ngon như một cặp môi
gầnXuân Diệu có lối diễn tả tinh tế bằng sự chuyển đổi cảm giác, ông không nói
tháng giêng đẹp mà nói tháng giêng ngon để đặc tả một sức sống mơn mởn, non tơ,
quyến rũ. Là thi sĩ của tình yêu nên Xuân Diệu thấy giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và
vẻ đẹp thiếu nữ đương xuân có những nét tương đồng.

Hai khổ thơ liên kết chặt chẽ với nhau. Thi sĩ muốn tắt nắng đi, muốn buộc gió lại
chính là để lưu giữ mãi mãi hương sắc của vườn xuân trần thế. Nhưng tiếc thay, vẻ
đẹp ấy chỉ rực rỡ lúc xuân thì, mà xuân thì lại vô cùng ngắn ngủi. Nhà thơ đang
hân hoan đón nhận vẻ đẹp tuyệt vời mà tạo hóa ban cho
muôn loài thì bỗng chốc niềm vui tan biến, thay vào đó là nỗi ngậm ngùi trước
hiện thực phũ phàng:

Xuân đương tới; nghĩa là xuân đương qua,


Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Theo quan niệm của nhà thơ thì mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là những gì đẹp
nhất, “là những phần ngon nhất của cuộc đời”. Thiên nhiên đẹp nhất lúc xuân sang;
đời người đẹp nhất tuổi xuân thì; tình yêu đẹp nhất khi đi đôi với tuổi trẻ. Nhưng
trớ trêu thay là tạo hóa – đấng vô hình sáng tạo ra cái đẹp và cũng lạnh lùng huỷ
diệt cái đẹp. Mùa xuân và tuổi trẻ đều vô cùng ngắn ngủi. Thời gian sẽ cuốn trôi
hết thảy: Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân
sẽ già. Cho nên con người phải vội vàng tận hưởng mọi sắc màu cùng hương thơm,
mật ngọt của đời.

Xưa nay, quan niệm về thời gian gắn liền với sự tuần hoàn của bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn quay liên tục hết
một vòng lại trở về điểm xuất phát, cứ trở đi trở lại mãi mãi như thế. Mà đã là vòng
tuần hoàn thì những thời khắc, thời đoạn của nó có ra đi rồi cũng sẽ quay trở về.
(Xuân đi thì xuân sẽ quay lại). Quan niệm đó xuất phát từ cái nhìn, lấy quy luật vũ
trụ làm thước đo thời gian.

Xuân Diệu lại quan niệm rằng thời gian như một dòng chảy xuôi chiều một đi
không trở lại, mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là sự sống của đời người sẽ vĩnh
viễn mất đi một ít. Tức là lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của con người để đo đếm
thời gian. Thậm chí, lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong đời người là tuổi
trẻ để làm thước đo. Cách cảm nhận về thời gian như vậy xuất phát từ ý thức sâu
xa về giá trị của sự sống cá nhân, mỗi khoảnh khắc đều vô cùng quý giá. Nó quý
giá chính vì một khi đã trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm ấy khiến cho
conngười phải biết quý từng giây phút của cuộc đời và biết làm cho mỗi khoảnh
khắc của đời mình cần phải tràn

đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là nguyên nhân sâu xa của thái độ
sống vội vàng. Xuân Diệu cảm nhận rằng thời gian và tuổi trẻ một đi không bao
giờ trở lại, cho nên đã chua xót phủ nhận: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn rất biện
chứng về vũ trụ, về thời gian:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,


Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Xuân Diệu đồng nhất mùa xuân với tuổi trẻ và tình yêu, cho nên ông ngậm ngùi
than: Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Nhà thơ cảm thấy đời người quá ngắn
ngủi trước thời gian và không gian vĩnh cửu:
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Câu thơ như một tiếng thở dài u hoài, tiếc nuối. Quy luật thiên nhiên giờ đây đã trở
nên đối kháng với con người:

Lòng tôi rộng… / lượng trời cứ chật,


Xuân vẫn tuần hoàn… / tuổi trẻ chẳng hai lần thấm lại,
Còn trời đất… / chẳng còn tôi mãi.

Vì thế, cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận về sự mất mát. Mỗi
khoảnh khắc trôi qua là một phần đời vĩnh viễn mất đi:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,


Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu.
Mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như
một cuộc chia li vĩnh viễn. Và thời gian được coi như một dòng chảy vô tận của
những mất mát, cho nên thời gian thấm đẫm hương vị của chia phôi. Khắp sông
núi là những lời than thầm tiễn biệt của vạn vật. Sâu xa hơn là mỗi một sự vật dang
ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Tâm trạng phức tạp đã chi phối
cách nhìn, cách nghĩ của Xuân Diệu cho nên giữa tươi xanh thi sĩ đã nhìn thấy màu
héo úa; giữa hiện tại đã thấp thoáng quá khứ, giữa sum họp dã có mầm mống chia
li:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,


Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sữa ?

Cảm nhận của Xuân Diệu về thời gian, không gian thật lạ. Dường như cái chất vui
tươi, trẻ trung của thiên nhiên không còn nữa: tháng năm rớm vị chia phôi, sông
núi than thầm tiễn biệt, gió xinh hờn vì phải bay đi, chim đứt tiếng reo thi vì sợ độ
phai tàn sắp sửa…

Thời gian được cảm nhận bằng khứu giácmùi tháng năm, thời gian được hình dung
là hương hoa – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại, cho hương đừng bay đi.
Nhà thơ đã cảm nhận sự trôi chảy vô tình của thời gian bằng tất cả các giác quan.
Mỗi khoảnh khắc thời gian đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ.

Không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể níu kéo thời gian, thì chỉ
có một cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, phải tranh thủ sống, vội vàng
mà sống:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…


Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Đó cũng là bi kịch của đời. Dù cuộc đời đầy bi kịch nhưng khu vườn trần thế vẫn
hết sức hấp dẫn đối với con người – nhất là những người đa cảm, đa tình như Xuân
Diệu. Cho nên thi sĩ càng hối hả, vội vàng tận hưởng khi Mùa chưa ngả chiều hôm
(nghĩa là khi tiết xuân và tuổi trè vẫn còn đang độ).

Câu thơ não nuột, tuyệt vọng: Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa đã khép lại
phần lí giải cho lẽ sống vội vàng của Xuân Diệu và mở ra phần biểu hiện của hành
động vội vàng:

Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;


Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu;
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Đoạn thơ như là lời tình tự của thi sĩ với thiên nhiên, với sự sống bằng những cảm
xúc và ham muốn mỗi lúc một si mê, cuồng nhiệt. Chỉ có thế mới diễn tả hết được
khát vọng sổng mãnh liệt của thi sĩ.

Cảm hứng thơ như những đợt sóng đại dương mỗi lúc một dâng cao. Sự kết hợp
hài hòa đến mức tài tình giữa âm thanh, hình ảnh, từ ngữ trong đoạn thơ đặc tả sự
cuồng nhiệt của tình yêu cuộc sống. Tình yêu ấy làm sống dậy vẻ tươi đẹp, đầy
sinh khí của thiên nhiên. Điệp ngữ ta muốn khẳng định khát khao cháy bỏng muốn
ôm trọn cả vũ trụ trong vòng tay âu yếm muôn đời. Mỗi lần điệp ngữ đó xuất hiện
là lại đi liền với một động thái yêu đương, càng lúc càng mạnh mẽ, đếm say: ôm cả
sự sống, riết mây đưa và gió lượn, say cánh bướm với tình yêu, thâu trong một cái
hôn nhiều…

Khát khao gắn bó, yêu thương và giao hòa với thiên nhiên, với con người và cuộc
sống thôi thúc nhà thơ, đẩy cảm xúc thơ lên tới tột đỉnh. Thi sĩ muốn được thưởng
thức đầy đủ, trọn vẹn tất cả vẻ đẹp của vườn đời đầy hoa thơm trái ngọt:

Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,


Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Ta thấy Xuân Diệu như con ong đã hút mật no nê, như một tình nhân dang tràn trề
hạnh phúc. Niềm khao khát vô biên được tận hưởng hạnh phúc đắm say bộc lộ qua
những động từ quyết liệt, táo bạo, gây ấn tượng mạnh với người đọc.
Phải nói rằng cách thể hiện tâm trạng của Xuân Diệu trong bài thớ Vội vàng là rất
mới, rất lạ, rất Xuân Diệu, xưa nay chưa từng có. Cách dùng từ ngữ, hình ảnh thật
táo bạo. Táo bạo nhưng đặc sắc, tài tình bởi chỉ có thể nói bằng cách ấy mới bày tỏ
hết sự nồng nàn say đắm của lòng yêu. Bài thơ như lời giục giã yêu đương, lời kêu
gọi tuổi trẻ hãy sống cho sôi nổi và mãnh liệt.

Xuân Diệu yêu đời, tha thiết gắn bó với cuộc sống. Thi sĩ đã hào hứng khẳng định:
Sự sống chẳng bao giờ chán nản. Ông thèm hưởng thụ và biết hưởng thụ mọi cái
đẹp, cái vui của cuộc sống và qua thơ, ông dâng tặng những của cải tinh thần quý
báu đó cho mọi người. Nhà thơ giúp chúng ta khám phá ra chân giá trị của cuộc
đời mà nếu sống hời hợt, nông nổi thì khó nhận ra được. Sự sống trong thơ Xuân
Điệu phong phú và đa dạng. Đó là mùa xuân, tuổi trẻ, t&igrigrave;nh yêu; là thế
giới muôn hình muôn vẻ, tràn đầy niềm vui và ánh sáng. Chính vì thế, Xuân Diệu
và thơ tình Xuân Diệu mãi mãi thuộc về tuổi trẻ – những con người sống để yêu
thương.

Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Vội Vàng
Đề bài: Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ Vội Vàng
Khao khát giao cảm với đời, ham muốn sống mãnh liệt trong tuổi trẻ và tình yêu là
đặc điểm của thơ Xuân Diệu. ở mỗi sáng tác, mỗi vần thơ của ông ta đều thấy chất
Xuân Diệu ấy. Chẳng thế mà trong “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh đã nhận xét:
“ Thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ
này”. Vậy nên Xuân Diệu được coi là “ nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Đặc biệt là bài “Vội vàng”-một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu cũng
thể hiện điều đó. Cả bài thơ là niềm khao khát, giao cảm với đời.Cốt lõi của giao
cảm ấy chính là quan niệm về thiên đường nơi trần thể được thể hiện rõ nét qua
khổ thơ:

Ta muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất

Ta muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

…….

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn
học Việt Nam hiện đại. Với công trình nghiên cứu nổi tiếng “Thi nhân Việt Nam”,
ông đã để lai trong lòng độc giả những ấn tượng sâu sắc về những đặc trưng, nổi
bật của các nhà thơ mới và phong trào thơ mới. Đối với Xuân Diệu từ đây ông
được biết đến là “ nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” hay chính là người “
xây dựng trên đất một tấm lòng trần gian” (Nguyễn Đăng Mạnh). Có lẽ đó là bởi
Xuân Diệu luôn có khao khát mãnh liệt với cuộc đời. Chính vì thế mà “ Thơ Xuân
Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”. Trước
Xuân Diệu chưa từng có nhà thơ mới nào ca ngợi về cuộc sống hay và nhiêu như
thế. Sau Xuân Diệu cũng chưa có nhà thơ nào viết xuất sắc như thế vê cuộc đời.
Đọc thơ Xuân Diệu ta cảm nhân được một“ nguồn sống dạt dào”, mạnh mẽ, một
phong cách sống cuống quýt, vội vàng. Bởi thời gian thì một đi không trở lại, mà
trần gian chính là thiên đường vậy nên “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về
hạ giới”.

Nhà thơ lãng mạn người Pháp Bô-đơ-le đã từng nói “ Ôi đau đớn! ôi đau đớn! thời
gian ăn cuộc sống”. Đối với ông, sự vận động của thời gian là một niềm đau đớn.
Thế nhưng, trước sự vận động của thời gian Xuân Diệu chỉ thể hiện nỗi cuống
quýt, vội vàng trước thời gian không đứng đợi.
Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mấtcó thể nhận thấy nhà thơ miêu tả bướm ong đang sống
trong tuần tháng mật, cành xuân thì thành cành tơ đầy sức sống, tiếng hát của yến
anh cũng thành điệu tình si rộn ràng. Tất cả vạn vật đều đang trong trạng thái hạnh
phúc. Và táo bạo nhất là cách so sánh “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
thật gần gũi và gợi cảm. Dưới con mắt “xanh non” của thi sĩ, mùa xuân tựa như
một cô gái kiều diễm, hồng hào,tình tứ đầy hấp dẫn.

Nếu trong “Một thời đại thi ca” Thế Lữ,Tản Đà nuôi giấc mộng lên tiên thì Xuân
Diệu-nhà trí thức Tây học trẻ lại “ đốt cảnh bông lai xua ai nấy về hạ giới”. Bởi
trần thế mới là nơi đẹp nhất. Khu vườn mùa xuân này giống như một thiên đường
mà ai cũng mong muốn được tận hưởng. Cái hấp dẫn, cái lãng mạn của thơ Xuân
Diệu chính là ở chỗ đó. Như vậy, ở phần đầu bài thơ, bằng cặp mắt”xanh non biếc
rờn”, Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời và vạn vật có nhiều điểm khác biệt so với các
nhà thơ cũ. Thi sĩ đã phát hiện cuộc đời trần thế đẹp đẽ và hấp dẫn biết bao. Thế
nhưng không ai có thể sống mãi để tận hưởng mọi lạc thú, năm tháng chảy trôi tuổi
xuân thì một đi không trở lại.

Như vậy ,Xuân Diệu đã vẽ lên trước măt người đọc cả thế giới sống động, thể hiện
“nguồn sống dạt dào”. Bởi thể, nhận định của Hoài Thanh là hoàn toàn đúng đắn
khi đã đánh giá chính xác một trong những đặc điểm nổi bật của thơ Xuân Diệu
trước cách mạng th&aacaacute;ng Tám. Đó là tấm lòng của con người nặng tình
với cuộc đời, luôn khao khát gắn bó với đời. Khổ thơ đâu tiên này là điểm xuất
phát để từ đó nhà thơ trình bày những quan niệm về thời gian và triết lí sống vội
vàng ở khổ 2 và 3.

Xuân Diệu là một hồn thơ yêu đời và tài hoa. Thi sĩ đã vẽ lên trong tâm tưởng
người đọc một bức tranh thiên nhiên nơi trần thế tuyệt đẹp. Đó chính là “nguồn
sống dạt dào” mà nhà thơ đã truyền cho mỗi chúng ta. Đọc thơ Xuân Diệu giúp ta
có cái nhìn mới mẻ về cuộc đời, cho ta niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Chính
thế đã làm nên những giá trị lớn lao trong thơ Xuân Diệu.

You might also like