Professional Documents
Culture Documents
Tây tiến
Tây tiến
Mở đầu bài thơ Tây Tiến nhà thơ đa tài ấy đã cất lên những
nỗi nhớ thương tại Phù Lưu Chanh. Dù không ở Tây bắc nhưng
hồn nhà thơ như nhớ lại biết bao nhiêu là kỉ niệm đẹp và nỗi
nhớ ấy như một sự chứng minh cho sự trân trọng của nhà thơ
cho những năm tháng gian nan mà hào hùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hình ảnh con sông Mã gắn liền với những kỉ niệm của đoàn
binh Tây Tiến. Sông Mã xa rồi Tây Tiến cũng xa rồi chỉ còn
mình nhà thơ và nôi nhớ đồng đội. Tiếng ơi kết hợp với “chơi
vơi” giống như một tiếng gọi tha thiết. Đồng thời nó cũng làm
cho những kỉ niệm kia dội vào không gian như đánh thức biết
bao nhiêu là niềm vui nỗi buồn sự khổ cực. Nhớ rừng núi Tây
Bắc nhà thơ lại nhớ đến những địa danh như Saì Khao, Mường
Lát. Hai địa danh ấy gắn liền với những cuộc hành quân của
họ. Đoàn quân Tây Tiến phải ra đi từ lúc còn tờ mờ sáng và về
lúc đêm tối đã bủa vây. Tiếng “hơi” kia để chỉ cái đêm nhẹ sau
những cuộc hành quân vất vả hay nó chỉ hơi sương đã buông
xuống cả khu rừng. Hình ảnh hoa về là những người chiến sĩ
hay cũng chính là những bó đuốc trong đêm sáng rực.
Nhà thơ tiếp tục nhớ đến những phút giây hành quân vượt qua
mọi khó khăn của địa hình. Một bức tranh thiên nhiên tây bắc
hùng vĩ hiện lên thật sự rất đẹp:
Bốn câu thơ như điểm sáng của bài thơ khi vừa thể hiện được
vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc vừa thể hiện được ý chí
cao ngất không chịu lùi bước khuất phục của những người
chiến binh Tây Tiến. Ba câu thơ đầu hầu như là vần trắc khiến
cho câu thơ khi đọc lên cũng mang đầy những trúc trắc. Điều
đó thể hiện sự gian nan khó khăn mà Tây Tiến phải vượt qua
trên chiến trường. Từ láy “khúc khuỷu” thăm thẳm như lột tả
hết độ cao độ sau của núi rừng Tây bắc. Thế nhưng người lính
Tây Tiến vẫn kiên cường vượt qua để cho ngọn súng kia
dương cao như chạm mây ngửi trời. hình ảnh nhân hoá ấy làm
cho cây súng của chiến binh Tây Tiến dũng mãnh hơn biết
nhường nào. Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống thế mà
không biết một ngày những người lính ấy phải len bao nhiêu
lần và xuống bao nhiêu lần. Thế rồi nhà thơ bất ngờ kết thúc
bằng một câu toàn văn bằng thể hiện sự êm ả sau những trận
đánh hành quân ấy. Sau những giây phút kiên cường chống lại
những khẩu súng viên đạn của địch thì các chiến sĩ lại được về
với tình dân quân ấm áp, những trận mưa như làm cho tâm
hồn con người trở nên thanh bình hơn.
Sự hi sinh của những người Tây Tiến cũng được tác giả nói
giảm nói tránh đi để nhường lại cho những nỗi nhớ và tránh
những mất mát đau buồn:
Không nói là hi sinh cũng không nói là chết mà nhà thơ nói là
dãi dầu, buồn nên không bước nữa. Qua cách nói như vậy ta
cũng thấy được những người Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Họ sẵn sàng hi sinh để đổi lại một đất nước sạch
bóng quân thù. Những người chiến binh cứ thế gục lên súng
mũ bỏ quên đời. thế nhưng cái bỏ quên ấy lại làm nên một đất
nước hôm nay. Thiên nhiên Tây bắc lại hiện lên với hình ảnh
của thú dữ. giọng thơ như hóm hỉnh khi nói cọp trêu người.
sau bao vất vả người lính Tây Tiến lại về với Mai Châu thơm
nếp xôi.
Trong những tháng năm ấy Quang Dũng không chỉ được sống
trong tình bè đông chí mà còn được sống trong tình quân dân
thắm thiết vui tươi.
Trước hết là cảnh cùng nhau liên hoan văn nghệ với những
người con gái Viên Chăn xinh tươi e ấp:
Cả doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, từ “kia” thể hiện sự ngạc
nhiên của người chiến sĩ trước vẻ đẹp của những người con
gái Lào trong trang phục xiêm áo truyền thống. Những tiếng
khèn cất lên thì nàng bắt đầu e ấp múa. Tiếng nhạc điệu múa
ấy như gửi về Viên Chăn thủ đô thương nhớ của Lào. Các
chiến sĩ như được thả mình vào trong những giây phút vui vẻ
của hội thế.
Thế nhưng cuộc vui nào cũng có chia tay và người chiến sĩ
Tây Tiến sau những phút giây vui vẻ ấy lại phải lên đường làm
nhiệm vụ:
Tây Tiến ra đi trong chiều sương, cái không gian ấy như thể
hiện cho bao nhiêu gian nan mà các anh sắp phải đối mặt, cái
không gian ấy cũng nói lên tâm trạng của kẻ ở người đi buồn
thương tiếc nuối. Người ra đi thiên nhiên cũng buồn, lau như
có hồn mà nẻo bến bờ rũ xuống như ngả chào người chiến sĩ.
Người ở lại buồn chèo thuyền độc mộc đưa các anh qua sông.
Những dòng nước lũ với hoa trôi đong đưa. Cảnh vật cũng như
có hồn,có thần biết buồn biết thương cho những người chiến
sĩ.
Khổ thơ tiếp theo Quang Dũng miêu tả đến những đồng chí
trong đoàn quân Tây Tiến ấy:
Tất cả những nét ngoại hình ấy cho ta thấy được những gian
nan vất vả mà người Tây Tiến phải trải qua. Không mọc tóc la
do điều kiện chiến tranh rừng thiêng nước độc làm cho các
chiến sĩ rụng hết tóc hay là do chính các chiến sĩ cạo trọc đi
để tiện cho chiến đâu. Quân xanh kia là màu áo, màu ba lô
con cóc mũ tai bèo hay là sự xanh xao do thiếu thốn. Tóm lại
dù hiểu theo cách nào thì nhà thơ cũng muốn người đọc thấy
được đoàn quân Tây Tiến tuy ốm nhưng không yếu vẫn dữ như
chúa tể của muôn loài. Hình ảnh mắt trừng như thể hiện được
những cái tức giận của các chiến sĩ với kẻ thù mong muốn
biên giới sạch bóng quân thù. Hay hình ảnh mắt trừng ấy cũng
là không ngủ được khi mơ về những dáng kiều thơm của Hà
Thành. Câu thơ ấy được coi là mộng rớt buồn rơi, vì thế mà có
thời Tây Tiến đã bị cấm nhưng về sau chính giá trị của nó đã
làm nên sức sống đến ngày hôm nay.
Trong trận chiến ác liệt ấy không biết bao nhiêu người chiến
sĩ Tây Tiến đã hi sinh, nhưng họ sống đã đẹp chết đi cũng tác
vào lịch sử những nét đẹp về bức tượng đài bất hủ:
Họ hi sinh nhưng không được chôn cắt đàng hoàng bởi chiến
tranh người chết như ngả dạ. Chính vì thế mà rải rác biên
cương là những nấm mộ tuềnh toàng sơ sài khắp nơi. Thế
nhưng họ đã quyết chí lên đường thì không hề tiếc thời trai
trẻ. Họ sống có lý tưởng vững chắc. Và khi họ mất đi một
mảnh chiếu che người cũng trở thành áo bào để anh về với cát
bụi. Con sông mã gầm lên như thể hiện nỗi tiếc thương những
người chiến sĩ ấy. Có thể nói nhà thơ đã sử dụng những từ hán
việt làm sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng
hơn. Và thành công của Quang Dũng là đã xây dựng lên bức
tượng đài bất hủ của người lính bằng thơ. Và giờ đây khi lên
Tây bắc thì hồn về Sầm Nứa nơi có những kỉ niệm những đồng
đội chứ không về xuôi.
Như vậy qua đây ta thấy Quang Dũng đã bày nỏ lòng nhớ
nhung vô hạn đến đơn vị cũ của mình. Tây Tiến cái tên ấy sẽ
chẳng bao giờ bị lu mờ bởi thời gian mà nó cứ mãi sáng chói
bất hủ trong lòng mỗi con người. Những lí tưởng, những hi
sinh của họ sẽ luôn là công lao lớn cho dân tộc.
Tây Tiến
Những thi phẩm viết về người lính trong kháng chiến thường ngân lên trong lòng người đọc
nhiều rung động. Khó có thể quên được Đồng Chí của Chính Hữu hay Nhớ của Hồng Nguyên,
nhưng thi phẩm mà bóng dáng của nó đi về hơn 60 năm nay, gần gũi và kiêu hùng trong lòng
người đọc phải là bài thơ Tây Tiến. Ấn tượng sâu đậm nhất mà bài thơ để lại là chất thép của
những người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ thứ 3.
Đến với thơ ca kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng là một gương mặt thơ riêng biệt với phong
cách thơ hồn hậu, phóng khoáng và rất đỗi hào hoa. Thơ của ông vừa có cả cái bồng bềnh, lãng
mạn của một con người xứ Đoài mây trắng và cũng có cả nét tinh tế, thanh lịch của người Hà
Nội. Về bài thơ Tây Tiến, có ý kiến cho rằng: “Nếu phải Kể tên 10 tác giả nổi tiếng trong thời kỳ
này thì chưa hẳn đã có Quang Dũng, nhưng nếu phải kể tên 10 thi phẩm tiêu biểu trong thời kỳ
này thì chắc chắn có Tây Tiến. Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội thành lập nhằm phối hợp với bộ
đội Lào để đánh tiêu hao lực lượng Pháp và biên giới Việt-Lào. Lính Tây Tiến phần đông là học
sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, tràn đầy nhiệt huyết.
Quang Dũng cũng là lính Tây Tiến. Năm 1948, khi đã rời xa Tây Tiến, Quang Dũng nhớ và viết
bài thơ này như tạp một bức họa, gieo một khúc ca vào thơ ca Việt Nam về hình tượng người
lính. Tây Tiến là một khúc ca ngân dài, đặc tả vẻ đẹp những tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của
những chàng trai chốn Hà Thành. Dù chặng đường hành quân của họ luôn phải đối mặt với hiểm
nguy, cái chết nhưng những anh lính Tây Tiến vẫn luôn giữ vững một trái tim thép, một tấm lòng
thép. Đó là chất thép của những người chiến sĩ cách mạng mà Quang Dũng gửi gắm vào hồn thơ
của ông.
Nếu ở hai khổ thơ trước đó, bằng bút pháp bi tráng và cảm hứng lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện
thành công bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội, làm bệ đỡ hoành tráng để từ đó ca ngợi
vẻ đẹp tư thế tinh thần của những người lính Tây Tiến thì ở đoạn thơ này, nhà thơ tiếp tục khắc
họa bức tượng đài tập thể mang tên anh lính Tây Tiến với chất thép rắn rỏi, gân guốc. Tác giả Hồ
Chí Minh đã từng bày tỏ quan điểm sáng tác của mình như sau:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Hồ Chí Minh xem văn học là thứ vũ khí lợi hại để phụng sự cho sự nghiệp cách mạng, nhà văn
phải là chiến sĩ xung phong, tạo nên chất thép trong chính ngòi bút của mình. Chính vì lẽ đó, chất
thép trong thơ của các tác giả, kể cả Quang Dũng, đều hướng đến tinh thần chiến sĩ, tinh thần
cách mạng để đưa thi ca nói riêng và văn học nói chung thành vũ khí chiến đấu.
Hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ như là một thước phim quay chậm, chụp gần chân dung của
những người lính Tây Tiến nhưng không dừng lại ở một gương mặt cụ thể nào mà cả đoàn quân
ấy hiện lên trong một chân dung chung nhất với vẻ bề ngoài lạ lẫm:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cách nhà thơ gợi nhắc về đồng đội thật đặc biệt, Quang Dũng viết: “Tây Tiến đoàn binh”. Lỗi nói
đảo ngữ kết hợp với từ Hán-Việt khiến cho ngoại hình của người lính Tây Tiến hiện lên trong tư
thế hùng dũng, rắn rỏi hơn, kiêu hãnh hơn và đầy khí thể xung trận. Người đọc ấn tượng mạnh về
ngoại ngoại hình của người lính bởi chi tiết “không mọc tóc”. Không mọc tóc là bằng chứng của
sự gian khổ, là kết quả của những tháng ngày dầm dề mưa gió với những cơn sốt rét rừng hành
hạ. Tác giả Trần Lê Văn từng nhận định như sau: “Lính Tây Tiến đánh trận tử vong thì ít nhưng
tử vong vì sốt rét rừng thì nhiều”. Đây là góc nhìn hiện thực trực diện, thẳng thắn mà Quang
Dũng đem vào thơ. Có nhiều nhà thơ đã nói về hiện thực ấy, với Chính Hữu đó là cái nhìn mộc
mạc và hiền lành:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.“
Với nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, đó là cái nhìn tê tái:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”
Còn Quang Dũng thì lại nhìn hiện thực ấy bằng cái nhìn ngang tàng, ngạo nghễ, coi thường hiểm
nguy. Cách nói không mọc tóc gợi một tư thế chủ động cứ như thể không cần, không thèm có tóc
vậy. Thậm chí khi tóc không thể mọc được nữa, họ tự cạo trọc đầu để thuận tiện cho đời sống
chiến đấu. Đó là nét riêng hào hùng, là chất thép của hình tượng những anh lính Tây Tiến. Sau
nét vẽ về tóc, Quang Dũng phác họa ngoại hình người lính Tây Tiến với hình ảnh thơ thứ hai:
“quân xanh màu lá”. Quân xanh màu lá là làn da xanh xao vàng vọt vì sốt rét rừng hay là quân
phục xanh, là lá ngụy trang xanh? Có lẽ có lẽ là tất cả, nhưng ý thơ mà Quang Dũng muốn nhấn
mạnh phải là sự khốc liệt của hiện thực. Những cơn sốt rét rừng, những vất vả thiếu thốn của
cuộc sống chiến đấu đã khiến những người lính hào hoa Tây Tiến có vẻ ngoài rất kỳ lạ, rất “ốm”.
Ngoại hình có vẻ ốm, có vẻ tiều tụy xanh xao ấy như mờ hẳn đi khi nhà thơ đặt nét vẽ ấy trong tư
thế đối lập với thần thái, với khí chất ngút trời “giữ oai hùm”. Đây là cách nói gây ấn tượng mạnh
mẽ, nó khẳng định bên trong ngoại hình kia tiềm ẩn một sức mạnh phi thường. Hình ảnh thơ đã
tuyệt đối hóa thần thái oai phong lẫm liệt của người lính khiến câu thơ chỉ còn ấn tượng về màu
xanh của da đã hoà vào màu xanh của lá để làm nên màu xanh cứng cỏi và dạn dày khí chất. Đó
là chất thép muôn đời của dân tộc Việt Nam nói chung và những người chiến sĩ cách mạng nói
riêng. Các anh lính mang trong mình sự gân guốc,và bền bỉ. Họ chiến đấu vì Tổ quốc và bồi đắp
ý chí ấy bằng chất thép cứng cỏi trong con người mình. Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ hình
tượng người lính để hoàn thiện vẻ đẹp về ngoại hình của những chiến binh Tây Tiến. Đó là nét
đẹp phảng phất bóng dáng của những tráng sĩ khi xưa xung trận.
Sau những nét vẽ về ngoại hình, ngòi bút Quang Dũng tập trung khắc họa vẻ đẹp chân dung
người lính Tây Tiến trên phương tiện tâm hồn và khí phách:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ là vẻ đẹp của khí phách gắn liền với “chí”, là vẻ đẹp của tâm hồn gắn với chữ “tình”.
“Chí” trong ánh mắt quyết tử, trong giấc mộng lập công và “tình” trong giấc mơ lãng mạn của
những cô gái Hà thành. “Mắt trừng gửi mộng” là hình ảnh thơ đầy sự dồn nén căm uất tới mức
hóa thành nhãn lực ném về phía quân thù. Ánh mắt ấy như có lửa trong những đêm canh giữ biên
cương, có sự thách thức thầm lặng với quân xâm lược ngông cuồng dám động đến nước non này.
Sau ánh mắt ấy, người lính ôm ấp một khát vọng lập công, một giấc mộng thanh bình cho quê
hương, đất nước. Gắn liền với mộng là mơ, gắn liền với chí là tình. Nói về nỗi nhớ, về giấc mơ
của người lính là một tứ thơ quen thuộc trong thơ ca kháng chiến. Chính Hữu mộc mạc giản dị để
người lính nhớ về giếng nước gốc đa, nhà thơ Hồng Nguyên thì để người lính nhớ về:
“Luống cày đất đỏ
ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.”
Còn Quang Dũng lại để người lính nhớ về Hà Nội với dáng kiều thơm. Đó là hình ảnh thơ gợi nét
duyên dáng, thướt tha, đài các kiêu sa của các cô gái Hà Thành. Giấc mơ ấy hướng về Hà Nội, về
hậu phương vững chắc đã trở thành động lực để người lính tiến về phía trước giết giặc lập công,
ôm giấc mộng trở về quê hương với những người mình yêu thương. Các anh đã gạt đi niềm hạnh
phúc, an yên của chính mình để lên đường chiến đấu. Họ tạm gác lại những dự định, hoài bão của
bản thân, tạm xa những người thân yêu. Họ chọn cách đối diện với hiện thực, với chiến tranh
khốc liệt để giữ vững độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính Tây Tiến mang trong mình
những phẩm chất tốt đẹp mà nổi bật hơn cả là chất thép. Chất thép ấy như đã ngấm vào máu, in
đậm trong tâm trí của họ. Dũ cho chặng đường hành quân sẽ còn vô số những mối hiểm họa khác
nhưng họ vẫn luôn hiên ngang, bất diệt trước khó khăn, giữ vững tinh thần thép trước hoàn cảnh.
Đoạn thơ là sự kết hợp hài hòa của bút pháp lãng mạn và chất hiện thực, nổi bật hơn cả là chất bi
tráng - chất thép cứng cỏi của những chiến sĩ Tây Tiến. Có thể nói với 4 câu thơ này, Quang
Dũng đã tạc một bức tượng đài bất biến về chất thép của những chiến sĩ cách mạng thời kì chống
Pháp. 4 câu thơ tuy ngắn nhưng lại là điểm sáng trong tổng thể của cả bài thơ. Ở đó, hình tượng
người lính được nâng đỡ và xây dựng với vẻ đẹp hết sức hào hoa, lãng mạn nhưng cũng không
kém phần cứng rắn và bền bỉ. Chất thép ấy có thể xuất hiện trong thơ của nhiều tác giả, nhưng
với ngòi bút tài tình của Quang Dũng, chất thép trong Tây Tiến đã dẫn dắt tinh thần cách mạng
tới toàn thể dân tộc Việt Nam.
Mở bài
1. Trong một miền nhớ rộng dài, Thôi Hữu đã viết nên những vần thơ đẹp đẽ tình đồng đội trong
“Lên Cấm sơn”:
“ Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà”.
Và cũng “chơi vơi” trong miền nhớ, cũng viết về những người đồng đội cũ, Quang Dũng có lẽ đã
gặp gỡ Thôi Hữu ở những cung bậc tình cảm ấy khi ông viết “Tây Tiến”. Nhà thơ trở về với một
kỉ niệm của riêng mình, với nỗi nhớ riêng của lòng mình và cho độc giả cơ hội hành hương về
những năm tháng không thể nào quên của lịch sử dân tộc. Hình tượng người lính đã hiện lên thật
đẹp giữa thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ qua cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa của
tác giả.
2. Tình cảm là biểu hiện tâm lí của con người nói chung, nhưng ở người nghệ sĩ điều này trở nên
đặc biệt. Sóng Hồng cho rằng : “Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy
trong lòng” và Leonop, nhà thơ Nga cũng thừa nhận: “Có những đêm rất khổ, không ngủ được,
mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung, khi đó tôi viết.” Và cũng bắt đầu từ một
trạng thái “lòng tràn ngập nhớ nhung” như thế, Quang Dũng sáng tạo nên “Tây Tiến”. Tác phẩm
đã khắc họa thành công hình tượng người lính trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng
vĩ, dữ dội và mĩ lệ qua cảm
3. Khi kí ức mãnh liệt nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Như một lẽ thường, những gì đã đi
vào nỗi nhớ đều là những kỉ niệm ấn tượng mãnh liệt, sâu sắc, đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc
đời mỗi con người. Và ngược lại, những gì có giá trị khi đã đi vào miền nhớ đều có sức sống bền
lâu. Sức đồng vọng của quá khứ vào hiện tại , qua nỗi nhớ thường sống dậy hơn bởi độ sâu da
diết của nỗi lòng và bởi sự nới rộng của nỗi bâng khuâng. Và có lẽ trong hình dung của tôi, “Tây
Tiến” của Quang Dũng là minh chứng rõ nét nhất cho cái nỗi nhớ “bền lâu”, “da diết” ấy. Trong
tình cảm chơi vơi cả đất trời, tác phẩm của Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng
người lính trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ.
4. Nếu như ta bắt gặp một nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi” trong ca dao xưa, một nỗi nhớ tha thiết trong
“ Tương tư chiều” của Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em.
Anh nhớ lắm! Em ơi!” thì đến với “Tây Tiến” của Quang Dũng ta cũng lại thêm một lần nữa đắm
trong miền nhớ rộng dài. Đó là nỗi nhớ của nhà thơ với núi rừng Tây Bắc, nơi tác giả đã có rất
nhiều kỉ niệm đáng nhớ, đẹp đẽ với đồng đội và cũng nhờ nỗi nhớ ấy mà ngày hôm nay chúng ta
vẫn còn nâng niu và trân trọng “Tây Tiến” vì nó đã khắc họa thành công chân dung người lính
trên cái nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội nhưng cũng rất đỗi trữ tình.
Diễn đạt
-Khi viết về những người lính trong tác phẩm Tây Tiến-Quang Dũng, về vẻ đẹp tâm hồn cũng
như những hy sinh của họ, các bạn hoàn toàn có thể thấy điểm tương đồng trong dòng chảy thi ca
nhân loại:
Anh đứng - đất là đất
Anh nằm - đất là lăng
Dải Ngân Hà vằng vặc
Muôn đời soi quanh anh
(Sergei Orlov)
Làm sao đây bù đắp nỗi đau này,
Khi chính tôi cũng là người lính,
Ngày mai trên con đường chiến trận
Có thể rồi cũng ngã xuống như anh.
(Konstantin Simonov)
-Ví dụ khi phân tích “Tây Tiến” (đoạn thơ nói về những hy sinh của người lính) mình sẽ chọn
một đoạn thơ rất hay của Đoàn Tuấn:
“Chiều chôn bạn trong nghĩa trang quen thuộc
Đêm về hầm còn lại mỗi mình tôi
Tôi mới thấy xót xa thương bạn
Nằm bên ngoài Tổ quốc dưới mưa rơi”
hay khi phân tích về tình đồng chí đồng đội của những người lính năm xưa:
“Tuổi 18
bị thương
không khóc
nhưng lại rơi nước mắt
khi bạn bè bị thương”
---Với hai vũ khí: cây súng và cây bút, Quang Dũng đã tuyệt đối và trọn vẹn làm tròn trách
nhiệm của mình, ở những trang viết, nó là mục đích cuối cùng của một người viết văn trong ý
nghĩa chân chính của từ này. Với “Tây Tiến” nhà thơ đã dựng nên bức tượng đài người lính
một thời “hoa lửa” trong nỗi nhớ bàng bạc về những ngày đã qua...
9
-----Về "Tây Tiến" thì đừng lấy "Tây Tiến biên cương mờ lửa khói / Quân đi..." ai cũng lấy rồi thì
sáng tạo khác đi. Một số đoạn thơ khác của Quang Dũng mình thích như:
"Dọc những đường thu muôn nẻo ấy
Rất nhiều nghệ sĩ nhớ xa xôi
Đường qua gian khổ bao ngày tháng
Từng nghe thu lại ấm hương đời."
"Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?"
--Có những tác phẩm ra đời như bươm bướm nở ngày mùa, như chuồn chuồn vỡ tổ, khiến
người ta đọc xong quên ngay, đến khi cầm lại mới ngỡ như mình đọc rồi. Nhưng cũng có
những tác phẩm như dòng phù sa chảy qua tâm hồn, để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm
khảm. Và tôi tin "Tây Tiến" của Quang Dũng là một tác phẩm có được sự khắc chạm như thế
với chân dung người lính hào hùng hào hoa của một thời khói lửa.
- "Thơ là chữ nghĩa cũng không phải là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà
không hẳn vô thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ". Và "sự bộc lộ" ấy, qua
Quang Dũng, hình thành nên "Tây Tiến". Qua tác phẩm, nhà thơ "xứ Đoài mây trắng" đã cho ta
cảm nhận được về tinh thần dũng cảm và tư thế hiên ngang của những người lính Tây Tiến
trong những năm tháng "cả nước lên đường", trong những năm tháng gian khổ đau thương
nhưng cũng vĩ đại oai hùng.
Cảm hứng sáng tác trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Quang Dũng gây chú ý với “Đôi mắt người Sơn Tây” nhưng nổi bậc thành công với “Tây Tiến”.
Ông là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng hơn hết ông vẫn là
một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, tinh tế và lãng mạn.
Tây Tiến được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của
đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng
cũng rất trữ tình, thơ mộng. Tác phẩm là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong
đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến
cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ
kháng chiến chống Pháp.
Cảm hứng sáng tác trong bài thơ Tây Tiến rất đa dạng, có sự hòa quyện tài tình giữa các bút
pháp hết sức tinh tế. Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở
thành khúc ca bi tráng phản ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng
và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến.
Chất hiện thực hiện lên qua hệ thống hình ảnh phong phú, chân thực, giàu giá trị biểu đạt và tạo
hình. Người đọc không thể nào quên bức tranh núi rừng Tây Bắc trùng trùng, điệp điệp với đèo
dốc “nghìn thước lên cao”, vực sâu “nghìn thước xuống”:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Hay với rừng rậm “thác gầm thét”, “cọp trêu người” vừa kì vĩ vừa rợn ngợp:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hình ảnh người lính Tây Tiến xuất hiện trên nền cảnh dữ dội, mang vẻ đẹp hùng tráng, đủ sức
chế ngự thiên nhiên khắc nghiệt ấy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Cuộc sống con người tây Bắc nghĩa tình, hồn hậu cũng được ghi lại hết sức chân thực, đậm chất
miền cao sơn cước:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Hay những đêm hội tưng bừng bên ánh lửa, ấm áp tình cảm quân dân:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Hiện thực cuộc sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến được Quang Dũng ghi nhận, khắc
họa một cách chân, hực, sinh động. Thay vì né tránh hiện thực ấy, nhà thơ đã tìm cách biến hiện
thực khốc liệt ấy thành cái nền nâng đỡ hình tượng người lính mọt cách hài hòa và hết sức hợp
lí.
Bên cạnh bút pháp hiện thực, cảm hứng lãng mạn cũng đã được vận dụng cao độ. Cảm hứng
lãng mạn có xu hướng tô đậm cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội, những
vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lý tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực. Có thể thấy, bức tranh
thiên nhiên và hình tượng người lính đã được tô đậm, khắc sâu đến mức lãng mạn hóa. Vẻ đẹp
của thiên nhiên và cuộc sống con người với địa hình gập ghềnh, hiểm trở với núi cao, vực thẳm,
sông sâu; thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn nhưng cũng toát lên vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình với
tất cả vẻ quyến rũ, làm say lòng người. Thế nhưng, bài thơ không đánh mất chất hiện thực của
nó mà ngược lại, cái hiện thực đã được tôn vinh bằng sự phản ánh kĩ lưỡng và chi tiết đến
tường tận.
Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến được khắc họa qua những khó khăn, thử thách
không ngăn được bước chân người lính vốn là những chàng trai Hà Thành hào hoa, tinh tế;
những nét bi thương “không mọc tóc,”, “mồ viễn xứ”,… là những âm trầm trong bản hùng ca về
những con người “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình tượng tương phản,
đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Sự đối lập xuất hiện ngay chính trong nền
cảnh núi rừng thâm u, đèo cao, vực sâu, vừa là kẻ thù dữ dội, đáng sợ, vừa thân thiết, chở che
con người. Hình ảnh con người nhỏ bé khi so sánh với nền cảnh nhưng lại lớn lao ở lý tưởng, ý
chí và tâm hồn. Bút pháp đối lập đã mạnh mẽ khẳng định và tôn vinh sức mạnh chiến thắng của
con người trước thiên nhiên và kẻ thù. Chế ngự được thiên nhiên và chiến thắng chính mình để
tồn tại và chiến đấu có thể coi là chiến công đầu tiên của người lính Tây Tiến.
Cảm hứng bi tráng là nét đặc sắc trong bài thơ Tây Tiến. Cảm hứng bi tráng là sự kết hợp giữa
cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem
đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến
sỹ Tây Tiến. Nhà thơ không che giấu cái bi, nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng
một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng.
Hình ảnh người lính đậm chất bi tráng nhưng không bi lụy, não nề mà ngược lại, càng đau
thương, mất mát, họ càng trở nên mạnh mẽ, oai hùng. Người lính Tây Tiến luôn hiên ngang, bất
khuất mặc dù chịu mất mát, đau buồn. Cái chết cũng được tác giả bao bọc trong không khí
hoành tráng. Trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ tráng lệ, người lính xuất hiện với tầm vóc khác
thường. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng
hưởng với nhau để làm nên linh hồn, sắc diện của bài thơ, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của tác
phẩm.
Có một thời gian, nhiều người đọc và nhà phê bình nhìn nhận tiêu cực ở khía cạnh này. Nhưng
kì thực, nếu tước bỏ đi chất bi tráng của bài thơ, tác phẩm sẽ mất đi không khí trầm hùng, chất
say mê, không còn đủ sức khơi gợi cuộc sống và chiến đấu; ý chí và quyết tâm chiến đấu, chiến
thắng kẻ thù của người lính Tây Tiến nữa. Và tất nhiên, bài thơ cũng không còn đủ sức gây ấn
tượng đối với người đọc mọi thế hệ.
Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp
chung của nền văn học 1945 – 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã
để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng
thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu
nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào
hùng – sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.