You are on page 1of 36

Tây tiến

14 CÂU ĐẦU BÀI THƠ TÂY TIẾN


Đề bài:
Phân tích 14 câu đầu trong bài thơ “Tây Tiến”.
Bài làm
Nước chúng ta
“Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đât
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
Người lính cách mạng vẫn thường hiện lên trong ký ức những
người con đất Việt với niềm tự hào và xúc động mãnh liệt
nhất. Ta đã tìm thấy anh giữa đoàn quân trùng trùng ra trận, ta
đã nhận ra anh giữa chiến trường lửa đạn. Có người lính lam
lũ, hiền lành trong thơ Chính Hữu, có người lính sôi nổi, trẻ
trung trong thơ Phạm Tiến Duật. Nhưng chưa ở đâu, người
lính lại hài hòa bi tráng như trong Tây Tiến của Quang Dũng.
Cái can đảm, hào hùng của người lính chống Pháp sáng ngời
lên giữa âm u, khắc nghiệt của núi rừng Tây Băc, đặc biệt là
trong khổ thơ đầu.
Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 tại Phù Lưu
Chanh khi ông đã chuyển về đơn vị. Nhớ về một thời oanh liệt
đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây Tiến cháy lên
trong lòng tác giả. Đó là cảm hứng của những chàng trai Hà
Nội từ giã quê hương lên đường đi kháng chiến, đó là kí ức
của một đất nước những năm đầu Cách mạng, đất nước với
cảnh núi non hùng vĩ nơi biên cương Tây Bắc. Bài thơ ban
đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được
bỏ đi, có lẽ cũng bởi bao trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây
Tiến gian khổ, hào hùng.
Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến bằng những vẫn
thơ tươi thắm nhất của lòng mình. Hình ảnh người lính hiện
về trong hồi ức nhà thơ như một biểu tượng xa vời trong
không gian và thời gian. Kỉ niệm về người lính Tây Tiến đã
xa mà lại rất gần, để khi nhìn lại, nỗi nhớ bỗng bật ra thành
lời:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Sông mã trong ký ức Quang Dũng và những người đồng đội
là nơi xuất phát kỉ niệm, khởi đầu của một chặng đường gian
khổ, là cái gốc nỗi nhớ trong miền ký ức rất riêng của cuộc
hành quân chiến đấu những người lính năm xưa. Dòng sông
Mã ấy như một nhân chứng lịch sử đứng đó chở che, dõi theo
từng bước chân của người lính; “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng
kí ức vẫn còn rõ rệt lắm! Bao tình cảm được dồn nén vào từ
“ơi” dâng lên một dấu chấm than để mở ra bao nhiêu dạt dào
của cảm xúc nỗi nhớ. Nỗi nhớ vang vọng lên, khắc sau tình
cảm nhớ thương của người chiến sĩ năm nào. Điệp từ “nhớ” đi
liền với tính từ “chơi vơi” xoáy sâu vào tâm hồn độc giả, ào ạt
như một cái thác lũ trong ký ức Quang Dũng. Nỗi nhứo cuồn
trào trong tâm hồn nahf thơ, đẩy ông vào trạng thái hư ảo,
triền miên của ký ức, cuốn trôi ông vào núi rừng, hai trận
chiến ngày xưa để rồi khiến ông khắc khoải trong nỗi nhớ
chơi vơi. Chơi vơi! Một nỗi nhớ thật lạ lùng! Xuân Diệu hình
như cũng từng chơi vơi trong nỗi nhớ như thế:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”.
“Nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ nhẹ tênh mà nặng vô cùng, lơ
lửng, vương vấn trong tâm hồn, bao la bát ngát lại có chiều
sâu. Nếu nỗi nhớ trong thơ Xuân Diệu là tình cảm lứa đôi thì
điểm đến của nỗi nhớ trong thơ Quang Dũng là tình cảm
thiêng liêng, dữ dội dành cho mảnh đất Tây Bắc nhớ thương.
Âm hưởng của câu thơ trong cách sử dụng vần giữa “chơi
vơi” và “ơi” tạo lên một hiệu quả ngữ âm trọn vẹn. Nó lan tỏa,
ngân dài từng tiếng vọng vào vách đá để rồi vang lại vào tâm
hồn người đọc xúc cảm thiêng liêng mà Quang Dũng dành
trọn cho Tây Tiến. Cũng bằng tình cảm thiêng liêng ấy,
Quang Dùng đưa người đọc đến với những kỉ niệm đã lùi vào
quá vãng, đến với âm u khăc nghiệt của núi rừng, đến với cái
can đảm, hào hùng của người chiến sĩ.
Là người từng trải qua những ngày tháng khốc liệt chiến
tranh, hơn ai hết, Quang Dũng hiểu rõ về khó khăn, gian khổ
nơi biên cương:
“Sài Khao sượng lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Cái khắc nghiệt đầu tiên mà đoàn quân nếm trải là màn sương
dày đặc ở bản làng Sài Khao. Nó bao phủ, che mờ của đoàn
quân, nó thấm vào từng thớ thịt lạnh buột. Sượng giá khiến
đoàn quân lãnh lẽo, thấm mệt. Những khắc nghiệt của tự
nhiên không làm tinh thần người chiến sĩ nao núng. Tình yêu
nước đã khiến những chàng trai Hà thành thêm quật cường,
bất khuất, xua tan mọi giá rét, cực khổ, đẩy lùi tất thảy mệt
mỏi gian lao. Trên chặng đường hành quân xưa của Chế Lan
Viên sương giá cũng là một kí ức thấm đượm nỗi nhớ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
Chế Lan Viên với Quang Dũng đã gặp nhau ở một ý thơ, một
nỗi nhớ gọi lên trong ta cảm tưởng họ đang cùng hành quân
trên một chặng đường. Nhưng người lính đó dẫu có là ai,
chiến đấu ở đâu thì họ đều vượt qua khắc nghiệt tự nhiên rồi
bừng sáng lên vẻ đẹp hùng dũng, kiên cường. Quang Dũng là
một cây bút lãng mạn, hào hoa, cách sử dụng từ ngữ của ông
mang nhiều lớp nghĩa. Chi tiết “hoa về trong đêm hơi” tùy
theo cách hiểu của mỗi người lại mang một sắc thái độc đáo.
Đó có thể là hình ảnh người con gái Tây Bắc, cũng có thể là
sự mỏi mệt trên đường hành quân khiến người chiến sĩ hoa
mắt. Hoặc, “hoa về” là ánh sáng lấp lánh của ngọn đuốc trong
cảnh chập tối mờ hơi sương. Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh
thưo Quang Dũng vẫn thật đẹp đẽ, thi vị, sáng ngời. Câu thơ
xóa tan mỏi mệt để đoàn quân tiếp bước. Khó khăn này chưa
qua thì khó khăn khác đã đến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Ta cảm nhận được cái thô ráp, gồ ghề trong câu thưo như
chính hình thể gập ghènh, cheo leo của dốc núi. Một hiện thực
khăc nghiệt của vùng cao Tây Bắc. Bức tranh hiểm trở và dữ
dội, hoang vu và heo hút được lột tả thành công dưới ngòi bút
tài hoa của Quang Dũng. Đó là con dốc khúc khuỷu, gập
ghềnh, hiểm nguy mà đoàn quân phải đối mặt, con dốc thăm
thẳm không có điểm dừng, triền miên kéo dài như cuộc kháng
chiến chống Pháp bấy giờ. Nó cũng xa xôi như ngày đất nước
độc lập, song gian khổ không làm khó được người chiến sĩ, họ
vẫn lạc quan, quật cường vững bước. “Heo hút cồn mây” sao
mà lại lắng lặng, hoang sơ thế! Ấy vậy mà Quang Dũng vẫn
lột tả rõ nét sự tinh nghich, trử trung qua cách sử dụng nghệ
thuật nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời”. Đó là cách sử dụng từ
táo bạo, sôi nổi, lạc quan đậm chất người lính. Thử hỏi trong
cảnh gian nan, mệt mỏi ấy mấy ai còn giữ được phong thái tự
tin, yêu đời như vậy?
Bên cạnh hiểm nguy, người lính với tư thế oai phong vẫn
dũng cảm chinh phục, để đến khi đứng trên đỉnh núi cao họ
nhìn lại chặng đường gian khổ mình từng trải qua:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Một sự đối lập kín đáo trong câu thơ cũng như trong tâm hồn
người chiến sĩ. Trải qua bao thăng trầm hiểm trở anh vệ quốc
quân đã đặt chân lên đỉnh dốc. Điệp từ “ngàn dốc” mở ra một
khoảng không gian đa chiều, vừa gợi lên cái hoang sơ, vừa
đặc tả vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng Tây Bắc. Sau tất cả những
dồn dập, va vấp người chiến sĩ lắng lại một miền đất lãng mạn
“nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Thanh bằng trong từng từ
trải dài làm cả câu thơ mênh mang lắng đọng tạo nên một bức
tranh núi rừng phủ mưa trắng xóa. Vượt qua mọi gập ghênh
trước mắt, người lính bắt gặp những ngôi nhà ở Pha Luông,
được chứng kiến cuộc sống con người đang hiện hữu. Lẫn
trong màn mưa rừng bản làng hiện lên trầm mặc, lấp ló. Nếu ở
Mường Lát người lính bị sương giá làm cho lãnh lẽo thì ở đây,
đối mặt với cơn mưa rừng cái giá rét ấy còn tăng lên gấp bội.
Trên con đường hành quân khắc nghiệt, nhiều chiến sĩ đã mãi
mãi nằm lại những mảnh đất xa lạ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Những con người này đẹp lắm, dũng cảm lắm bởi họ đã làm
nên lịch sử, góp phần vào sự trưởng thành của đất nước, họ
cũng chính là những con người “sinh ra trong thời đại của anh
hùng”. Tất cả thương mến, tự hào dành cho đồng đội dường
như đã được Quang Dũng gửi gắm trọn vẹn trong từ “anh
bạn”. Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc nghiệt của thiên nhiên
núi rừng người chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng không vì thế mà
bài thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người lính ra đi trong
một tư thế rất đỗi hào hùng:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Bút pháp lãng mạn “bỏ quên đời” phần nào làm cho cái chết
không còn nặng nề, giảm nhẹ đau thương và mất mát. Quang
Dũng viết về anh như viết về một đất nước dẫu có mưa bom
bão đạn cũn không chịu cúi đầu: “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Họ là những chàng trai còn mang trong mình ước mơ
và hoài bão tuổi trẻ. Vậy mà giờ đây, họ hy sinh vì lý tưởng
chung của dân tộc. Nó lớn lao hơn tất cả mơ mộng thường
tình của chàng trai trẻ. Người lính xé toạc thanh xuân, xé toạc
cuộc đời mình để ghép vào bức tranh hòa bình đất nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả”
Họ ra đi sôi sục, ngạo nghễ, họ chiến đấu vì quê hương nên
cái chết cũng nhẹ nhàng như về với đất mẹ. Bao nhiêu sự hi
sinh là bấy nhiêu sự hào hùng, can đảm ta được chứng kiến:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Họ đã sống, đã chiến đấu xứng đáng với quê hương, đất nước.
Họ hiên ngang, đường hoàng khi ra trận và cũng hào hùng khi
ngã xuống cũng bởi:
“Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu”.
Họ vì ai mà ngã xuống? Vì giang sơn, vì đọc lập, vì tự do của
nhân dân Việt Nam anh nguyện hiến dâng tính mạng thực
hiện lý tưởng cao đẹp ấy. Người chiến sĩ nằm lại nhưng đồng
đội anh vẫn tiếp bước. Khó khăn gian khổ vẫn còn:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mương Hịch cọp trêu người”.
Cảnh chiều tà luôn khiến lòng người chứa than nỗi niềm tâm
sự. Giữa núi rừng hoang sơ cạnh anh là những người đồng đội
xa quê chất chứa nỗi nhớ quê hương. Khó khăn vất vả cộng
hưởng nỗi nhớ nhà để khiến người ta nhụt chí nhưng với anh
lính Tây Tiến nó không những không ngăn được lý tưởng
cách mạng, ngược lại còn là động lực thôi thúc anh mạnh mẽ
hơn, can đảm hơn. Hai câu thơ gieo vào lòng người đọc tất cả
khắc nghiệt và dữ dội về một miềm đất âm u, khắc khổ. Địa
danh “Mường Hịch” được sử dụng rất khéo, rất tài tình, nó
nghe nặng nề đáng sợ như bước chân thú dữ khiến cảnh sắc
núi rừng trở nên thật hoang sơ lạnh lẽo. Rừng núi trùng diệp
nhưng cũng khắc nghiệt biết bao!
Tưởng rằng những khó khăn, gian khổ kia sẽ làm mờ đi trong
tâm hồn những chàng trai trẻ Hà Nội nét hào hoa, lãng mạn
vốn có. Nhưng không, nét hào hoa, lãng mạn vẫn chẳng hề
mất đi dọc cuộc hành trình:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Hai tiếng “nhớ ôi” thốt ra bằng tất cả nỗi niềm kìm nén. Lắng
đọng lại những kỉ niệm tình người ấm áp, tình quân dân đằm
thắm qua những bản làng dọc đường hành quân. Sau bao
nhiêu gian khổ khắc nghiệt núi rừng Tây Băc, người chiến sĩ
dừng lại Mai Châu. Quây quần bên nồi xôi nếp mới với các cô
gái bản làng xinh đẹp khiến bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn bỗng
chốc được xua tan, trả lại người lính nét can đảm hùng tráng
vốn có. Phải trải qua quãng đường trường chinh, gian khổ,
phải là những con người “chẳng tiếc trời xanh” như Quang
Dũng thì mới có thể viết nên những vẫn thơ kiêu hùng đến
thế. Ông vẽ nên người lính Tây Tiến trong những năm tháng
khói lửa với một niềm xúc động thiêng liêng nhất. Bao nhiêu
năm kháng chiến là bấy nhiêu năm chiến đấu trường kì gian
khổ. Cũng từ đó hiện lên hình tượng người lính Tây Tiến bất
khuất, kiên trung giữa khắc nghiệt núi rừng Tây Bắc.
Hôm nay, đọc lại những vẫn thơ “Tây Tiến” chúng ta không
chỉ tự hào về quá khứ oanh liệt của dân tộc, về người lính
chống Pháp bi tráng, can đảm mà còn phải ý thức trách nhiêm
với non sông đất nước bởi những người lính đã ngã xuống để
bảo vệ hai tiếng “đọc lập” vẹn nguyên. Ta nợ anh một lời cảm
ơn, một tấm chân tình, ta nợ anh cả cuộc đời tốt đẹp:
“Kính chào anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang, bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
.Tây Tiến
+ MB1: (Bài làm của Thái Nguyễn Anh Duy)
Nhà văn Shelly đã từng nói rằng: “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất
tử”. Thật vậy, có những bài ca không bao giờ quên trong lòng người đọc. Có những năm tháng
chiến tranh đã in hằn lên những tác phẩm văn học chân chính, mà bụi thời gian có dày bao nhiêu
vẫn không thể làm phai mờ. Có lẽ vậy mà hình ảnh người lính trong chiến tranh đã ngã xuống vì
đất nước vẫn vĩnh hằng trong trái tim của mỗi con người. Vì thế, hình ảnh ấy đi vào thơ Quang
Dũng một cách nhẹ nhàng, sâu lắng. Ông là một nhà thơ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn
hậu mà lãng mạn. Tiêu biểu trong đó là bài thơ Tây Tiến. (Sau đó trích đoạn thơ cần phân tích
hoặc dẫn dắt đến nội dung mà đề bai yêu cầu)
+ MB2: (Bài làm của Thái Nguyễn Anh Duy)
“Ơi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Ngàn năm sau còn đủ sức soi đường”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Chiến tranh qua đi đã để lại những hòa niệm về năm tháng không thể nào quên, những năm
tháng mà bụi thời gian có dày đến đâu cũng không thể làm phai mờ. Đó là khi con người ta nhận
ra chẳng còn gì hơn Tổ quốc, họ gác lại tất cả để đi theo tiếng gọi của đất nước thân yêu.
Những con người ấy đã đi qua thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ XX. Và đặc
biệt, hình tượng ấy đã được nhà thơ Quang Dũng thể hiện thật xuất sắc thông qua lăng kính
lãng mạn những vẫn đậm chất hiện thực qâu bài thơ Tây tiến. Vẻ đẹp của hình ảnh người lính
đã được thi nhân khắc họa một cách độc đáo, mới lạ, oai hùng qua đoạn thơ sau: “Tây Tiến
đoàn binh không mọc tóc… Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
+ MB3: (Bài làm của Lê Đức)
Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ “Nghĩ lại về Pau-xtốp-xki” – nhà thơ
Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong
đầu”. Vâng! Có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ
văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm lại như “những dòng sông đỏ nặng phù sa”, như
“bản trường ca rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” để rồi in dấu ấn và chạm khắc trong tâm khảm
ta những gì đẹp nhất để “suốt đời đi vẫn nhớ”. Đó phải chăng là những tác phẩm đã “vượt qua
mọi băng hoại” của thời gian trở thành “bài ca đi cùng năm tháng” để lại trong tâm hồn bạn đọc
bao thế hệ những dư vang không thể nào quên. Một trong số bài ca đó phải kể đến “Tây Tiến”
của người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng. Trong bài thơ có những vần thơ thật lắng đọng, đặc biệt
là…
+ MB4: (Bài làm của Lê Đức)
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng riêng một ốc
đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ khác, ông
đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Phải chăng cái mới, cái lạ, cái
riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh hùng của dân tộc đã hy
sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ
đẹp hào hoa, lãng mạn.
+ MB5: (Bài làm của Bích Trâm)
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy......"
Đất nước - Nguyễn Đình Thi
Nếu như ở đoạn thơ trên, Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến đấu của
những chàng trai Hà Thành thì ở bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng sẽ là người tái hiện trực tiếp
chặng đường hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ. Nếu như chỉ gọi Quang Dũng là nhà
thơ thôi thì chưa đủ, bởi ông đa tài lắm, từ viết văn, làm thơ cho đến vẽ tranh, soạn nhạc. Đa tài
là thế nhưng đời sống của ông vẫn luôn xoay quanh những câu chuyện bình dị, giản đơn. Độc
giả biết đến tên tuổi Quang Dũng qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”,
“Đôi bờ” và có thể, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc hẳn là bài thơ Tây Tiến. Nói như
Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”, Quang Dũng đã cầm bút đứng hiên
ngang như thế trong suốt mấy thập kỉ. “Tây Tiến” đã đưa tên tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ
thời kì chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành
công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng
vừa lãng mạn vô cùng.
NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG
DŨNG
Đơn vị nhỏ nhưng mãi mãi đi vào lịch sử
Tây Tiến chỉ là một đơn vị nhỏ cỡ Trung đoàn. Trung đoàn 52 Tây Tiến thành lập tháng 2 năm
1947. Trong những ngày bi tráng đơn vị đã có gần 200 chiến sĩ hi sinh chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh. Nhưng Tây Tiến có nhà thơ và là người chỉ huy Quang Dũng nên Tây Tiến đã đi vào
lịch sử và nổi tiếng nhờ bài thơ kiệt tác. Nhà thơ Vân Long cho biết chúng ta đã có cuộc kỉ niệm
60 năm bài thơ Tây Tiến ra đời. Chưa từng có bài thơ nào lại vinh dự được kỉ niệm ngày sinh như
vậy. Và điều đặc biệt là đài tưởng niệm Trung đoàn Tây Tiến, 10 câu thơ quan trọng nhất của bài
được khắc vào nền bia. Những người chiến sĩ áo lính đã dùng thơ để viết lịch sử của đơn vị mình.
Hiện tượng Tây Tiến gợi nhớ câu thơ của Hữu Thỉnh:
Không có sách chúng tôi làm ra sách
Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình.
Quả là một truyền thống độc đáo của những người lính cụ Hồ trong mọi thời chống giặc.
Thay đổi tên nhưng cảm xúc không đổi
Việc đặt tên cho tác phẩm nhiều khi cũng như đặt tên cho con. Có cái tên đặt rồi, sau người đặt
không ưng lại đặt lại. Đặt tên lại cho con thì phải có đơn từ, trình báo với công an hộ khẩu. Đặt
tên lại cho tác phẩm thì chỉ cần tác giả tự sửa rồi đưa vào tập thơ. Với trường hợp của Quang
Dũng, theo tôi biết thì không phải là duy nhất. Hàn Mặc Tử đặt tên đầu tiên cho bài thơ Đây thôn
Vĩ Giạ là Ở đây thôn Vĩ Giạ; Nguyễn Đình Thi viết bài thơ Đất nước lúc đầu đặt tên là bài Sáng
mát trong như sáng năm xưa, sau đó viết thêm bài Đêm mít tinh và gộp hai bài thơ lại và viết
thêm rồi đổi tên thành bài Đất nước. Quang Dũng viết Nhớ Tây Tiến rồi bỏ chữ “Nhớ” đi chỉ còn
lại Tây Tiến. Đành rằng cả bài thơ là một nỗi nhớ lớn về Tây Tiến. Nhưng theo tôi, bỏ chữ “Nhớ”
đi , nhan đề gọn hơn. Mặt khác, không chỉ có nỗi nhớ, mà ở đấy còn có sự ngợi ca, sự tôn vinh
những chiến sĩ Tây Tiến. Có thêm “Nhớ” hóa ra lại thu hẹp mạch cảm xúc của bài thơ.
Tuy đổi tên, nhưng nỗi nhớ trong bài thơ vẫn là một nét chủ đạo, quán xuyến. Trong bài, có nhiều
từ “ nhớ” là điều tất nhiên. Bởi vậy chúng ta sẽ bắt gặp nhiều trạng thái nhớ. Những biến thái
“Nhớ về”, “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi”, “có nhớ” như những nốt nhấn trong một hợp âm, như điệp
khúc nhớ trong bản nhạc thể hiện cao trào tình cảm tha thiết của tác giả với đơn vị Tây Tiến của
mình. Những nỗi nhớ khác nhau hợp thành nỗi nhớ lớn, như suối nhỏ chảy thành sông dài khiến
cho tính chất hoài niệm trở thành dòng cảm xúc chủ đạo của toàn bài.
Điều đáng nói là Quang Dũng đã góp vào thơ ca Việt một “kiểu nhớ” mới: nhớ chơi vơi! Nhớ
chơi vơi là một đóng góp mới của Quang Dũng bên cạnh những nhớ bổi hổi bồi hồi, nhớ ngẩn
ngơ của ca dao ( Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than. Nhớ ai ra ngẩn
vào ngơ/ Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai); nhớ “day dưa” của thơ hiện đại ( Hoa cúc vàng như nỗi
nhớ day dưa- Tế Hanh).
Lãng mạn và hiện thực
Bài thơ Tây Tiến rất thành công nhờ kết hợp hài hòa bút pháp lãng mạn và hiện thực. Nếu chỉ có
hiện thực trần trụi, chắc Tây Tiến không thể có sức cuốn hút mạnh mẽ. Nhưng nếu chỉ có toàn
chất lãng mạn, thì Tây Tiến cũng khó mà được chấp nhận. ( Về sau có nhiều lí do khiến bài thơ
này không được phổ biến, mà quan trọng là người ta đã gán cho nó tính chất lãng mạn tiểu tư
sản!).
Chính Quang Dũng trong câu chuyện của mình cũng khẳng định những yếu tố hiện thực như “mở
rừng, ngủ rừng. Những cái dốc thăm thẳm “ Heo hút cồn mây súng ngửi trời” những chiều “oai
linh thác gầm thét”, những đêm “ Mường Hịch cọp trêu người”; rồi rải rác dọc biên cương những
nấm “mồ viễn xứ”… tôi mô tả trong bài thơ Tây Tiến là rất thực…” ( Nhớ về Tây Tiến – trong
Nhà văn nói về tác phẩm, Hà Minh Đức biên soạn, nxb Văn học 1998, trang 155). Những hình
ảnh lãng mạn như : Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Hoặc Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa/ kìa em xiêm áo tự bao giờ…Đặc biệt là hình ảnh các chiến sĩ vừa oai
hùng vừa mộng mơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Chất hiện thực và lãng mạn đã làm cho bài thơ có gian khổ, mất mát, hi sinh nhưng cũng tràn đầy
niềm lạc quan, khỏe khoắn; giọng thơ vừa chân thành vừa bi tráng, hào hùng, phản ánh hào khí
và chất lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng của dân tộc.
Những hình ảnh thơ độc đáo mới mẻ
Hình ảnh dốc núi thì thật hùng vĩ và độc đáo:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Từ khúc khuỷu đặt giữa câu thơ cho ta cảm nhận cái quanh co hiểm trở của dốc. Mà dốc cao lắm
cho nên mới thăm thẳm. Câu thơ bảy chữ thì đã có 5 chữ vần trắc như cái sự ngoằn ngoèo gập
ghềnh của con dốc.
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Câu thơ cho người đọc hình dung độ cao chót vót đến mức cồn mây heo hút, xa vắng, đơn độc.
Đến độ cao ấy thì súng có thể chạm trời, có thể ngửi thấy mùi trời. Với độ cao ngàn thước lên và
xuống như vậy, cho nên khi xuống hết ngàn thước thì câu thơ toàn vần bằng như một khoảng mở,
như một sự sung sướng thở dài khoan khoái sau khi vượt dốc:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ vang ngân đọc thật thích mà nghe càng thích!
Những hình ảnh thơ đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc còn thể hiện ở những câu thơ khác.
Chẳng hạn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Có đường nét, có hình ảnh cơm lên khói; có mùi thơm xôi nếp, có hình ảnh người em gái Mai
Châu nấu xôi cho chiến sĩ. Xin nói thêm, mùi xôi nếp Tây Bắc vô cùng ấn tượng. Chả thế mà Chế
Lan Viên cũng viết : Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch/ Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
( Tiếng hát con tàu).
Hoặc hình ảnh này:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Sương, lau, độc mộc, nước lũ là những hình ảnh thân quen đặc biệt Tây Bắc, rất Tây Bắc đẹp và
thơ.
Người lính Tây Tiến Quang Dũng, người đại đội trưởng Tây Tiến Quang Dũng tài hoa và mơ
mộng đã đưa vào thơ những vẻ đẹp Tây Bắc.
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ trong khung cảnh đèo dốc núi miền
Tây:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài in đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Lên Tây Bắc
Nhưng những hình ảnh ấn tượng nhất trong thơ Tố Hữu là hình ảnh núi rừng Việt Bắc trong bài
thơ Việt Bắc. Còn hình ảnh Tây Bắc là sáng tạo độc quyền mang tên Quang Dũng.
Hình ảnh đẹp và ấn tượng nhất là hình ảnh các chiến sĩ Tây Tiến ( Dù đã trích ở trên, tôi vẫn một
lần nữa trích lại) :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Những chàng trai trong bài Nhớ của Hồng Nguyên hoặc còn chờ độc lập mới lấy vợ, hoặc nhớ
người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya. Còn trong bài Đồng chí của Chính Hữu thì họ
nhớ cô thôn nữ bên “ giếng nước, gốc đa” của làng quê. Các chàng trai Tây Tiến có khác. Họ mơ
mộng thiếu nữ Hà Nội “ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Những sáng tạo độc đáo
Ngoài hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến làm quân thù khiếp sợ, hình ảnh Tây Bắc hùng vĩ, hoang
sơ, đầy chất thơ, trong bài thơ, tác giả đã dùng những hình ảnh, những cảm giác mới lạ. Đôi chỗ
chỉ có thể, cảm, hiểu mà khó cắt nghĩa rạch ròi như nỗi nhớ nhớ chơi vơi, hoặc đêm hơi trong
MườngLát hoa về trong đêm hơi; hoặc nữa mùa em thơm nếp xôi trong Mai Châu mùa em thơm
nếp xôi; và tiếp nữa là Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Nhà thơ Phan Quế từng bình: “ Câu thơ
như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc thấy câu thơ nào viết về con sông này
hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh
trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ” ( Đài tưởng niệm thơ Tây
Tiến). Tôi muốn nói thêm rằng trong cảm xúc của Quang Dũng, dòng sông của đất nước, quê
hương như cũng xúc động, gầm lên tiễn đưa những người con vinh quang của tổ quốc hi sinh
thiêng liêng, bi tráng!
Tây Tiến bất tử
Cũng nên nhắc lại rằng, một thời gian dài, Tây Tiến bị xem là “còn rơi rớt chất lãng mạn tiểu tư
sản” nên bài thơ ít được phổ biến. Nhưng nó vẫn sống trong trái tim trí nhớ của những người yêu
thơ.
Mới đây nhất, trên báo mạng đưa tin tại Mai Châu, Hòa Bình đã dựng xong đài tưởng niệm Tây
Tiến. Mười câu thơ của bài Tây Tiến được khắc vào bia tưởng niệm. Quang Dũng đã góp phần
làm cho Tây Tiến sống mãi trong lòng bạn đọc. Đặc biệt là khi bài thơ được đưa vào chương trình
Ngữ văn 12. Tây Tiến sẽ được lớp lớp bạn trẻ nhắc đến trong những giờ học của mình. Kiệt tác
Tây Tiến chắc chắn sẽ bất tử.
-PGS TS Vũ Nho-
TÂY TIẾN - QUANG DŨNG
A.Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ cùng tên của Quang
Dung, qua đó liên hệ tới vẻ đẹp của người chiến sỹ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương?
B.Bài làm
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả: Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết
văn... nhưng hơn hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ
trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, tinh tế
và lãng mạn
- Giới thiệu về bài thơ: Bài thơ được in trong tập Mây đầu ô, được Quang Dũng viết khi đã rời
đơn vị Tây Tiến.
- Hình tượng trung tâm của bài thơ là hình tượng người lính Tây Tiến.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Đoàn binh Tây Tiến
+Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào
bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao lực lượng của quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền
Tây Bắc bộ của Việt Nam.
+ Địa bàn đóng quân và hoạt động của Trung đoàn là một miền rừng núi rộng lớn và hiểm trở của
biên giới Việt - Lào gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và Sầm
Nứa.
+ Sau một thời gian hoạt động, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn 52.
- Chiến sĩ Tây Tiến: phần đông là học sinh thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào
hoa, lãng mạn.
- Bài thơ được viết trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội gặp rất nhiều khó
khăn, đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức gian khổ, vô cùng thiếu thốn về
vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy nhiên họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất
dũng cảm với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
2. Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến
a, Vẻ đẹp kiên cường vượt qua khó khăn gian khổ
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Chặng đường hành quân gian khổ:
-Địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi sự hẻo lánh, xa xôi; các từ láy giàu tính tạo hình: “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, điệp từ “dốc” gợi địa hình hiểm trở, quanh co, gập ghềnh.
- Nhịp thơ bẻ đôi “Ngàn thước ... xuống” gợi tả sự nguy hiểm tột cùng.
-Hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian:
“chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn
rừng thiêng nước độc.
- Sử dụng phần lớn các thanh trắc nhấn mạnh sự trắc trở, ghập ghềnh của địa hình.
- Hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện tầm cao của núi non mà người lính phải vượt qua nhưng
cũng có cái hóm hỉnh của người lính trong hoàn cảnh gian khổ.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
- Khung cảnh thiên nhiên cũng có lúc êm dịu, đậm hương vị cuộc sống: “nhà ai Pha Luông ...”,
“cơm lên khói”, “Mai Châu mùa em ...”, thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, yên bình. Là tiếng
thở phào nhẹ nhõm sau chặng đường dài hành quân.
b. Vẻ đẹp ngoại hình: dữ dội, lẫm liệt, oai phong
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
- Những chi tiết tả thực đã khắc họa diện mạo rất độc đáo, đồng thời phản ánh hiện thực gian khổ,
thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường.
+ “đoàn binh không mọc tóc”: không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất
phát từ 1 hiện thực trong cuộc sống của người lính TT: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những
bất tiện trong sinh hoạt ở rừng và để tạo thuận lợi trong đánh trận; có khi những cái đầu không
mọc tóc kia là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Và dù hiểu theo
cách nào thì đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt của chiến tranh. Tuy
nhiên với cách diễn đạt độc đáo của QD, người lính TT hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà
kiêu dũng, ngang tàng
+ “quân xanh màu lá”: là hình ảnh làn da tái xanh như màu lá do bệnh sốt rét rừng. Ở đây có thể
hiểu là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả doàn quân xanh màu lá.
Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy yếu vì
sốt rét rừng, vì cuộc sống kham khổ. Ở đây, cách diễn đạt của của QD khá tinh tế khi miêu tả
đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với
thiên nhiên, ốm mà không yếu, ốm mà vẫn trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống.
+Chữ “đoàn binh” chứ không phải “đoàn quân” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự
hùng dũng. “đoàn binh”: gợi hình ảnh một tập thể đông đảo mang những nét chung phổ biến của
mọi người lính (đầu không mọc tóc, da xanh, mắt trừng dữ dội)Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng
vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm
chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ.
“mắt trừng” là đôi mắt dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu quyết đoán làm kẻ thù hoảng sợ
+ “mắt trừng”: cái nhìn dữ dội, người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp của những người tráng sĩ xưa,
cũng gợi hình ảnh khuôn mặt hốc hác do điều kiện vật chất thiếu thốn.
- Liên hệ: Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn
đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết
về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
(Đồng chí – Chính Hữu)
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế”.
(Cá nước – Tố Hữu).
Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt rét rừng của
những người lính bằng những vần thơ tê tái:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”.
- Nhận xét: nếu cảm nhận theo cách thông thường họ mang vẻ ngoại hình kì dị, nhưng chỉ bằng
ba chữ “dữ oai hùm” tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp dữ dội, lẫm liệt, oai phong của người lính Tây
Tiến.
c.Vẻ đẹp tâm hồn: hào hoa, đa tình, lãng mạn của những người lính trẻ
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
+ “Kìa em xiêm áo ... xây hồn thơ”: cái nhìn đắm say, tình tứ của những người lính Tây Tiến
trước vẻ đẹp duyên dáng của con người Tây Bắc. Tâm hồn người lính bay bổng, say mê trong
không khí ấm áp tình người.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
+ “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt thao thức về quê hương Hà Nội, về một dáng
kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía của chân trời: biên giới và Hà Nội.
+Người lính TT không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao
nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể
là phố cũ, trường xưa,… hay chính xác hơn là nhớ về bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội
yêu kiều, diễm lệ. Đó chính là động lực tiếp thêm sức mạnh để họ vững vàng tay súng, sẵn sàng
cống hiến, hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc, vì mục tiêu lí tưởng cao đẹp: “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết
sinh”.
- Nhận xét: Trong hoàn cảnh chiến đấu khăc nghiệt họ vẫn giữ được những nét hào hoa, lang mạn
vốn có của những thanh niên trí thức Hà Nội
d.Vẻ đẹp của lẽ sống: tinh thần hi sinh cao cả
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
- Hình ảnh bi hùng về người lính Tây Tiến “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên
đời”: đó là sự nghỉ ngơi vĩnh viễn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- Sẵn sàng công hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước:“rải rác biên cương mồ viễn xứ”, “chẳng tiếc
đời xanh”, “anh về đất”, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng.
- Cái chết đã được lí tưởng hóa như hình ảnh những tráng sĩ xưa: “áo bào”, “khúc độc hành”;
thiên nhiên cũng đau đớn thay cho nỗi đau họ phải chịu.
- Nhận xét: Những người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp bi tráng, tầm vóc của họ sánh ngang với các
tráng sĩ xưa. vẻ đẹp được bật lên từ cách miêu tả những sự hi sinh thầm lặng của những người
chiến sĩ nơi đất khách quê người. Đó là cái bi nhưng đã được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng
nên đã trở thành bi tráng, bi tráng đến mức hào hùng. Với tinh thần dấn thân họ tự nguyện hiến
dâng tuổi thanh xuân cho một lí tưởng cao đẹp nhất: Độc lập- Tự do. Vì vậy vẻ đẹp của người
lính Tây Tiến đã trở thành bất tử.
→ Vẻ đẹp của người chiến sỹ Tây Tiến là vẻ đẹp biểu trưng cho cả một thế hệ người Việt Nam ta
trong thời kháng chiến chống Pháp
3, Vẻ đẹp của người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương:
– Những người chiến sĩ (chiến sĩ hải quân, chiến sỹ cảnh sát biển, chiến sĩ biên phòng…) đang
hàng ngày hàng giờ đối mặt với sóng to gió lớn, thậm chí cả bão tố, cuồng phong. Đặc biệt, họ
còn phải đối mặt với những âm mưu xâm lược, bành trướng, độc chiếm Biển Đông của nước láng
giềng Trung Quốc. Cụ thể như việc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng biển
đặc quyền của Việt Nam cùng với những hành động đâm va hung hăng vào những tàu của Cảnh
sát biển; việc ngang nhiên xây dựng sân bay, căn cứ quân sự, khu dân cư…trên vùng biển thuộc
hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa…
- Trong hoàn cảnh ấy, những người chiến sĩ vẫn ngày đêm kiên cường bám biển với quyết tâm
bảo vệ toàn vẹn hải phận của Tổ quốc. Đã có những tấm gương hi sinh anh dũng cho sự bình yên
của biển đảo quê hương.
– Những người chiến sĩ ngày đêm đối mặt với hiểm nguy, gian khổ nhưng tâm hồn họ vẫn vô
cùng lãng mạn. Họ không quên viết những cánh thư gửi người yêu dấu, không quên gửi những kỉ
vật của biển về quê hương…
→ Vẻ đẹp của những người chiến sĩ ấy cũng là vẻ đẹp biểu trưng cho tuổi trẻ Việt Nam trong
thời đại mới.
4, Đánh giá chung
-Vẻ đẹp của người chiến sỹ ở mọi thời đại luôn có sức lay động và lan toả mãnh liệt. Vẻ đẹp vừa
có tính truyền thống vừa mang tính thời đại.
III.Kết bài
- Khái quát một số giá trị nghệ thuật tiêu biểu: bút pháp lãng mạn, những sáng tạo trong việc sử
dụng ngôn ngữ, Sử dụng nghệ thuật điệp, đối, hình ảnh thơ độc đáo, mới mẻ.
- Tổng kết giá trị nội dung: bài thơ đã tái hiện vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng của núi rừng
Tây Bắc; vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và người lính biển thời nay
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TÂY TIẾN
Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô giá của
dân tộc, bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con
người Việt. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu nước, thi ca đã thực sự hun
đúc nên tượng đài của những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình
ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành hình tượng đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến
chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho
Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh
anh bộ đội trong bài thơ “Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng,
của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể thấy rõ.
Tây Tiến là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, giữa những ngày đầu vô
cùng gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh
niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu
trên địa bàn núi rừng miền Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt -
Lào và phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng
thiếu thốn và gian khổ nhưng lính Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Bài
thơ được viết ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây) cuối năm 1948, lúc Quang Dũng rời xa đơn vị chưa
lâu. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi lại là Tây Tiến. Qua nỗi nhớ cảnh vật và
con người Tây Tiến, bài thơ bày tỏ niềm ngưỡng mộ những người lính trong kháng chiến
chống Pháp và ngợi ca một thời gian khổ mà anh hùng trong lịch sử dân tộc. Nỗi nhớ ấy
xuyên suốt cả ba đoạn và bốn câu kết thúc của bài thơ.
Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện nỗi nhớ của mình về đoàn quân Tây
Tiến thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những
anh hùng Tây Tiến:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết như thế,
nó như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm thời xưa.
Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu.
Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa, ngân mãi trong
đêm: ”ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc những anh lính Tây Tiến trút hơi thở mệt mỏi sau một
ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác
giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến. “Đêm hơi”
khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể là đêm đầy sương và hơi sương,
đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu, nhưng cũng có thể là sự di chuyển nhẹ
nhàng của những chiến sĩ đoàn quân Tây Tiến hay chính là những hơi sương trong đêm hành
quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những người
lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những
gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp
bi tráng của họ… Những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm
trong câu thơ khiến độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.
Chưa dừng lại đó, những hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với
mây trời:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn quân, mưa
nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển khơi… Nhiều câu thơ sử
dụng hàng loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”… làm hiện lên cái gập ghềnh,
thăm thẳm, khúc khuỷu, cheo leo của con đường hành quân. Những độ cao độ sâu ấy được
tính bằng ngàn thước, nhấn mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Tiếp đó
là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ “súng ngửi trời” gợi lên độ cao chóng mặt.
Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ thuật có
tính định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố
tương đồng của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất tương phản của các động từ "lên – xuống"
trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách
để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng
đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở. Trong cả câu thơ đặc biệt giàu tính
tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều
khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên
nhiên, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi
thường mọi gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức
mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ. Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn
miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết
mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa "Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi". Dòng thơ mở ra một khoảng không gian bát ngát, câu thơ như bay
ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó,
dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa. Ánh mắt những người lính xa nhà
bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư
ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ "nhà ai" trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại
gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng "nhà" mang thanh huyền
như một thoáng trầm lắng, suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi
nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, ở những địa danh như Sài Khao,
Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông… rất xa lạ, làm tăng thêm ấn tượng về sự hoang sơ, kì
vĩ, bí mật của rừng thiêng, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao
xuyến lòng người xa quê. Chúng cho biết không chỉ miền đất mà người lính đã đi qua mà khi
“vừa mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối” (Trần Lê Văn).

Nghị luận bài thơ “Tây Tiến” của Quang


Dũng
Thầy Chu Văn Sơn từng nói: “Người ta thường nói cuộc đời
mỗi một người nghệ sĩ thường gắn với một vùng đất, một vùng
văn hoá thẩm định nhất định. Nếu Hoàng Cầm yêu dòng sông
Đuống lấp lánh hiền hoà, Thanh Hải xao xuyến với dòng sông
Hương xanh biếc, Tế Hanh tha thiết nhớ con sông quê hương
thì Quang Dũng trong những năm tháng gắn bó với đoàn binh
Tây Tiến lại kết thân với dòng sông Mã”. Và quả thật Tây Tiến
đã thể hiện nỗi nhớ của mình qua bài thơ Tây Tiến, vũng văn
hoá gắn với tên tuổi của ông chính là Tây Bắc.

Mở đầu bài thơ Tây Tiến nhà thơ đa tài ấy đã cất lên những
nỗi nhớ thương tại Phù Lưu Chanh. Dù không ở Tây bắc nhưng
hồn nhà thơ như nhớ lại biết bao nhiêu là kỉ niệm đẹp và nỗi
nhớ ấy như một sự chứng minh cho sự trân trọng của nhà thơ
cho những năm tháng gian nan mà hào hùng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Hình ảnh con sông Mã gắn liền với những kỉ niệm của đoàn
binh Tây Tiến. Sông Mã xa rồi Tây Tiến cũng xa rồi chỉ còn
mình nhà thơ và nôi nhớ đồng đội. Tiếng ơi kết hợp với “chơi
vơi” giống như một tiếng gọi tha thiết. Đồng thời nó cũng làm
cho những kỉ niệm kia dội vào không gian như đánh thức biết
bao nhiêu là niềm vui nỗi buồn sự khổ cực. Nhớ rừng núi Tây
Bắc nhà thơ lại nhớ đến những địa danh như Saì Khao, Mường
Lát. Hai địa danh ấy gắn liền với những cuộc hành quân của
họ. Đoàn quân Tây Tiến phải ra đi từ lúc còn tờ mờ sáng và về
lúc đêm tối đã bủa vây. Tiếng “hơi” kia để chỉ cái đêm nhẹ sau
những cuộc hành quân vất vả hay nó chỉ hơi sương đã buông
xuống cả khu rừng. Hình ảnh hoa về là những người chiến sĩ
hay cũng chính là những bó đuốc trong đêm sáng rực.

Nhà thơ tiếp tục nhớ đến những phút giây hành quân vượt qua
mọi khó khăn của địa hình. Một bức tranh thiên nhiên tây bắc
hùng vĩ hiện lên thật sự rất đẹp:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Bốn câu thơ như điểm sáng của bài thơ khi vừa thể hiện được
vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc vừa thể hiện được ý chí
cao ngất không chịu lùi bước khuất phục của những người
chiến binh Tây Tiến. Ba câu thơ đầu hầu như là vần trắc khiến
cho câu thơ khi đọc lên cũng mang đầy những trúc trắc. Điều
đó thể hiện sự gian nan khó khăn mà Tây Tiến phải vượt qua
trên chiến trường. Từ láy “khúc khuỷu” thăm thẳm như lột tả
hết độ cao độ sau của núi rừng Tây bắc. Thế nhưng người lính
Tây Tiến vẫn kiên cường vượt qua để cho ngọn súng kia
dương cao như chạm mây ngửi trời. hình ảnh nhân hoá ấy làm
cho cây súng của chiến binh Tây Tiến dũng mãnh hơn biết
nhường nào. Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống thế mà
không biết một ngày những người lính ấy phải len bao nhiêu
lần và xuống bao nhiêu lần. Thế rồi nhà thơ bất ngờ kết thúc
bằng một câu toàn văn bằng thể hiện sự êm ả sau những trận
đánh hành quân ấy. Sau những giây phút kiên cường chống lại
những khẩu súng viên đạn của địch thì các chiến sĩ lại được về
với tình dân quân ấm áp, những trận mưa như làm cho tâm
hồn con người trở nên thanh bình hơn.
Sự hi sinh của những người Tây Tiến cũng được tác giả nói
giảm nói tránh đi để nhường lại cho những nỗi nhớ và tránh
những mất mát đau buồn:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Không nói là hi sinh cũng không nói là chết mà nhà thơ nói là
dãi dầu, buồn nên không bước nữa. Qua cách nói như vậy ta
cũng thấy được những người Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng. Họ sẵn sàng hi sinh để đổi lại một đất nước sạch
bóng quân thù. Những người chiến binh cứ thế gục lên súng
mũ bỏ quên đời. thế nhưng cái bỏ quên ấy lại làm nên một đất
nước hôm nay. Thiên nhiên Tây bắc lại hiện lên với hình ảnh
của thú dữ. giọng thơ như hóm hỉnh khi nói cọp trêu người.
sau bao vất vả người lính Tây Tiến lại về với Mai Châu thơm
nếp xôi.

Trong những tháng năm ấy Quang Dũng không chỉ được sống
trong tình bè đông chí mà còn được sống trong tình quân dân
thắm thiết vui tươi.

Trước hết là cảnh cùng nhau liên hoan văn nghệ với những
người con gái Viên Chăn xinh tươi e ấp:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Cả doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, từ “kia” thể hiện sự ngạc
nhiên của người chiến sĩ trước vẻ đẹp của những người con
gái Lào trong trang phục xiêm áo truyền thống. Những tiếng
khèn cất lên thì nàng bắt đầu e ấp múa. Tiếng nhạc điệu múa
ấy như gửi về Viên Chăn thủ đô thương nhớ của Lào. Các
chiến sĩ như được thả mình vào trong những giây phút vui vẻ
của hội thế.
Thế nhưng cuộc vui nào cũng có chia tay và người chiến sĩ
Tây Tiến sau những phút giây vui vẻ ấy lại phải lên đường làm
nhiệm vụ:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây Tiến ra đi trong chiều sương, cái không gian ấy như thể
hiện cho bao nhiêu gian nan mà các anh sắp phải đối mặt, cái
không gian ấy cũng nói lên tâm trạng của kẻ ở người đi buồn
thương tiếc nuối. Người ra đi thiên nhiên cũng buồn, lau như
có hồn mà nẻo bến bờ rũ xuống như ngả chào người chiến sĩ.
Người ở lại buồn chèo thuyền độc mộc đưa các anh qua sông.
Những dòng nước lũ với hoa trôi đong đưa. Cảnh vật cũng như
có hồn,có thần biết buồn biết thương cho những người chiến
sĩ.

Khổ thơ tiếp theo Quang Dũng miêu tả đến những đồng chí
trong đoàn quân Tây Tiến ấy:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Tất cả những nét ngoại hình ấy cho ta thấy được những gian
nan vất vả mà người Tây Tiến phải trải qua. Không mọc tóc la
do điều kiện chiến tranh rừng thiêng nước độc làm cho các
chiến sĩ rụng hết tóc hay là do chính các chiến sĩ cạo trọc đi
để tiện cho chiến đâu. Quân xanh kia là màu áo, màu ba lô
con cóc mũ tai bèo hay là sự xanh xao do thiếu thốn. Tóm lại
dù hiểu theo cách nào thì nhà thơ cũng muốn người đọc thấy
được đoàn quân Tây Tiến tuy ốm nhưng không yếu vẫn dữ như
chúa tể của muôn loài. Hình ảnh mắt trừng như thể hiện được
những cái tức giận của các chiến sĩ với kẻ thù mong muốn
biên giới sạch bóng quân thù. Hay hình ảnh mắt trừng ấy cũng
là không ngủ được khi mơ về những dáng kiều thơm của Hà
Thành. Câu thơ ấy được coi là mộng rớt buồn rơi, vì thế mà có
thời Tây Tiến đã bị cấm nhưng về sau chính giá trị của nó đã
làm nên sức sống đến ngày hôm nay.

Trong trận chiến ác liệt ấy không biết bao nhiêu người chiến
sĩ Tây Tiến đã hi sinh, nhưng họ sống đã đẹp chết đi cũng tác
vào lịch sử những nét đẹp về bức tượng đài bất hủ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Họ hi sinh nhưng không được chôn cắt đàng hoàng bởi chiến
tranh người chết như ngả dạ. Chính vì thế mà rải rác biên
cương là những nấm mộ tuềnh toàng sơ sài khắp nơi. Thế
nhưng họ đã quyết chí lên đường thì không hề tiếc thời trai
trẻ. Họ sống có lý tưởng vững chắc. Và khi họ mất đi một
mảnh chiếu che người cũng trở thành áo bào để anh về với cát
bụi. Con sông mã gầm lên như thể hiện nỗi tiếc thương những
người chiến sĩ ấy. Có thể nói nhà thơ đã sử dụng những từ hán
việt làm sự hi sinh của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng
hơn. Và thành công của Quang Dũng là đã xây dựng lên bức
tượng đài bất hủ của người lính bằng thơ. Và giờ đây khi lên
Tây bắc thì hồn về Sầm Nứa nơi có những kỉ niệm những đồng
đội chứ không về xuôi.

Như vậy qua đây ta thấy Quang Dũng đã bày nỏ lòng nhớ
nhung vô hạn đến đơn vị cũ của mình. Tây Tiến cái tên ấy sẽ
chẳng bao giờ bị lu mờ bởi thời gian mà nó cứ mãi sáng chói
bất hủ trong lòng mỗi con người. Những lí tưởng, những hi
sinh của họ sẽ luôn là công lao lớn cho dân tộc.
Tây Tiến
Những thi phẩm viết về người lính trong kháng chiến thường ngân lên trong lòng người đọc
nhiều rung động. Khó có thể quên được Đồng Chí của Chính Hữu hay Nhớ của Hồng Nguyên,
nhưng thi phẩm mà bóng dáng của nó đi về hơn 60 năm nay, gần gũi và kiêu hùng trong lòng
người đọc phải là bài thơ Tây Tiến. Ấn tượng sâu đậm nhất mà bài thơ để lại là chất thép của
những người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ thứ 3.
Đến với thơ ca kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng là một gương mặt thơ riêng biệt với phong
cách thơ hồn hậu, phóng khoáng và rất đỗi hào hoa. Thơ của ông vừa có cả cái bồng bềnh, lãng
mạn của một con người xứ Đoài mây trắng và cũng có cả nét tinh tế, thanh lịch của người Hà
Nội. Về bài thơ Tây Tiến, có ý kiến cho rằng: “Nếu phải Kể tên 10 tác giả nổi tiếng trong thời kỳ
này thì chưa hẳn đã có Quang Dũng, nhưng nếu phải kể tên 10 thi phẩm tiêu biểu trong thời kỳ
này thì chắc chắn có Tây Tiến. Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội thành lập nhằm phối hợp với bộ
đội Lào để đánh tiêu hao lực lượng Pháp và biên giới Việt-Lào. Lính Tây Tiến phần đông là học
sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường với tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, tràn đầy nhiệt huyết.
Quang Dũng cũng là lính Tây Tiến. Năm 1948, khi đã rời xa Tây Tiến, Quang Dũng nhớ và viết
bài thơ này như tạp một bức họa, gieo một khúc ca vào thơ ca Việt Nam về hình tượng người
lính. Tây Tiến là một khúc ca ngân dài, đặc tả vẻ đẹp những tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của
những chàng trai chốn Hà Thành. Dù chặng đường hành quân của họ luôn phải đối mặt với hiểm
nguy, cái chết nhưng những anh lính Tây Tiến vẫn luôn giữ vững một trái tim thép, một tấm lòng
thép. Đó là chất thép của những người chiến sĩ cách mạng mà Quang Dũng gửi gắm vào hồn thơ
của ông.
Nếu ở hai khổ thơ trước đó, bằng bút pháp bi tráng và cảm hứng lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện
thành công bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội, làm bệ đỡ hoành tráng để từ đó ca ngợi
vẻ đẹp tư thế tinh thần của những người lính Tây Tiến thì ở đoạn thơ này, nhà thơ tiếp tục khắc
họa bức tượng đài tập thể mang tên anh lính Tây Tiến với chất thép rắn rỏi, gân guốc. Tác giả Hồ
Chí Minh đã từng bày tỏ quan điểm sáng tác của mình như sau:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Hồ Chí Minh xem văn học là thứ vũ khí lợi hại để phụng sự cho sự nghiệp cách mạng, nhà văn
phải là chiến sĩ xung phong, tạo nên chất thép trong chính ngòi bút của mình. Chính vì lẽ đó, chất
thép trong thơ của các tác giả, kể cả Quang Dũng, đều hướng đến tinh thần chiến sĩ, tinh thần
cách mạng để đưa thi ca nói riêng và văn học nói chung thành vũ khí chiến đấu.
Hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ như là một thước phim quay chậm, chụp gần chân dung của
những người lính Tây Tiến nhưng không dừng lại ở một gương mặt cụ thể nào mà cả đoàn quân
ấy hiện lên trong một chân dung chung nhất với vẻ bề ngoài lạ lẫm:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Cách nhà thơ gợi nhắc về đồng đội thật đặc biệt, Quang Dũng viết: “Tây Tiến đoàn binh”. Lỗi nói
đảo ngữ kết hợp với từ Hán-Việt khiến cho ngoại hình của người lính Tây Tiến hiện lên trong tư
thế hùng dũng, rắn rỏi hơn, kiêu hãnh hơn và đầy khí thể xung trận. Người đọc ấn tượng mạnh về
ngoại ngoại hình của người lính bởi chi tiết “không mọc tóc”. Không mọc tóc là bằng chứng của
sự gian khổ, là kết quả của những tháng ngày dầm dề mưa gió với những cơn sốt rét rừng hành
hạ. Tác giả Trần Lê Văn từng nhận định như sau: “Lính Tây Tiến đánh trận tử vong thì ít nhưng
tử vong vì sốt rét rừng thì nhiều”. Đây là góc nhìn hiện thực trực diện, thẳng thắn mà Quang
Dũng đem vào thơ. Có nhiều nhà thơ đã nói về hiện thực ấy, với Chính Hữu đó là cái nhìn mộc
mạc và hiền lành:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.“
Với nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, đó là cái nhìn tê tái:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”
Còn Quang Dũng thì lại nhìn hiện thực ấy bằng cái nhìn ngang tàng, ngạo nghễ, coi thường hiểm
nguy. Cách nói không mọc tóc gợi một tư thế chủ động cứ như thể không cần, không thèm có tóc
vậy. Thậm chí khi tóc không thể mọc được nữa, họ tự cạo trọc đầu để thuận tiện cho đời sống
chiến đấu. Đó là nét riêng hào hùng, là chất thép của hình tượng những anh lính Tây Tiến. Sau
nét vẽ về tóc, Quang Dũng phác họa ngoại hình người lính Tây Tiến với hình ảnh thơ thứ hai:
“quân xanh màu lá”. Quân xanh màu lá là làn da xanh xao vàng vọt vì sốt rét rừng hay là quân
phục xanh, là lá ngụy trang xanh? Có lẽ có lẽ là tất cả, nhưng ý thơ mà Quang Dũng muốn nhấn
mạnh phải là sự khốc liệt của hiện thực. Những cơn sốt rét rừng, những vất vả thiếu thốn của
cuộc sống chiến đấu đã khiến những người lính hào hoa Tây Tiến có vẻ ngoài rất kỳ lạ, rất “ốm”.
Ngoại hình có vẻ ốm, có vẻ tiều tụy xanh xao ấy như mờ hẳn đi khi nhà thơ đặt nét vẽ ấy trong tư
thế đối lập với thần thái, với khí chất ngút trời “giữ oai hùm”. Đây là cách nói gây ấn tượng mạnh
mẽ, nó khẳng định bên trong ngoại hình kia tiềm ẩn một sức mạnh phi thường. Hình ảnh thơ đã
tuyệt đối hóa thần thái oai phong lẫm liệt của người lính khiến câu thơ chỉ còn ấn tượng về màu
xanh của da đã hoà vào màu xanh của lá để làm nên màu xanh cứng cỏi và dạn dày khí chất. Đó
là chất thép muôn đời của dân tộc Việt Nam nói chung và những người chiến sĩ cách mạng nói
riêng. Các anh lính mang trong mình sự gân guốc,và bền bỉ. Họ chiến đấu vì Tổ quốc và bồi đắp
ý chí ấy bằng chất thép cứng cỏi trong con người mình. Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ hình
tượng người lính để hoàn thiện vẻ đẹp về ngoại hình của những chiến binh Tây Tiến. Đó là nét
đẹp phảng phất bóng dáng của những tráng sĩ khi xưa xung trận.
Sau những nét vẽ về ngoại hình, ngòi bút Quang Dũng tập trung khắc họa vẻ đẹp chân dung
người lính Tây Tiến trên phương tiện tâm hồn và khí phách:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ là vẻ đẹp của khí phách gắn liền với “chí”, là vẻ đẹp của tâm hồn gắn với chữ “tình”.
“Chí” trong ánh mắt quyết tử, trong giấc mộng lập công và “tình” trong giấc mơ lãng mạn của
những cô gái Hà thành. “Mắt trừng gửi mộng” là hình ảnh thơ đầy sự dồn nén căm uất tới mức
hóa thành nhãn lực ném về phía quân thù. Ánh mắt ấy như có lửa trong những đêm canh giữ biên
cương, có sự thách thức thầm lặng với quân xâm lược ngông cuồng dám động đến nước non này.
Sau ánh mắt ấy, người lính ôm ấp một khát vọng lập công, một giấc mộng thanh bình cho quê
hương, đất nước. Gắn liền với mộng là mơ, gắn liền với chí là tình. Nói về nỗi nhớ, về giấc mơ
của người lính là một tứ thơ quen thuộc trong thơ ca kháng chiến. Chính Hữu mộc mạc giản dị để
người lính nhớ về giếng nước gốc đa, nhà thơ Hồng Nguyên thì để người lính nhớ về:
“Luống cày đất đỏ
ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.”
Còn Quang Dũng lại để người lính nhớ về Hà Nội với dáng kiều thơm. Đó là hình ảnh thơ gợi nét
duyên dáng, thướt tha, đài các kiêu sa của các cô gái Hà Thành. Giấc mơ ấy hướng về Hà Nội, về
hậu phương vững chắc đã trở thành động lực để người lính tiến về phía trước giết giặc lập công,
ôm giấc mộng trở về quê hương với những người mình yêu thương. Các anh đã gạt đi niềm hạnh
phúc, an yên của chính mình để lên đường chiến đấu. Họ tạm gác lại những dự định, hoài bão của
bản thân, tạm xa những người thân yêu. Họ chọn cách đối diện với hiện thực, với chiến tranh
khốc liệt để giữ vững độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính Tây Tiến mang trong mình
những phẩm chất tốt đẹp mà nổi bật hơn cả là chất thép. Chất thép ấy như đã ngấm vào máu, in
đậm trong tâm trí của họ. Dũ cho chặng đường hành quân sẽ còn vô số những mối hiểm họa khác
nhưng họ vẫn luôn hiên ngang, bất diệt trước khó khăn, giữ vững tinh thần thép trước hoàn cảnh.
Đoạn thơ là sự kết hợp hài hòa của bút pháp lãng mạn và chất hiện thực, nổi bật hơn cả là chất bi
tráng - chất thép cứng cỏi của những chiến sĩ Tây Tiến. Có thể nói với 4 câu thơ này, Quang
Dũng đã tạc một bức tượng đài bất biến về chất thép của những chiến sĩ cách mạng thời kì chống
Pháp. 4 câu thơ tuy ngắn nhưng lại là điểm sáng trong tổng thể của cả bài thơ. Ở đó, hình tượng
người lính được nâng đỡ và xây dựng với vẻ đẹp hết sức hào hoa, lãng mạn nhưng cũng không
kém phần cứng rắn và bền bỉ. Chất thép ấy có thể xuất hiện trong thơ của nhiều tác giả, nhưng
với ngòi bút tài tình của Quang Dũng, chất thép trong Tây Tiến đã dẫn dắt tinh thần cách mạng
tới toàn thể dân tộc Việt Nam.

Đừng viết hãy viết


Đừng viết: Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi
sinh lớn lao cửa người lính: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Cái vẻ xanh xao vì đói
khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn. Ta có thể thấu hiểu
những gian khổ hy sinh mà những người lính phải chịu đựng nơi chiến trường trận mạc. Lại nhớ “Giọt giọt mồ hôi rơi trên
má anh vàng nghệ” trong thơ Tố Hữu. Tất cả đều góp phần tạc nên hình ảnh những người lính trong đau thương vĩ đại.
Hãy viết: Không chỉ khó khăn trên chiến trường, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa
vào trong thơ của Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Quang Dũng miêu tả
sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến vừa thiếu ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng.
Điều này làm cho diện mạo của các anh trở nên khác lạ "không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Trong thơ Nguyễn Đức Mậu,
căn bệnh sốt rét cũng trở đi trở lại. Nó bám riết lấy tuổi thanh xuân của người lính: “Nơi thuốc súng trộn vào áo lính- Cơn
sốt rét rừng đi dọc tuổi thanh xuân”. Nhà thơ như “vật vã” cùng với những trận sốt rét ác liệt giữa rừng sâu khi “cơn sốt rét
ngấm vào tận cùng cơ thể”:
“Cái phút người anh như lửa nóng
Núi cũng ngồi, cũng đứng khác chi anh
Những câu thơ lẫn vào cơn sốt
Con chữ cháy đen xiêu vẹo dáng hình”
( Nhật kí sau cơn sốt )
Đừng viết: Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ
“chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi
vơi” ấy là nỗi nhớ không rõ nét, không xác định và từ nỗi nhớ này mà tất cả cảnh vật thiên nhiên: từng vách đá chóp mây,
từng cung đường chiến trận hiện lên đầy thương nhớ tha thiết.
Hãy viết: Nỗi nhớ muôn hình vạn trạng, có nỗi nhớ rạo rực bồi hồi, có nỗi nhớ phấp phỏng da diết, có nỗi nhớ cồn cào
cháy bỏng, có nỗi nhớ lặng lẽ âm thầm. Thế nhưng trong thơ Quang Dũng thì nỗi nhớ hiện diện trong một từ láy “chơi vơi”.
Nó có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian,
không gian. Nỗi nhớ truyền sức sống cho từng bông lau, từng bó đuốc, từng vách đá, chóp mây và cũng từ giây phút này
những sự vật tự nhiên đó không còn là những địa danh vô cảm, vô can trên bản đồ nữa mà đã trở thành một phần máu thịt,
một phần tiếng vọng nơi kí ức thăm thẳm chẳng lúc nào nguôi yên trong trái tim nhà thơ.
Đừng viết: Nhà thơ Quang Dũng với chất thơ lãng mạn đã tái hiện khung cảnh: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” và
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi” thật nhẹ nhàng bay bổng. Hồn thơ của ông bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc
bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Những vần thơ cứ mãi ngân nga réo rắt như gợi nhắc mãi về một hồn
thơ đã sống với tất cả ân tình lãng mạn.
Hãy viết: Nhà thơ Quang Dũng lớn lên trên quê hương "Xứ Đoài mây trắng lắm" - nơi "đất đá ong khô nhiều ngấn lệ" đã
đi vào thơ ông thật ân tình, lãng mạn. Phải chăng vì thế mà khi đọc Tây Tiến ta vẫn mãi lâng lâng theo cái nhẹ nhàng bay
bổng của “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, của “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Bằng nghệ thuật sử dụng thanh bằng
hiệu quả, Quang Dũng đã tạo nên một miền Tây với cảnh sắc hài hòa lãng mạn. Thật đúng khi ai đó gọi ông là "bóng mây
qua đỉnh Việt". Một áng mây cũng nhẹ nhàng , mềm mại như thế. Và tôi thực sự tin, đó là áng mây bay qua sông núi nước
Việt mà nó bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy.
Đừng viết: Bài thơ Tây Tiến đã làm sống lại hình tượng người lính của một thời binh lửa trong trái tim hồn hậu và cốt
cách lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng. Và từ đây mà bài thơ tiếp tục neo đậu trong trái tim bạn đọc, trở thành một trong
những bài thơ hay nhất trong thơ ca Cách mạng Việt Nam.
Hãy viết: Chất thơ Quang Dũng được làm nên từ trái tim hồn hậu, tâm hồn phóng khoáng, cốt cách lãng mạn, tài
hoa, cùng với chiến chinh thời li loạn: vừa đượm sắc buồn quê hương, vừa phảng phất chất văn hóa Xứ Đoài vốn
vang danh với nhiều nhân kiệt. Và bài thơ “Tây Tiến” đã làm sống dậy cả một trung đoàn, từ đó địa danh Tây Tiến
đã trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên ngọc sáng trong tâm hồn, tấm lòng và thơ ca
Việt…

Mở bài
1. Trong một miền nhớ rộng dài, Thôi Hữu đã viết nên những vần thơ đẹp đẽ tình đồng đội trong
“Lên Cấm sơn”:
“ Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà”.
Và cũng “chơi vơi” trong miền nhớ, cũng viết về những người đồng đội cũ, Quang Dũng có lẽ đã
gặp gỡ Thôi Hữu ở những cung bậc tình cảm ấy khi ông viết “Tây Tiến”. Nhà thơ trở về với một
kỉ niệm của riêng mình, với nỗi nhớ riêng của lòng mình và cho độc giả cơ hội hành hương về
những năm tháng không thể nào quên của lịch sử dân tộc. Hình tượng người lính đã hiện lên thật
đẹp giữa thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ qua cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa của
tác giả.
2. Tình cảm là biểu hiện tâm lí của con người nói chung, nhưng ở người nghệ sĩ điều này trở nên
đặc biệt. Sóng Hồng cho rằng : “Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy
trong lòng” và Leonop, nhà thơ Nga cũng thừa nhận: “Có những đêm rất khổ, không ngủ được,
mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung, khi đó tôi viết.” Và cũng bắt đầu từ một
trạng thái “lòng tràn ngập nhớ nhung” như thế, Quang Dũng sáng tạo nên “Tây Tiến”. Tác phẩm
đã khắc họa thành công hình tượng người lính trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng
vĩ, dữ dội và mĩ lệ qua cảm
3. Khi kí ức mãnh liệt nó có khả năng hiện tại hóa quá khứ. Như một lẽ thường, những gì đã đi
vào nỗi nhớ đều là những kỉ niệm ấn tượng mãnh liệt, sâu sắc, đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc
đời mỗi con người. Và ngược lại, những gì có giá trị khi đã đi vào miền nhớ đều có sức sống bền
lâu. Sức đồng vọng của quá khứ vào hiện tại , qua nỗi nhớ thường sống dậy hơn bởi độ sâu da
diết của nỗi lòng và bởi sự nới rộng của nỗi bâng khuâng. Và có lẽ trong hình dung của tôi, “Tây
Tiến” của Quang Dũng là minh chứng rõ nét nhất cho cái nỗi nhớ “bền lâu”, “da diết” ấy. Trong
tình cảm chơi vơi cả đất trời, tác phẩm của Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng
người lính trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ.
4. Nếu như ta bắt gặp một nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi” trong ca dao xưa, một nỗi nhớ tha thiết trong
“ Tương tư chiều” của Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em.
Anh nhớ lắm! Em ơi!” thì đến với “Tây Tiến” của Quang Dũng ta cũng lại thêm một lần nữa đắm
trong miền nhớ rộng dài. Đó là nỗi nhớ của nhà thơ với núi rừng Tây Bắc, nơi tác giả đã có rất
nhiều kỉ niệm đáng nhớ, đẹp đẽ với đồng đội và cũng nhờ nỗi nhớ ấy mà ngày hôm nay chúng ta
vẫn còn nâng niu và trân trọng “Tây Tiến” vì nó đã khắc họa thành công chân dung người lính
trên cái nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội nhưng cũng rất đỗi trữ tình.
Diễn đạt
-Khi viết về những người lính trong tác phẩm Tây Tiến-Quang Dũng, về vẻ đẹp tâm hồn cũng
như những hy sinh của họ, các bạn hoàn toàn có thể thấy điểm tương đồng trong dòng chảy thi ca
nhân loại:
Anh đứng - đất là đất
Anh nằm - đất là lăng
Dải Ngân Hà vằng vặc
Muôn đời soi quanh anh
(Sergei Orlov)
Làm sao đây bù đắp nỗi đau này,
Khi chính tôi cũng là người lính,
Ngày mai trên con đường chiến trận
Có thể rồi cũng ngã xuống như anh.
(Konstantin Simonov)
-Ví dụ khi phân tích “Tây Tiến” (đoạn thơ nói về những hy sinh của người lính) mình sẽ chọn
một đoạn thơ rất hay của Đoàn Tuấn:
“Chiều chôn bạn trong nghĩa trang quen thuộc
Đêm về hầm còn lại mỗi mình tôi
Tôi mới thấy xót xa thương bạn
Nằm bên ngoài Tổ quốc dưới mưa rơi”
hay khi phân tích về tình đồng chí đồng đội của những người lính năm xưa:
“Tuổi 18
bị thương
không khóc
nhưng lại rơi nước mắt
khi bạn bè bị thương”
---Với hai vũ khí: cây súng và cây bút, Quang Dũng đã tuyệt đối và trọn vẹn làm tròn trách
nhiệm của mình, ở những trang viết, nó là mục đích cuối cùng của một người viết văn trong ý
nghĩa chân chính của từ này. Với “Tây Tiến” nhà thơ đã dựng nên bức tượng đài người lính
một thời “hoa lửa” trong nỗi nhớ bàng bạc về những ngày đã qua...
9
-----Về "Tây Tiến" thì đừng lấy "Tây Tiến biên cương mờ lửa khói / Quân đi..." ai cũng lấy rồi thì
sáng tạo khác đi. Một số đoạn thơ khác của Quang Dũng mình thích như:
"Dọc những đường thu muôn nẻo ấy
Rất nhiều nghệ sĩ nhớ xa xôi
Đường qua gian khổ bao ngày tháng
Từng nghe thu lại ấm hương đời."
"Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?"
--Có những tác phẩm ra đời như bươm bướm nở ngày mùa, như chuồn chuồn vỡ tổ, khiến
người ta đọc xong quên ngay, đến khi cầm lại mới ngỡ như mình đọc rồi. Nhưng cũng có
những tác phẩm như dòng phù sa chảy qua tâm hồn, để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm
khảm. Và tôi tin "Tây Tiến" của Quang Dũng là một tác phẩm có được sự khắc chạm như thế
với chân dung người lính hào hùng hào hoa của một thời khói lửa.
- "Thơ là chữ nghĩa cũng không phải là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà
không hẳn vô thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ". Và "sự bộc lộ" ấy, qua
Quang Dũng, hình thành nên "Tây Tiến". Qua tác phẩm, nhà thơ "xứ Đoài mây trắng" đã cho ta
cảm nhận được về tinh thần dũng cảm và tư thế hiên ngang của những người lính Tây Tiến
trong những năm tháng "cả nước lên đường", trong những năm tháng gian khổ đau thương
nhưng cũng vĩ đại oai hùng.

LIÊN VĂN BẢN:


*Đoạn ba của bài thơ:
-Song hành cùng sự hoang dã, nguyên sơ nơi rừng thiêng nước độc, núi rừng Tây Bắc còn để lại
ấn tượng sâu sắc cho độc giả bởi thứ tình người nồng thắm, ân tình chan chứa, hòa quyện bao kí
ức khắc ghi sâu sắc giữa những người chiến sĩ và bản làng nên thơ hiện diện thấp thoáng hồn ta
mùi nếp xôi thơm lừng chiều tà vang vọng:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
 SAU KHI PHÂN TÍCH HAI CÂU THƠ TRÊN, MÌNH SẼ LIÊN HỆ ĐẾN MỘT BÀI THƠ
CÓ NỘI DUNG TƯƠNG TỰ:
+Nếu như thánh thần ban tặng đất trời sơn thủy “bức tranh tứ bình” với sắc đỏ cháy rực của hạ;
vẻ đằm thắm, trữ tình xuân sắc; cơn giá thét gào làm buốt giá tim ta nỗi đơn côi phủ nhòa sắc
xanh sức sống của lá thường xuân năm nào: đông về; hay ý vị dịu dàng trở lạnh:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu” (Hữu Thỉnh)
Thì ở đây, thiếu nữ hoang dại Mai Châu lại được ví như một mùa trong năm “mùa em”, mà mỗi
khi bất chợt gợi nhớ, người lính lại bâng khuâng bởi cảm giác yêu đương mơ hồ vùng Tây Bắc.
Tôi chợt nhớ đến tiếng thơ tình yêu tuyệt diệu kết đọng trong thi phẩm “Tiếng hát con tàu” của
Chế Lan Viên:
“Anh nắm tay em vào cuối mùa chiến dịch
Bát xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”
*Hai câu cuối của khổ năm:
- Hai câu hỏi cuối đầy xao xuyến cất lên hòa lẫn cùng tiếng gió rít đôi bờ tĩnh lặng với phép
điệp cấu trúc “có thấy hồn lau”, “có nhớ dáng người” diễn tả nỗi nhung nhớ khôn xiết hướng về
cảnh sắc xưa kia:
“Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
 SAU KHI PHÂN TÍCH, CÁC BẠN CÓ THỂ LIÊN VĂN BẢN ĐỂ TẠO CHIỀU SÂU CHO
BÀI VIẾT NHÉ!
+ Bông lau đơn sắc khẽ đung đưa theo chiều gió chở nặng ưu phiền như trong áng văn của Chu
Văn Sơn. Ta cảm tưởng Quang Dũng đang cầm cành lau nhớ thương, liên tưởng về một miền
xa thẳm, sự kết hợp tinh tế giữa không gian đa chiều mở ra cánh cửa trôi về dĩ vãng để nỗi nhớ
đầy vơi đọng lại nơi cội cây thời gian vô tình: sự hào hoa, lãng mạn quyện lại chút dư vị mang
bóng dáng thi liệu cố nhân, đường nét hiện đại điểm xuyến, gây ấn tượng về sự hòa trộn đầy
nghệ thuật về một loài hoa dại mà GS_TS Chu Văn Sơn từng ngợi ca thuở trước:

“Đó là loài hoa nở vào cuối năm


Đó là loài hoa mọc nơi cuối đất
Đó là loài hoa đợi ở cuối đời” (Phận hoa bên lề)
“Tây Tiến” chính là đóa hoa đẹp nhẹ nhàng, lạ lẫm nơi đôi mắt người tiếc nuối năm xưa, lắng
đọng đóa lau bình dị một tình cảm chân thành: người ra đi- người ở lại... tại miền đất hứa thủy
chung, ta vẫn đợi người thương nhớ cả một đời!
2, MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ TÂY TIẾN:
-“Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi hồn thơ rất
trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy, não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời
gian oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện sâu sắc qua ngòi bút
Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể- nỗi nhớ đồng đội trong quân đoàn Tây Tiến. Chính
niềm thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của
mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ
đạo của bài thơ này”
(Vũ Thu Phương- tượng đài bất tử về người lính vô danh, Tây Tiến)
=> Áp dụng khi nói về CHỦ ĐỀ hoặc GIÁ TRỊ của thi phẩm đối với độc giả
-“Tây Tiến là một sáng tác có giá trị về tư tưởng, về nghệ thuật. Bài thơ được viết ra với
những màu sắc thẩm mỹ phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở và vẻ đẹp bình
dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ, hòa hợp với chất tình
nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Đọc Tây Tiến, người ta “như ngậm âm nhạc trong miệng” (lời
nhà thơ Xuân Diệu). Một đoạn thơ với âm hưởng riêng, khi mạnh mẽ, khi uyển chuyển đã tái
hiện thành công những khó khăn, gian khổ cũng như tinh thần sống lạc quan của bộ đội trong
kháng chiến. Bài thơ có sức hút mãnh liệt giống như một loại từ trường khiến Tây Tiến cứ
“băng băng” đi vào lòng độc giả...”
(Hà Minh Đức- Tác phẩm văn học, bình giảng và phân tích)
=> Áp dụng khi các bạn nhận xét về NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ của Tây Tiến
"Kính chào Anh, con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi"
(Bài ca xuân 68- Tố Hữu)
=> Áp dụng khi ca ngợi vẻ đẹp người lính hay phần kết bài nhé!
𝐓𝐒 - Tây Tiến - Một niềm nhớ vấn vương, một niềm thương khôn cùng –
Ta nhớ Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân khi viết về Nguyễn Du đã có dòng riêng khắc
khoải: “Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai
đọc đến cũng thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột…”. Và máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt
thấm trên tờ giấy ấy lại không gì khác ngoài những xúc động, những nỗi niềm và trăn trở của tác
giả trước xã hội nhiễu nhương, kiếp người bạc mệnh. Cảm xúc đã đóng vai trò quyết định, là
nguồn cội của mọi sáng tạo nghệ thuật. Đối với thơ ca, ta hiểu một quy luật đặc biệt, đó là “quy
luật của thế giới nội tâm chiếu ứng với những vòng sáng cảm xúc chân thực, điển hình và mãnh
liệt dội lên trên câu chữ. Người xưa nói thơ ưa đạm không ưa nồng, nhưng là cái đạm sau khi đã
nồng, thơ ưa phát không ưa xảo, nhưng là cái phác sau khi xảo. Bởi vậy, tình sâu là sức đẩy bồn
chứa bên trong để tạo hồn cốt cho ngôn từ và cái thần của người làm thơ”.
Trong thơ ca kháng chiến chống Pháp, dọc chặng đường hành quân gian khổ, những anh chiến sĩ
Vệ quốc quân đã có những kỉ niệm vui - buồn cùng nhau, lí tưởng tuổi trẻ hòa cùng tình đồng chí
đồng đội keo sơn gắn bó, lòng yêu nước thiết tha hòa cùng quyết tâm đưa quê hương khỏi bóng
quân thù. Tất cả đã quyện thành một nỗi nhớ sâu đậm đọng lại tấm lòng mỗi người lính sau khi
chia xa đồng đội, nỗi nhớ ấy đã thao thức và sống dậy, tạo thành “tình sâu” trong những vần thơ
bi tráng và lãng mạn của Tây Tiến. Ta nhận ra rằng,
“Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, để thành nỗi nhớ và tiếc nuối. Những
tiếng “xa rồi Tây Tiến ơi!” thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc. Tiếng lòng đó
cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga
không dứt trong không gian bởi “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!". Những hình ảnh thiên nhiên như
đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về
đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời
trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi nhớ dâng lên trong lòng người chiến
sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy
lại trong một trạng thái thật diệu vợi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi... Có lẽ nhà thơ đã đạt
được cái tài và cái tình ấy trong cầu thơ "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!”.
Trước đó hai năm, nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ cũng từng diễn tả nỗi "Nhớ Bắc” của mình, nghĩ về
thuở trước hào hùng mà không nguôi “thương nhớ”:
“Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương
Ai về xứ Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long…”.
(Nhớ Bắc, Huỳnh Văn Nghệ).
Còn với Quang Dũng, dường như nhà thơ cũng nghe lòng mình trĩu nặng nhớ thương, cũng muốn
thăm lại những kỉ niệm vấn vương bên đoàn quân một thời hoa lửa. Dường như trong mỗi khoảnh
khắc đứng trước thơ ca, mỗi thi nhân đều tựa vần thơ vào nỗi nhớ, tựa tâm hồn vào kỉ niệm để
thành hình con chữ đầy xúc. Phác thảo rất thành công hình ảnh người lính chống Pháp vừa dũng
mãnh vừa lãng mạn, thấp thoáng chất tráng sĩ hào hoa, nhà thơ Hữu Loan cũng từng viết: “Sau
mỗi lần thắng/ những người trấn Đèo Cả/ Về bên suối đánh cờ/ Người hái cam rừng/ ăn nheo
mắt/ Người vá áo/ thiếu kim/ mài sắt/ Người đập mảnh chai/ vểnh cằm/ cạo râu/ Suối mang bóng
người/ soi/ những/ về đâu?” (Đèo Cả).
Người mang nỗi nhớ đất Thăng Long, người không quên từng bóng người soi vào dòng suối kỉ
niệm, người gửi chơi vơi vào núi rừng Sông Mã để tìm lại chặng đường hành quân đã qua cùng
Tây Tiến.
Thật một niềm nhớ vấn vương, một niềm thương khôn cùng...
“Khói sương giăng… mờ theo bóng ngả
Như ta chừ tóc đã lần phai
Tâm tư lưu dấu ưu hoài”.
XEM BÚT TÍCH QUANG DŨNG NÓI THÊM VỀ TÂY TIẾN
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921-1988). Lúc đầu bài thơ này
được tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến, đến khi in lần đầu tiên ở tập Mây đầu ô mới được đổi thành
Tây Tiến. Nhiều tài liệu đều xác định Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 nhằm
phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, hoạt động tại Hòa Bình, Sơn La, Thanh
Hóa, Sầm Nưa (Lào). Nhan đề Nhớ Tây Tiến có lý do của nó, vì bài thơ được sáng tác vào năm
1948 khi Quang Dũng đã không còn ở đơn vị cũ (Tây Tiến), chuyển đến đơn vị mới tại Phù Lưu
Chanh (Hà Tây). Tình cờ, tôi đọc được bài thơ này qua bút tích của chính tác giả Quang Dũng
chép trong một cuốn sổ tay cũ của cha tôi - nhà thơ Hải Bằng (Cuốn sổ tay ấy còn có nhiều bút
tích của các tác giả khác như Phùng Quán, Phạm Khoa Văn, Phạm Tiến Duật, Vương Trọng,
Cảnh Trà, Thanh Hải, v.v). Ở bản bút tích của Quang Dũng, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến
- 1947”.
Xưa nay, chúng ta đều tiếp nhận bài thơ theo nội dung ở bản in lần đầu như đã nói, ở các công
trình nghiên cứu được xuất bản. Từ năm 1990 bài thơ này đã được đưa chương trình giáo dục.
Hiện nay, học sinh lớp 12 học và phân tích ngữ văn bài thơ này trong sách Ngữ văn.
Tất cả các bản in lại bài thơ dường như đều có một sự thống nhất chung về câu cú, từ ngữ,
chính tả, không có sự khác biệt nào. Tuy nhiên, ở bản chép tay này có một số chi tiết khác biệt so
với các bản in đó. Một số chi tiết khác biệt ấy cũng không có gì để bàn luận vì so với bản bút tích,
các bản in ấy đã thể hiện một quy tắc chuẩn chính tả mà thôi. Ví như “Anh bạn rãi rầu” (bản bút
tích - BBT) thành “Anh bạn dãi dầu” (bản in - BI); “Nàng E ấp” thành “nàng e ấp”, “Nhạc về
Viên Chiên” thành “Nhạc về Viên Chăn”, v.v.
Tuy nhiên, giữa hai bản này có 03 chữ khác biệt rất quan trọng vì liên quan đến ngữ nghĩa câu
thơ và ý tứ tác giả. Dưới đây là so sánh và phân tích qua các câu có từ khác biệt:
- Khác biệt 1: Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi (BBT) sẽ hoàn toàn khác với Đêm đêm
Mường Hịch cọp trêu người (BI). Ở đây có sự khác biệt giữa trêu ngươi và trêu người.
Dẫn lại dòng thơ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”.
Dòng thơ miêu tả cảnh núi rừng hùng vĩ, uy linh của đại ngàn gắn với không gian và thời gian
tâm trạng của con người. Theo bản in là “cọp trêu người” (đùa giỡn với người) là có gì đó chưa
đúng. Cọp vốn dĩ hung dữ, là nỗi kinh sợ của con người và đại ngàn. Hơn nữa, trên thực tế làm gì
có chuyện cọp trêu đùa với người, mà chỉ có thể trở thành nỗi khiếp đảm kinh hoàng của con
người mà thôi. Trong khi đó, bản bút tích là “cọp trêu ngươi” (khiêu khích chọc tức), do đó, “trêu
ngươi” ở đây hợp lý không chỉ về ngữ nghĩa mà còn hợp lý về cả thanh điệu câu thơ.
- Khác biệt 2: Mai Châu mùa em thơm nếp sôi (BBT) sẽ hoàn toàn khác với Mai Châu mùa em
thơm nếp xôi (BI). Ở đây có sự khác biệt giữa sôi và xôi.
Dẫn lại dòng thơ: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp sôi”. Rõ ràng ở
bản bút tích chữ “sôi” là hợp với tình ý với mạch câu thơ hơn là “xôi”. “Thơm nếp sôi” sẽ bắt
cùng hình ảnh trên là “cơm lên khói”. Sôi là vừa một động từ vừa là một tính từ chỉ trạng thái
(đang sôi lên) mới khiến dậy lên được cái mùi nồng nàn của “thơm nếp”. Còn “thơm nếp xôi” thì
“xôi” là một danh từ, vô hình trung tạo nên nét dư không cần thiết trong thơ. Tập quán định danh
sự vật ở đây thường có các cách gọi: cơm nếp, hoặc xôi mà thôi. Chữ “sôi” trong ngữ cảnh này,
Quang Dũng sử dụng là đúng như nghĩa của nó, không phải nhầm lẫn về ngữ âm kiểu dãi dầu -
rãi rầu (trong bài) hay kiểu trăng - giăng, nhảy nhót - nhẩy nhót, v.v. trong tập quán chính tả của
phương ngữ Bắc bộ. Hơn nữa, trên thực tế, tập quán chính tả của người miền Bắc chỉ có thể nhầm
từ sum họp thành xum họp, chia sẻ thành chia xẻ khi viết, nghĩa là /s/ bị nhầm thành /x/, không có
trường hợp ngược lại (/x/ bị nhầm thành /s/). Do đó, thơm nếp sôi, trong đó “sôi” là một động từ
và là tính từ với một hiển ngôn rõ ràng của Quang Dũng hướng đến.
Do vậy, cả 4 dòng thơ trên thiết tưởng cũng cần đính chính lại để diễn trúng ý của tác giả và tình
ý của bài thơ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi (không phải người)
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp sôi (không phải xôi)
- Khác biệt 3: “Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” (BBT) sẽ hoàn toàn khác với “Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm” (BI). Ở đây có sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không viết hoa.
Dẫn lại dòng thơ: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”. Ở đây,
bản bút tích Quang Dũng đã ghi một chữ Kiều viết hoa. Mà sau đó, trong bản in vì chữ kiều được
nhận thức là không viết hoa nên sách giáo khoa đã giải thích như sau: “Dáng kiều thơm: dáng vẻ
xinh đẹp, đáng yêu của người con gái”. Rõ ràng sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không
viết hoa đã khiến ngữ nghĩa câu thơ khác biệt hoàn toàn.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội với thành phần chủ yếu là thanh niên, sinh viên, học sinh Hà
Nội. Chiến đấu xa nhà, trong muôn ngàn gian khổ, nhất là trong cơn sốt rét giày vò đến nỗi da
“xanh màu lá” ấy vẫn kiêu bạt, phóng mắt từ bên kia biên giới Lào để “trừng gửi mộng” về một
Hà Nội hào hoa; để mơ một “dáng Kiều thơm” hư tan trong ký ức. Đó là một nàng Kiều bước ra
từ sách vở, một giai nhân qua chữ nghĩa, một hư ảnh đẹp đẽ của thuở thiếu thời, một mộng tưởng
dậy thì đằm sâu, chợt gợi thức từ chiêm cảm. Vậy nên, “dáng Kiều thơm” đó là chỉ hiện thân của
cái đẹp tượng trưng, chỉ gọi tên mà không định được danh mà thôi. Đó chính là sự lãng mạn tìm
quên để ngoai nguôi khốn khó, ngoai nguôi bệnh tật dày vò từ hoàn cảnh. Lại nữa, cái gọi là
thơm trong “dáng Kiều thơm” không còn là mùi vị được cảm nhận qua khứu giác mà đó là cảm
thức của tri giác, cái thơm được rút ra từ câu chữ: Cảo thơm lần dở trước đèn chăng? Vậy đó, chỉ
một chữ Kiều viết hoa mà tình ý thi ca đã khác biệt dường nào!
Đọc và cảm nhận Tây Tiến không khó để nhận ra ảnh tượng chinh nhân, tha hương bước từ
huyền thoại. Không khí cổ trang được gợi nhắc toàn bộ bài thơ “gập ghềnh, khúc khuỷu, heo hút”
theo mạch cảm xúc. Sự kết dính thấy được của hàng loạt từ ngữ do thi sĩ cố ý dựng lên để thành
huyền thoại: hội đuốc hoa - xiêm áo - nàng - chiều sương - hồn lau - đoàn binh - dữ oai hùm - gửi
mộng - dáng Kiều - mồ viễn xứ - áo bào, v.v. Rõ ràng, từ ngữ đó gần gũi, dan díu với cảm thức
thẩm mỹ trung đại bắt rễ từ những “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc
đao cung” (Chinh phụ ngâm) đồng vọng bóng chinh nhân. Vẻ đẹp của bài thơ rốt cục là cái tình
thật của người lính, lãng mạn trước hiện thực khắc nghiệt, chất chứa khúc tráng ca từ ký ức chợt
phút chốc dậy lên, xô lệch cả thời gian hiện thực.
Hy vọng, những chữ khác biệt và phân tích trên sẽ được người yêu thơ, đặc biệt là các nhà
soạn sách giáo khoa quan tâm để nếu có thể “đính chính” lại văn bản bài thơ “Tây Tiến”, góp
phần minh định nội dung tác phẩm.
Huế, hạ 2021
TÂY TIẾN – QUANG DŨNG. (P1 - Có live)
I. Tiểu dẫn.
1. Tác giả.
- Quang Dũng:
+ Vừa là chiến sĩ (cầm súng).
+ Vừa là nghệ sĩ (cầm bút).
--> Giống Chính Hữu, Phạm Tiến Duật.
- Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến.
- Đa tài: làm thơ, vẽ tranh, làm văn, viết nhạc.
2. Tác phẩm.
- Hoàn cảnh sáng tác: làng Phù Lưu Chanh.
--> nhớ --> xuất thần --> viết.
--> QD đã viết TT bằng cả nỗi nhớ, và đây cũng chính là chủ đề của cả bài thơ.
- Xuất xứ: trích từ tập “Mây đầu ô”.
3. Mở rộng.
- Chủ đề nỗi nhớ:
+ Việt Bắc: nỗi nhớ da diết của người đi và kẻ ở sau 15 năm gắn bó.
+ Sóng: đau đáu, cả trong mơ còn thức.
- Nhận định:
+ “Tây Tiến là hoa thơ vào loại đẹp nhất của thơ ca trong những năm đầu kháng chiến chống thực
dân Pháp.” (Nhà giáo Đỗ Kim Hồi)
II. Đọc – hiểu văn bản.
Đề 1: 14 câu thơ đầu.
- Kết cấu bài thơ: Tổng phân hợp. (2 câu chủ đề ở đầu và cuối)
* Thân bài.
B1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm. (nếu cần)
B2: Tóm tắt sơ lược nội dung của tác phẩm.
B3: Phân tích.
a) Nội dung.
* Khởi nguồn nỗi nhớ. (2 câu đầu)
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
- Địa danh xuất hiện: ý định sáng tác của tác giả - tác giả cài mã.
+ Sông Mã.
+ Tây Tiến.
--> 2 ấn tượng của Quang Dũng hiện lên đầu tiên mỗi khi nhớ.
- 2 hình ảnh:
+ Thiên nhiên: Sông Mã.
+ Con người: Tây Tiến.
- Đây được xem là 2 câu thơ chủ đề của bài thơ: nỗi nhớ.
- Điệp: nhớ về - nhớ chơi vơi --> nỗi nhớ càng về sau càng sâu sắc và lan rộng. Nó bao trùm
không gian và thời gian. Ấn tượng nỗi nhớ của tác giả tập trung vào 2 đối tượng: Sông Mã và Tây
Tiến. Trong 1 câu thơ 7 chữ mà có tới 4 trên 7 chữ nói về địa danh --> Những địa danh này đã trở
thành ấn tượng sâu sắc trong ký ức của nhà thơ. Đúng như Chế Lan Viên từng viết:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.”
- Sông Mã: bạn đường trong chuỗi hành quân.
--> Đại diện tiêu biểu cho nỗi nhớ về cảnh.
- Tây Tiến: tên của một binh đoàn – binh đoàn của những người rất trẻ tuổi (17,18). Người con
Hà Nội, đồng lòng, đồng sức gắn bó yêu thường.
--> Tây Tiến chính là máu mủ, là anh em, là đồng chí. Tây Tiến vang vọng và lặp đi lặp lại.
- Bằng 2 câu thơ điệp vần chân “ơi” + phép điệp “nhớ” --> Nhà thơ đã tạo ra một âm điệu nhẹ
nhàng, tha thiết. Đó là âm điệu về niềm thương và nỗi nhớ, về cảnh và người. Và đó cũng chính
là âm điệu chủ đạo xuyên suốt cả bài thơ.
* Nỗi nhớ về cảnh. (6 câu tiếp)
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
- Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội.
+ Địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông.
--> Thuộc về những vùng núi trập trùng, hiểm trở.
+ Địa hình:
Hình ảnh “sương lấp”.
--> Hành trình của đoàn quân bị bap phủ, che lấp bởi màn sương giăng khắp không gian  hoang
vu, lạnh lẽo, nguy hiểm rình rập, đầy nguy cơ.
Đồi núi trập trùng.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”.
--> Biện pháp điệp như nhân lên những con dốc nối nhau, vừa khúc khuỷu, ngoằn nghèo lại vừa
cao vời vợi.
--> Thể hiện địa hình hiểm trở, hùng vĩ.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
--> Độ cao của cồn mây, con dốc. Địa hình của chặng đường hành quân rất heo hút, hiểm trở.
Bằng biện pháp đối và điệp, câu thơ:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”.
--> Nhà thơ nhấn mạnh sự thay đổi độ cao đột ngột của cung đường hành quân. Câu thơ vừa có
chiều cao của núi lai vừa có chiều sâu của dốc.
--> Những câu thơ trên đã vẽ lên một bức tranh về thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ, hùng vĩ,
vừa ẩn tàng những nguy hiểm trập trùng.
(Cần chú ý phân tích thêm về hợp xướng âm thanh).
+ Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
--> Địa hình của vùng núi Tây Bắc được đặc tả bằng thủ pháp đối lập vừa hiểm trở, hùng vĩ, vừa
thơ mộng, trữ tình.
--> Câu thơ toàn thanh bằng gợi lên âm điệu nhẹ nhàng --> Sử dụng kĩ thuật phối âm: Những câu
trước chủ yếu dùng thanh trắc, câu cuối chủ yếu dùng thanh bằng do Quang Dũng người đa tài --
> thi trung hữu nhạc.
- 6 câu thơ trên đã thể hiện sự logic về điểm nhìn (sự dịch chuyển điểm nhìn của chủ thể trữ tình
--> mở ra không gian có cả chiều cao – chiều sâu – chiều rộng).
--> Người lính đã thu vào tầm mắt của mình tất cả chiều kích của không gian đó.
==> Chốt: Nhớ về cảnh Tây Tiến, QD nhớ về những địa danh và địa hình, về bức tranh hùng vĩ,
hiểm trở và thơ mộng trữ tình.
* Nỗi nhớ người. (6 câu tiếp)
- Đồng đội xuất hiện với hình ảnh:
"Đoàn quân mỏi". (1)
"Không bước nữa". (2)
"Gục lên súng mũ bỏ quên đời". (3)
--> Trật tự tăng cấp, nhấn mạnh sự hi sinh, mất mát của những người lính Tây Tiến trên chặng
đường hành quân.
--> Bằng biện pháp nói giảm nói tránh, nhà thơ đã giảm nhẹ sự đau thương khi nhắc lại những
người đồng dội cũ.
- Người dân.
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói (1)
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". (2)
(1) Yếu tố văn hóa phương Đông --> Sự ấm á của gia đình.
Sự ấm áp của tình cảm quân dân.
(2) Sáng tạo của riêng QD --> gợi đến mùa lúa mới, vừa gợi đến mùa tình yêu.
--> Cả 2 hình ảnh (1) và (2) đều gợi đến tình cảm quân dân ấm áp. Tình cảm đó không chỉ được
QD thể hiện trong bài thơ TT mà còn được một số nhà thơ khác như nhà thơ Hoàng Trung Thông
đề cập đến trong "Bao giờ trở lại":
"Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau".
==> Nỗi nhớ của QD còn là về đồng đội và người dân vùng Tây Bắc.
* Tiểu kết:
- ND:
Đoạn thơ chỉ vẻn vẹn 14 câu nhưng đã thể hiện rất rõ chủ đề của bài thơ.
- NT:
Đoạn thơ thể hiện được tài năng nghệ thuật của QD trong việc sử dụng thủ pháp đối lập, biện
pháp nói giảm nói tránh, tăng cấp, phối thanh,... Tất cả đã thể hiện được đặc điểm phong cách
nghệ thuật của QD --> Cây bút tài hoa lãng mạn.
Chân dung người lính trong “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Đồng chí” của
Chính Hữu
Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Đều
là những người nghệ sĩ tài hoa, và có nhiều tài năng trong phép sử dụng ngôn ngữ và các nét điển
hình trong phong cách nghệ thuật, Quang Dũng và Chính Hữu đã làm nên những giá trị to lớn
trong những tác phẩm của mình.
Người lính là hình tượng trung tâm trong văn thơ thời kháng chiến, ở mỗi thời kì lịch sử của
những cuộc chiến tranh, người lính trong đời sống thực tại cũng như trong thi ca đều có những
nét khác nhau. Đù cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp có hai loại người lính: một là người
lính xuất thân từ nông dân như trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; hai là người lính xuất thân
từ tầng lớp tiểu tư sản thành thị như trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng thì cả hai đều có
chung lí tưởng yêu nước, đánh giặc, cùng thể hiện trách nhiệm xả thân vì tổ quốc, vì nhân dân.
Đó chính là vẻ đẹp về chân dung người lính sẽ được chúng ta đề cập, bàn luận đến trong hai bài
thơ nổi tiếng là Tây Tiến và Đồng chí.
Chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến được miêu tả bằng cảm hứng lãng mạn. Bút pháp
lãng mạn thường thể hiện bằng cái cao cả, phi thường. Khung cảnh, hoạt động của người lính
cũng là khung cảnh phi thường:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Những độ cao, những vực thẳm hay những heo hút chỉ làm tăng vẻ hào hùng cho người lính chứ
không đe dọa các anh. Và thiên nhiên còn ẩn chứa cả những bí mật, những hiểm nguy vẫn không
hề gây sợ sệt cho người lính:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người”
Hình ảnh người lính cũng thật là phi thường. Người lính Tây Tiến gần với người hiệp sĩ vì nghĩa
cả lớn lao, nhưng họ là những con người bằng xương bằng thịt đang sống, chiến đấu trong hoàn
cảnh gian khổ của những ngày đầu kháng chiến:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Miêu tả những gian khổ, khó khăn của người lính ở rừng rất chân thật, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt
rét… đến nỗi rụng hết tóc. Nhưng bút pháp lãng mạn không làm yếu người lính mà càng oai hùng
đầy tự hào. Cái chết cũng bi hùng, đượm tinh thần hi sinh khí phách anh hùng của hiệp sĩ:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Người lính Tây Tiến mang theo nét hào hoa của những thanh niên đất Hà thành lên đường chiến
đấu thời bấy giờ, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Tình quân dân cũng nhuốm màu sắc lãng
mạn:
“Doanh trại bừng lèn hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”.
Con người như lạc vào thiên nhiên thơ mộng, lạc vào xứ lạ, phương xa thường thấy trong cảm
hứng lãng mạn.
Giấc mơ của người lính Tây Tiến cũng là giấc mơ của những thanh niên Hà Nội tràn đầy tinh
thần lãng mạn:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Nhà thơ Quang Dũng đã mạnh dạn xây dựng chân dung người lính thời kháng chiến bằng một
tình yêu nồng nàn. Người lính sẵn sàng hy sinh vì lợi ít dân tộc, quê hương. Với ngòi bút tài hoa
của tác giả, hình tượng người chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ và lãng mạn.
Hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu được tác giả mô tả với bút
pháp hiện thực. Người lính hiện lên với tất cả các dáng vẻ chất phác, lam lũ của người nông dân
mặc áo lính. Họ là người của nhiều miền vùng, đến từ những làng quê nghèo đói, gặp nhau trong
lí tưởng cứu nước:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hạn quen nhau”
Từ tình yêu giai cấp, tình yêu nước, lòng căm thù giặc nên họ đã nâng lên thành tình đồng chí,
một thứ tình cảm mới mẻ:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Tấm chăn đắp lại thì tâm tư họ mở ra, họ hiểu rõ hoàn cảnh của nhau, thông cảm lẫn nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”.
Ở ngoài chiến trường mà nghe rõ gió lung lay từng gốc cột của ngôi nhà mình, người lính thương
yêu gia đình, quê hương biết bao nhiêu, nhưng trước hết họ phải vì nghĩa lớn, nợ tang bồng. Về
tinh thần hiệp sĩ này, họ lại rất gần với người lính Tây Tiến của Quang Dũng.
Họ sẵn sàng chịu đựng những gian khổ, thiếu thốn tột cùng của cuộc kháng chiến:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài miếng vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Tình đồng chí đã nuôi dưỡng tâm hồn của những người lính và họ đã biến nó thành sức mạnh
chiến đấu. Một chi tiết trong thơ: chiếc áo trong Tây Tiến của Quang Dũng nói là áo bào có tính
chất hiệp sĩ còn trong Đồng chí của Chính Hữu nói áo anh rách vai rất hiện thực.
Từ tình thương yêu giai cấp, cùng tham gia kháng chiến, họ đã cùng vươn lên đỉnh cao của tình
đồng chí, đồng đội:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí; áo anh rách vai, quần tôi có vài miếng vá là một
cặp đồng chí; đêm nay giữa rừng hoang sương muối đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới là một cặp
đồng chí. Và cũng rất lạ, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí: “đầu súng trăng treo”. Súng và
trăng là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.
Sự kết hợp yếu tố hiện thực tươi rói với tinh thần lãng mạn cách mạng là vẻ đẹp riêng của chân
dung người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.
Như vậy, với con mắt tinh tế, một sự trải nghiệm về cuộc kháng chiến của dân tộc, Quang Dũng
và Chính Hữu – hai thi sĩ cách mạng đã phác họa chân dung người lính trong thời kỳ đấu tranh
chống Thực dân Pháp thật oai hung, cao đẹp, giàu lòng nhiệt huyết, yêu nước, chấp nhận hy sinh
để bảo vệ nước nhà. Hình tượng người lính hiện lên với sự lãng mạn như trong bài thơ Tây Tiến
và cũng rất hiện thực như trong bài thơ Đồng chí. Tất cả những đều ấy đã tô điểm cho phẩm chất
của người chiến sĩ, phẩm chất của bộ đội cụ Hồ. Càng đọc hai bài thơ này, chúng ta càng thắm
thía chất thơ trữ tình chính trị, khẳng định tài năng sáng tạo độc đáo của Chính Hữu và Quang
Dũng.
| Trần Thanh Xem - Văn chương phương Nam.
CHẤT NHẠC TRONG BÀI "TÂY TIẾN" CỦA QUANG DŨNG (trích)
Bây giờ nói đến nhạc tính của bài thơ Tây Tiến. Chính sự đa thanh, đa giọng điệu đã làm cho bài
thơ có được một nhạc tính phong phú, trong đó sự trầm hùng là chủ đạo. Tây Tiến khi trắc trở, lúc
dịu êm; khi chất ngất vút cao, lúc trữ tình tha thiết. Đó là âm điệu của nhạc tính thơ cổ điển giàu
sắc thái lãng mạn. Thể thơ bảy chữ phảng phất hơi hướng thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tản Đà, Xuân
Diệu... đã hòa phối cùng cảm hứng hiện thực và lãng mạn về cuộc kháng chiến đã tạo ra một
Quang Dũng vừa kế thừa nhạc tính của âm điệu thơ xưa, vừa cách tân làm mới thơ hiện đại.
Chúng ta đọc thơ giai đoạn chống Pháp, có được mấy bài mà nhạc tính vừa cổ điển lại vừa tân kỳ
như Tây Tiến. Chính kỹ thuật vận dụng ngôn ngữ thơ qua việc sử dụng, phối hợp các thanh bằng,
trắc; tận dụng triệt để các từ láy, các thủ pháp đối lập... làm cho bài thơ rất giàu nhạc tính. Đây là
nhạc tính hùng tráng trong cuộc hành quân của người lính khi vượt qua đèo cao, vựa thẳm: "Dốc
lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời". Các thanh trắc đi liền nhau và
chiếm số lượng lớn, các từ láy tạo hình kết hợp với thủ pháp đối lập đã vẽ ra một địa hình hiểm
trở, dữ dội để người lính vượt qua đến "heo hút cồn mây" mà đưa khẩu súng "ngửi" cả trời xanh.
Quả vậy, chất bi tráng của hình tượng hòa quyện với nhạc điệu trầm hùng đã làm nên vẻ đẹp thơ
hiếm thấy vậy.
Có lúc như để cân bằng, đồng thời chắp thêm đôi cánh cho hình tượng người lính lãng mạn, hào
hoa, Quang Dũng tạo ra nhạc điệu dặt dìu, êm ái, lửng lơ bằng sự phối hợp nhiều thanh bằng (
đi liền nhau trong một câu thơ nhằm tạo âm hưởng về sự thanh bình, mơ mộng. Đây là sự chiêm
cảm hồn nhiên của người lính trước những cánh hoa nở về đêm trên đường hành quân: "Mường
Lát hoa về trong đêm hơi". Câu thơ bảy tiếng mà đã có sáu tiếng thuộc thanh bằng, chỉ một tiếng
là trắc, nhờ thế nhạc điệu của câu thơ là tiếng nhạc lòng ngân nga, vui sướng mà người lính sau
một chặng đường hành quân mỏi mệt nay được ngắm một cánh hoa rừng xinh đẹp như thơ. Đọc
đến đây, ta chạnh nhớ câu thơ cuối bài tả cảnh hương hoa nhài vương vấn trong đêm của Xuân
Diệu: "Và hương bay, thì hoa tưởng hoa bay" (Hoa đêm). Hay sự hào hứng, bình yên giữa một
vùng mưa bay dịu nhẹ khi nhìn thấy thấp thoáng những mái nhà ở Pha Luông lúc người lính dừng
chân: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
[Limbook Văn học sưu tầm]
Nhạc điệu, hơi thơ hào hùng và bi tráng nhất của bài Tây Tiến nằm ở đoạn cuối bài. Với thể thơ
bảy chữ phảng phất thể thơ trường thiên cổ điển, nhưng nhịp điệu "hành" đến Tây Tiến đã được
Quang Dũng cách tân hơn rất nhiều, nó không còn màu sắc "Tống biệt hành" của Thâm Tâm hay
"Hành phương Nam" của Nguyễn Bính nữa. Từ nỗi bi thương, mất mát lớn lao trước sự hi sinh
của người lính Tây Tiến đã dội lại tâm hồn thi nhân mà cất cao điệu nhạc bi hùng, dồn dập, gầm
thét. Âm hưởng cổ điển từ thể thơ, hình tượng, từ ngữ hòa cùng điệu nhạc bi ai của lòng người
đưa tiễn đã tạo nên nhạc điệu trầm hùng - nhạc điệu chính của đoạn thơ Tây Tiến đầy chất bi
tráng: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu
anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Nhắc đến thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chúng ta không thể nào quên nhà thơ Quang
Dũng và bài thơ Tây Tiến xuất sắc. Thi phẩm đã đạt được những phẩm chất nghệ thuật vô cũng
hấp dẫn, góp phần khẳng định tài năng của Quang Dũng, một trong những đỉnh cao của tháp ngà
thi ca hiện đại Việt Nam. Sở dĩ tác phẩm có được sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc suốt hơn
nửa thế kỷ qua và có lẽ sẽ dài lâu hơn nữa là bởi Tây Tiến không chỉ thành công ở nội dung tư
tưởng mà cả ở nghệ thuật đa dạng, đặc sắc của một nghệ sĩ đa tài - một chiến sĩ Tây Tiến suốt đời
trọn đạo với Tổ quốc, nhân dân và tình yêu thi ca bất diệt.

Cảm hứng sáng tác trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Quang Dũng gây chú ý với “Đôi mắt người Sơn Tây” nhưng nổi bậc thành công với “Tây Tiến”.
Ông là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng hơn hết ông vẫn là
một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng
chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, tinh tế và lãng mạn.
Tây Tiến được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của
đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng
cũng rất trữ tình, thơ mộng. Tác phẩm là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong
đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến
cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ
kháng chiến chống Pháp.
Cảm hứng sáng tác trong bài thơ Tây Tiến rất đa dạng, có sự hòa quyện tài tình giữa các bút
pháp hết sức tinh tế. Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở
thành khúc ca bi tráng phản ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng
và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến.
Chất hiện thực hiện lên qua hệ thống hình ảnh phong phú, chân thực, giàu giá trị biểu đạt và tạo
hình. Người đọc không thể nào quên bức tranh núi rừng Tây Bắc trùng trùng, điệp điệp với đèo
dốc “nghìn thước lên cao”, vực sâu “nghìn thước xuống”:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Hay với rừng rậm “thác gầm thét”, “cọp trêu người” vừa kì vĩ vừa rợn ngợp:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Hình ảnh người lính Tây Tiến xuất hiện trên nền cảnh dữ dội, mang vẻ đẹp hùng tráng, đủ sức
chế ngự thiên nhiên khắc nghiệt ấy:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Cuộc sống con người tây Bắc nghĩa tình, hồn hậu cũng được ghi lại hết sức chân thực, đậm chất
miền cao sơn cước:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Hay những đêm hội tưng bừng bên ánh lửa, ấm áp tình cảm quân dân:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Hiện thực cuộc sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến được Quang Dũng ghi nhận, khắc
họa một cách chân, hực, sinh động. Thay vì né tránh hiện thực ấy, nhà thơ đã tìm cách biến hiện
thực khốc liệt ấy thành cái nền nâng đỡ hình tượng người lính mọt cách hài hòa và hết sức hợp
lí.
Bên cạnh bút pháp hiện thực, cảm hứng lãng mạn cũng đã được vận dụng cao độ. Cảm hứng
lãng mạn có xu hướng tô đậm cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội, những
vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lý tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực. Có thể thấy, bức tranh
thiên nhiên và hình tượng người lính đã được tô đậm, khắc sâu đến mức lãng mạn hóa. Vẻ đẹp
của thiên nhiên và cuộc sống con người với địa hình gập ghềnh, hiểm trở với núi cao, vực thẳm,
sông sâu; thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn nhưng cũng toát lên vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng, trữ tình với
tất cả vẻ quyến rũ, làm say lòng người. Thế nhưng, bài thơ không đánh mất chất hiện thực của
nó mà ngược lại, cái hiện thực đã được tôn vinh bằng sự phản ánh kĩ lưỡng và chi tiết đến
tường tận.
Vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến được khắc họa qua những khó khăn, thử thách
không ngăn được bước chân người lính vốn là những chàng trai Hà Thành hào hoa, tinh tế;
những nét bi thương “không mọc tóc,”, “mồ viễn xứ”,… là những âm trầm trong bản hùng ca về
những con người “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình tượng tương phản,
đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Sự đối lập xuất hiện ngay chính trong nền
cảnh núi rừng thâm u, đèo cao, vực sâu, vừa là kẻ thù dữ dội, đáng sợ, vừa thân thiết, chở che
con người. Hình ảnh con người nhỏ bé khi so sánh với nền cảnh nhưng lại lớn lao ở lý tưởng, ý
chí và tâm hồn. Bút pháp đối lập đã mạnh mẽ khẳng định và tôn vinh sức mạnh chiến thắng của
con người trước thiên nhiên và kẻ thù. Chế ngự được thiên nhiên và chiến thắng chính mình để
tồn tại và chiến đấu có thể coi là chiến công đầu tiên của người lính Tây Tiến.
Cảm hứng bi tráng là nét đặc sắc trong bài thơ Tây Tiến. Cảm hứng bi tráng là sự kết hợp giữa
cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem
đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến
sỹ Tây Tiến. Nhà thơ không che giấu cái bi, nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng
một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng.
Hình ảnh người lính đậm chất bi tráng nhưng không bi lụy, não nề mà ngược lại, càng đau
thương, mất mát, họ càng trở nên mạnh mẽ, oai hùng. Người lính Tây Tiến luôn hiên ngang, bất
khuất mặc dù chịu mất mát, đau buồn. Cái chết cũng được tác giả bao bọc trong không khí
hoành tráng. Trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ tráng lệ, người lính xuất hiện với tầm vóc khác
thường. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng
hưởng với nhau để làm nên linh hồn, sắc diện của bài thơ, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của tác
phẩm.
Có một thời gian, nhiều người đọc và nhà phê bình nhìn nhận tiêu cực ở khía cạnh này. Nhưng
kì thực, nếu tước bỏ đi chất bi tráng của bài thơ, tác phẩm sẽ mất đi không khí trầm hùng, chất
say mê, không còn đủ sức khơi gợi cuộc sống và chiến đấu; ý chí và quyết tâm chiến đấu, chiến
thắng kẻ thù của người lính Tây Tiến nữa. Và tất nhiên, bài thơ cũng không còn đủ sức gây ấn
tượng đối với người đọc mọi thế hệ.
Tây Tiến có phảng phất nét buồn đau nhưng đó là nét buồn đau bi tráng. Nằm trong thi pháp
chung của nền văn học 1945 – 1975, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lăng mạn, Tây Tiến đã
để lại dấu ấn riêng độc đáo. Đó là sự phối hợp hài hòa giữa các mặt đối lập trong các hình tượng
thơ. Tây Tiến còn là sự gửi gắm tất cả men say ước nguyện của Quang Dũng vào sự nghiệp cứu
nước. Vì thế, Tây Tiến hấp dẫn người đọc bởi thế giới nghệ thuật của cái đẹp, cái cao cả hào
hùng – sản phẩm của một bút pháp và cảm hứng lãng mạn.

You might also like