You are on page 1of 7

Cảm nhận 14 câu thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” – Quang Dũng:

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây sung ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
BÀI LÀM
Trong bài thơ “Mây khói biên thuỳ”, nhà thơ Vũ Đan Thành từng xúc
động:
“Ai người thắp nén nhang thơm
Vẫn là mẹ, anh chị em với cùng
Những người đồng đội từng chung
Chiến hào khói súng biên cương năm nào.”
Như một nỗi ám ảnh dày xéo, như nỗi đau canh cánh mãi muôn đời, “chiến tranh” chính
là miền kí ức thương đau mà có lẽ thời gian chảy trôi đến mấy cũng không thể xoá nhoà.
Trong “những năm đất nước có chung một tâm hồn, có chung một khuôn mặt ấy”, nhân
dân từ khắp mọi miền đất nước đều đứng lên, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc
mà luôn sẵn lòng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Họ là những người hùng, những
tượng đài luôn sống mãi với thời gian, ghi danh mãi trong những trang sử hào hùng của
dân tộc. Và những tháng ngày ấy sẽ được sống dậy khi ta đọc những trang thơ Quang
Dũng, người nghệ sĩ đa tài, ông đã “hoạ” nên “Tây Tiến” – về những người chiến sĩ hào
hoa, dũng cảm, một lòng chiến đấu hi sinh vì tổ quốc. Đặc biệt trong 14 câu thơ đầu tiên
người đọc sẽ cảm nhận được nỗi nhớ về thiên nhiễn miền Tây và chặng đường hành quân
gian nan vất vả nhưng vô cùng hào hùng hào hoa, kiên trung, dũng cảm của người chiến
sĩ Tây Tiến.
Kì cọ vế ố thời gian, hằn xuyên qua năm tháng bằng những gợi nhắc đẹp
đẽ về kí ức đã qua, người đời luôn nghĩ về Quang Dũng và “Tây Tiến” như một điều trân
quý trong những cuộc chiến tranh đã qua. Nhà thơ xứ Đoài mây trắng ấy mang hồn thơ
tinh tế, khóng khoáng bay bổng mà đầy chất lãng mạn trong những trang thơ của mình.
Chính vì lẽ đó, từng có nhận định cho rằng: “Thơ Quang Dũng nằm giữa biên giới của
thật và mơ, như khói mây mờ mờ ảo ảo, nhứ tiếng vọng từ chân trời nào xa vắng”. Năm
1947, Quang Dũng đảm nhiệm chức đại đội trưởng ở tiểu đoàn 212, Trung đoàn Tây Tiến
– một đơn vị quân đội có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào,
làm tiêu hao lực lượng địch. Cuối năm 1948, sau khi giành thắng lợi, quân đoàn giải thể,
Quang Dũng chuyển công tác sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ khôn nguôi dành cho đồng
đội cũ, chiến trường xưa, tại một buổi chiều tại Phù Lưu Chanh, ông đã viết “ Nhớ Tây
Tiến”, là khúc tráng ca về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Sau này khi in
trong tập “Mây đầu ô” (1986), bài thơ được đổi thành “Tây Tiến”, tuy không còn chữ nhớ
những nỗi niềm nhớ thương vẫn bao trùm xuyên suốt bài thơ. Chính “Tây Tiến” đã đưa
nhà thơ Quang Dũng vào vị trí hàng đầu của các nhà thơ thời kì kháng chiến chống thực
dân Pháp. Và ngay ở khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ được du hành thời gian và không gian
để cảm nhận được thiên nhiên Tây Bắc và những nẻo đường hành quân gian lao.

Chế Lan Viên từng viết: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hoá
tâm hồn”. Có lẽ “khi ta ở”, những cảnh sắc nơi vùng đất đã dần quyện vào lòng ta, dần
hoà chung nhịp điệu của tâm hồn. Thế nên “khi ta đi”, vùng đất ấy không biết tự bao giờ
đã trở thành một mảnh tình không thể phôi phai trong trái tim. Chính vì thế, Quang Dũng
đã mở ra khúc dạo đầu của nỗi nhớ “chơi vơi’ về miền đất và đoàn quân năm nào:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”
Tiếng gọi cất lên trong nhịp thơ 4/3 mang theo niềm bâng khuâng du dương theo tiết điệu
rồi kết thúc nhẹ nhàng bằng dấu chấm cảm gợi lên bao nỗi niềm. Câu thơ có bảy chữ mà
có đến bốn chữ là tên riêng thể hiện rõ nỗi lòng, nỗi nhớ nhung tràn đầy. Câu thơ như
tiếng gọi vang lên như hướng về miền Tây sơn cước – nơi in bóng dòng sông Mã chảy
trôi từ Thượng Lào về đất liền. Hình ảnh con sông Mã hiện lên mở đầu bài thơ, khơi thuỷ
cho nỗi nhớ ví như một chứng nhân lịch sử đã chứng kiến bao thăng trầm, biến chuyển
của cuộc chiến đấu. Người ta thường hay nói Mã Giang đã tạo nên danh thắng Hàm Rồng
không nơi nào có được nhưng kì thực, dòng sông nghĩa tình ấy đã tạo nên những thành trì
của nỗi nhớ, sự thuỷ chung trong thơ ca nhạc hoạ và ấn tượng mãi trong lòng bao bạn đọc
hôm nay. Hai chữ “xa rồi” nghe thật xót xa, nghẹn ngào biết làm sao! “Xa rồi” tức nghĩa
là đã xa, tức nghĩa là đã từng thân quen gần gũi biết bao nhiêu mà nay chỉ còn lại trong
miền kí ức. Nếu tiếng gọi đoàn quân “Tây Tiến ơi!” thiết tha, trìu mến và dạt dào nỗi nhớ
đang cựa quậy thì đến câu thơ tiếp theo nỗi nhớ mới được bung toả mạnh mẽ qua điệp từ
nhớ ở đầu hai vế câu:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Từ cảm thán “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng thơ sâu lắng, bồi hồi.
Ba thanh bằng – ba âm mở “ơi – chơi – vơi” tạo sức ngân vang cho câu thơ và cũng là sự
vang xa, vang vọng vào thời gian lẫn không gian, đọng lại mãi trong kí ức người đọc.
Nhớ “chơi vơi”, nỗi nhớ cũng đong đầy, nhưng lại chẳng rõ hình hài cũng chẳng dễ dàng
định lượng hay gọi thành tên. Nỗi nhớ ấy vừa nhẹ bẫng tựa lông hồng, lại vừa sâu nặng
chiếm trọn tâm khảm, có lẽ người đọc cũng từng bắt gặp trong những vần ca dao:
“Ta về nhớ bạn chơi vơi”
hay trong lời thơ của Xuân Diệu:
“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Là nỗi nhớ vô hình thôi, nhưng lại bao trùm cả không gian lẫn thời gian, song cứ hiện hữu
lơ lủng da diết khôn nguôi trong lòng người đọc. Hai câu thơ đầu mở đầu với chất giọng
tha thiết, tràn đầy tình cảm, đây cũng là nốt nhạc dạo đầu chi phối toàn bộ bài thơ - đó là
nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây
Tiến và những năm tháng quá khứ không thể nào quên.

Vượt qua những vất vả trông gai, say mê trước những cảnh đẹp núi
rừng, người nghệ sĩ tài ba ấy lại viết tiếp nên nỗi nhớ về chặng đường hành quân của
người chiến sĩ Tây tiến qua rừng núi miền Tây bao la, hùng vĩ, về một chặng đường hành
quân tuy khắc nghiệt, thiếu thốn, khó khăn nhưng lại đầy ắp vẻ đẹp lí tưởng cao đẹp của
những chàng trai đất Hà thành mười tám, đôi mươi. Theo dòng chảy của nỗi nhớ, Quang
Dũng đã vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên miền Tây với vẻ đẹp hoang sơ,
dữ dội, hiểm trở lại hũng vĩ, thơ mộng, trữ tình:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Đây là những hình ảnh thơ rất đẹp, rất thơ, nhưng cũng rất thực. Đi qua biết bao nẻo
đường, trải qua biết bao mất mát nơi bom đạn chiến trường nảy lửa để rồi hôm nay chúng
bỗng hoá thành nỗi niềm nhớ nhung gửi gắm vào lời thơ lần lượt được liệt kê: Sài Khao,
Mường Lát, như thể từng lát kí ức, từng nơi mà đoàn quân đi qua đều được nhà thơ ghi
tạc trong lòng, cất giữ nơi tận sâu trái tim. Hình ảnh “sương lấp” với nhịp cắt 4/3 rơi vào
động từ lấp là một sáng tạo của nhà thơ để diễn tả sự khắc nghiệt khó khăn của miền Tây
giá lạnh. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí
hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây
Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. Ta có còn nhớ “kí
ức sương mờ nơi núi rừng Tây Bắc” Bùi Việt Hương đã lặng lẽ viết về sương với bao ân
tình thiết tha: “Với ai đó sương mù vùng cao là một điều mới mẻ là cái phong trắng diệu
kì để tạo dáng cho những bức hình lưu niệm. Với riêng tôi, người đang tựa khung cửa gỗ
nghênh nhìn ra ngoài thì sương là một kí ức không thể xoá nhoà. Tuổii thơ tôi đã đầy ắp
sương mù nhưng đó không phải là thứ hai lạnh lẽo vô hồn. Sương ấy là thứ mồ hôi bốc
khói phả ra từ hơi thở của người lao động trên doẻ cao, là thứ khói thuốc thơm đầy mê
hoặc và trải nghiệm trong câu chuyện của người già. Sương” Sương. Sương đã lấp đi hào
khí sức trẻ, đưa người lính Tây Tiến vào cõi trời thử thách khắc nghiệt hay sương đã lấp
đi tầm nhìn phía trước, để mỗi người chiến sĩ ấy đã phải vượt qua màn sương dày đặc
lạnh buốt bằng sự ấm nóng trong trái tim chứa đầy lí tưởng kiên trung? “Sương lấp” trong
thơ Quang Dũng cũng vì thế mà trở nên ấn tượng, đẹp đẽ xiết bao! Bụi đường tăm tối,
những mỏi mệt bủa vây chẳng thể nào cản hương của những loài hoa rừng: “Mường Lát
hoa về trong đêm hơi”. Hình ảnh “hoa về” có thể hiểu theo nhiều nét nghĩa, đó có thể là
những “hoa đuốc” lung lunh, đỏ rực sóng soi con đường cho đoàn quân trong những đêm
hơi lạnh lẽo tối tăm, còn có thể hiểu hoa về trong đêm hơi là hương hoa rừng lan tỏa,
phảng phất theo bước chân người lính Tây Tiến. Nhà thơ xứ Đoài mây trắng đã thi vị hoá
cái hiện thực khắc nghiệt bởi cảm hứng lãng mạn, câu thơ nhẹ nhàng lâng lâng, chơi vơi
như sương, như hương, như hoa. Bút pháp hiện thực và lãng mạn hoà quyện đã giúp nhà
thơ diễn tả được linh hồn của thiên nhiên Tây Bắc.
Những dòng thơ tiếp theo, là những dòng thơ giàu chất nhạc chất hoạ,
Quang Dũng đã diễn tả rất rõ cảnh núi rừng Tây Bắc hiểm trở và heo hút:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ thứ nhất sử dụng 5/7 thanh trắc gợi sự ghồ ghề kết hợp với những từ láy “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm” có tác dụng gợi tả cái hiểm trở dữ dội của cảnh vật, gợi cho người
đọc liên tưởng đến câu thơ trong “Truyện Kiều:
“Đoạn trường thay lúc phân kì
Có câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh”
(Nguyễn Du)
Dường như câu thơ còn gợi tả cái hơi thở nhọc nhằn của người lính, điệp từ “dốc” và
“ngàn thước” được điệp lại ở đầu hai vế câu thơ, sự phối hợp năm thanh trắc “dốc”,
“khúc”, “khuỷu”, “dốc” và “thẳm” càng tô đậm sự khắc nghiệt hiểm nguy, dốc nối dốc cứ
thể lên tận những cồn mây cao vút: “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ “heo hút” được
đảo lên ở đầu câu thơ, cùng với hình ảnh “cồn mây” gợi ra độ cao mênh mang của đất trời
Tây Bắc. Có lẽ Quang Dũng đã nhờ “mây” gửi nhớ đến những người bạn chiến đấu của
mình qua hình ảnh “súng ngửi trời” vừa lãng mạn vừa tinh nghịch hào hoa. Phép nhân
hoá “súng ngửi trời” là một thành công đặc biệt trong ngòi bút của người nghệ sĩ “Mây
đầu ô” ấy, hình ảnh này cũng là biểu trưng cho tinh thần lạc quan, yêu đời có phần tinh
nghịch của những người lính Việt Nam. Khó khăn lại nối tiếp những khó khăn, điệp từ
“ngàn thước” cùng với động từ “lên” – “ xuống” mang tính chất tương phản, tạo nên một
nét gập dứt khoát, đột ngột cho câu thơ hiện ra trước mắt người đọc là con đường hành
quân trùng trùng điệp điệp đầy hiểm trở. Cũng từ đó tác giả đã tôn vinh lòng can đảm của
tuổi trẻ, ý chí quyết tâm của những người linh Tây Tiến. Có lúc trên con đường hành quân
giữa trập trùng núi non, những người lính phóng tầm mắt ra xa và thấy “Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi”. Câu thơ hiện ra thật bất ngờ và đặc biệt với bảy thanh bằng và hình
ảnh ẩn dụ “nhà ai” gợi lên cả giác thật ấm áp, lưu luyến chờ đợi sau ngày tháng dài xa quê
hương. Người lính sau một chặng đường hành quân vất vả, qua bao núi cao vực sâu hiểm
trở heo hút bỗng thấy xa xa những ngôi nhà Pha Luông thấp thoáng trong mưa. Cảnh rất
thực nhưng cũng rất lãng mạn, mưa giăng đầy khiến cho những ngôi nhà bồng bềnh như
trôi giữa biển khơi.
Tây Bắc – không chỉ là nơi rừng thiêng nước độc, Lam sơn chướng khí, đây
còn là nơi ngự trị của những thú dữ hoang dã:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Những trạng ngữ chỉ thời gian “chiều chiều” “đêm đêm” không chỉ gợi lên không gain
triền miền không dứt mà còn gợi mở ra thời gian đầy bí ẩn bầy bất trắc đe doạ con người.
Từ “oai linh” được đảo lên gợi cho người đọc ấn tượng thật đặc biệt về những dòng thác
dữ, núi rừng Tây Bắc như rung chuyển trong tiếng “thác gầm thét”. Hai chữ Mường Hịch
gợi lên địa danh xa xôi, núi rừng sâu thẳm. Ở đây một lần nữa người đọc lại thấy được tài
phối âm của Quang Dũng, nhà thơ Trần Lê Văn từng viết: “Hai chữ “Hịch cọp” có dấu
nặng đi với nhau nghe nặng như tiếng chân cọp, trước đó lại kết hợp với cả hai thanh
bằng đã tạo lên một quá trình rình mồi rồi bất ngờ vồ mồi của loài cọp dữ dội, quyết liệt
trên trang giấy”. Đọc đoạn thơ ta thấy thiên nhiên Tây Bắc hiện lên rõ nét qua nỗi nhớ của
một nghệ sĩ đa tài bằng hình ảnh âm thanh nhạc điệu. Quang Dũng đã dựng lên trước mắt
người đọc một bức tranh thật ấn tượng về thiên nhiên Tây Bắc – đó là miền rừng núi rộng
lớn vừa dữ dội hiểm trở hoang sơ, nơi ấy có sương mù dày đặc, có núi cao vực sâu, có
con đường gập ghềnh khúc khuỷu, thú dữ rình rập.

Vượt qua vô vàn những gian nan thử thách, trong tâm tưởng nhà thơ
còn nhớ về người lính, những người đồng chí cùng “vào sinh ra tử” với ý chí kiên cường
gan thép, lại rất đỗi hào hoa lãng mạn:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Cách gọi “anh bạn” thân gần, đầy nghĩa tình và sự trân trọng từ chiến sĩ – nhà thơ Quang Dũng
dành cho những người đồng đội của mình. Chỉ với một từ “dãi dầu” dường như đã ôm trọn nỗi
nhọc nhằn, gian khổ mà người lính đã trải qua. Câu thơ viết về một hiện thực khốc liệt ấy thế
mà lại được nói bằng giọng nhẹ nhàng, thấm thía “không bước nữa” và “gục lên súng mũ”
gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Đọc lên ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện
rõ tinh thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa
lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh
chiến kỉ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về). Họ chủ động chấp nhận cái chết,
coi đó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. Hai câu thơ của Quang Dũng dẫu có buồn
vì nói đến mất mát, hi sinh nhưng vẫn không bi lụy về thái độ của người hi sinh. Người
chiến sĩ ở đây dẫu không áp đảo được khó khăn nhưng họ không chịu khuất phục. Họ
đứng trên cái chết, coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng” và sẵn sàng đón nhận nó vì Tổ quốc
thân yêu, bởi trong trong trái tim họ hiểu rằng:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta sẽ chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông.”
(Sao chiến thắng – Chế Lan Viên)
Đoạn thơ khép lại bằng một nốt nhạc vui, bằng cảnh sinh hoạt đầm ấm
tại một bản làng có khói bếp thắp lên tình quân dân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Những hiểm nguy vẫn luôn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây
Tiến đã một thời vượt qua. Trên đường hành quân cheo leo đầy trắc trở đoàn quân dừng
lại nghỉ chân nơi những bản làng. Một bữa cơm nóng bốc khói. Hương vị ngọt ngon của
những nắm xôi nếp thơm do những bông hoa của núi rừng Tây Bắc đem tới đã khiến cho
các chàng trai hào hoa, phong nhã như quên đi tất cả nỗi vất vả về thể xác suốt dọc đường
để đón nhận tình quân – dân thắm thiết. Nỗi nhớ từ chạm mặt với thinh không, nay đã
thốt lên thành lời đầy tràn trong từ ý thơ qua cụm từ cảm thán “nhớ ôi”, da diết và khắc
khoải. Hai chữ “mùa em” đã khiến bài thơ chưa bao giờ bị bào mòn, phủ bụi giữa dòng
chyar vô hình của thời gian. Câu thơ hiện lên gợi ra với nhiều cách hiểu, có thể “mùa em”
đó là mùa màng mà em chịu thương chịu khó chăm từng bông lúa trĩu cành, cũng có thể
là “mùa” mà em đương độ đôi mươi xinh đẹp trong ngần. Nhưng dù hiểu theo cách nào, ý
thơ và cảm xúc thơ của Quang Dũng vẫn luôn làm ta bất ngờ và đầy ấn tượng. Những
hình ảnh thơ hiện lên vừa nồng ấm hương vị quê hương đất nước, vừa nồng ấm tình quân
dân ấm áp thật khó lòng nào có thể quên! Có thể nói, đoạn thơ mở đầu đã kết tinh nét đặc
sắc của toàn bộ bài thơ, chỉ với 14 câu thơ Quang Dũng đã vẽ nên 1 bức tranh thiên nhiên
hùng vĩ dữ dội song cũng rất đỗi nên thơ của núi rừng Tây Bắc. Bước đầu khắc hoạ được
hình tượng người lính trên những chặng đường hành quân gian khổ - những người lính
Tây Tiến hồn nhiên tươi trẻ nhưng rất dũng cảm, can trường.

Bàn về sức hút của thơ, Lê Đạt từng nhận định: “Đọc một câu thơ hay,
ta thường có cảm giác đứng trước một bến đò gió nổi một khao khát sang sông, một thức
đẩy lên đường hướng đến những vùng trời đẹp hơn, nhân tình hơn. Thật vậy, tiếng thơ
của Quang Dũng vang lên tựa như làn gió nhẹ đưa ta du miên về miền Việt Tây xa xôi –
nơi chất chứa những vùng trời đẹp đẽ một thời của người lính, nơi thấm đượm ân tình
thuỷ chung giữa quân dân và đồng đội. Trong dòng chảy lãng mạn len lỏi vào tứ thơ kết
hợp với tổ chức ngôn ngữ độc đáo, những địa danh lần lượt được tái hiện như những
thước phim chân thực, sống động dưới “lớp tráng men thơ mộng” về không gian núi rừng
bạt ngàn, hiểm trở và cung đường hành quân gian truân, vất vả. Bút pháp ẩn dụ, tương
phản, nhân hoá được vận dụng một cách tinh tế, khéo léo dưới đôi bàn tay điêu luyện của
nhà thơ đã biến những tiết điệu đơn lẻ của từ ngữ liên thanh thành bàn chân người lính in
dấu nơi viễn xứ với đủ cung bậc thăng giáng, trầm bổng. Bằng tài thẩm âm độc đáo,
Quang Dũng đã linh hoạt phối âm thanh trắc – thanh bằng thật nhịp nhàng trong những
dòng thơ đang luận bàn, để từ xúc cảm nhớ thương mãnh liệt và giọng điệu nhẹ nhàng,
bay bổng gợi nên một vùng trời đầy kỉ niệm.

Theo quan điểm của Chế Lan Vien, nghề làm thơ tựa nghề dệt thảm.
Nếu người thợ dệt thảm bằng tất cả sự tỉ mỉ, chân thành và niềm đam mê để nở rộ những
đoá hoa rạng rỡ, đầy màu sắc trên nền vải thì người thi sĩ dệt thơ bằng tình yêu, cảm xúc
và tài năng nghệ thuật bậc thầy để gợi về một thời quá vãng, tái hiện lại cuộc đời trên
trang giấy. Người thợ dệt thơ Quang Dũng đã đan lên tấm thảm đầy ắp những kỉ niệm, nỗi
nhớ thương thiên nhiên hoang xơ hùng vĩ và hình ảnh người lính can trường, hiên ngang
“vạn dặm trường chinh” trong mười bốn dòng thơ. Có lẽ, ta chỉ thấy một lát cắt của cuộc
đời thi sĩ trong những tháng ngày ấy nhưng ta đã thấy được những mùa hoa mãi mãi
không tàn phai – những mùa hoa mang tên người lính Tây Tiến kiêu hùng, bất khuất giữa
đại ngàn Tây Bắc. Hương hoa ấy mãi vấn vương theo thời gian, quyện đắm vào hồn
người một ấn tượng mạnh mẽ, một dư âm không dứt của đời chiến binh. Để rồi, theo năm
tháng, những đoá hoa trong bom lửa mãi là hình ảnh tiêu biểu cho trang sử hào hùng của
đoàn quân Tây Tiến nói riêng, của anh Vệ quốc quân nói chung và cả dân tộc kiên cường
đồng lòng chiến đấu.

You might also like