You are on page 1of 5

“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”


Thi sĩ Tản Đà đã không ngần ngại ngân lên những câu thơ đầy sự ngợi ca, thán
phục trước vẻ đẹp tình tứ của dòng sông bắt nước cho truyền thuyết dân gian “Sơn
Tinh, Thủy Tinh” ấy. Và có lẽ, thật đặc biệt hơn khi ở điểm giao thoa giữa khúc
thượng lưu và hạ lưu sông Đà, ta lại cùng Nguyễn Tuân gặp gỡ người bạn tri âm tri
kỷ của mình - Tản Đà để cùng hòa mình vào cảnh đẹp của một “bờ tiền sử”. Cái
dáng vẻ thướt tha, trữ tình, thơ mộng của dòng sông ấy một lần nữa được bút lực
của Nguyễn Tuân ngợi ca trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”.

Nhà văn Pautopxki từng quan niệm: “Niềm vui của nhà văn chân chính
là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Và Nguyễn Tuân chính là
một nhà văn như thế! Ông là nhà văn suốt đời mộng mị trong giấc mơ của vẻ đẹp
trần gian, một nhà văn nói như Thạch Lam “suốt đời đi tìm cái đẹp”, và cũng chính
ông đã “coi cái đẹp như tôn giáo của mình” (Trần Đình Sử). Hầu hết các sáng tác
của Nguyễn Tuân trước Cách mạng đều là thế giới nhân vật của người nghệ sĩ; của
những con người thuộc về “vang bóng một thời”, hoặc sống trong hiện tại nhưng
cũng bơ vơ, lạc lõng như những kẻ “sinh nhầm thế kỉ”. Với ông đó mới là những
con người xứng đáng để hạ bút, tô vẽ và tái sinh trên trang giấy. Thế nhưng, sau
Cách mạng ngòi bút của Nguyễn Tuân lại tập trung tiếp cận thế giới trên phương
diện văn hóa nghệ thuật, tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Nhân
vật chính của những trang viết này là tập thể đại chúng, nhân dân, chị dân quân,
anh bộ đội. Ông tìm về cái đẹp ở những người phi thường với những công việc
bình thường như hình ảnh ông lái đò trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”.

Với tùy bút “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân lại say mê vẻ đẹp độc
đáo của con người và cuộc sống Tây Bắc. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây
Bắc xa xôi năm 1958 được in trong tập “Sông Đà”(1960). Ham thích xê dịch, luôn
tìm kiếm khám phá những vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên và cuộc sống, Nguyễn
Tuân đã bắt gặp sông Đà như một bạn “tình khơi chữ nảy bút”. Tất cả những vẻ
đẹp độc đáo, cuốn hút của sông Đà được Nguyễn Tuân phơi bày, phóng bút kì công
và tỉ mỉ. Nguyễn Tuân đã dày công “tỉ mẩn” tô dậm sông Đà với vẻ đẹp trữ tình và
thơ mộng của nó. Mỗi lần đến với dòng sông này bước chân Nguyễn Tuân như bị
níu giữ bởi cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, con sông Tây Bắc duyên dáng mà tình tứ
quá!

Dòng Đà giang cứ ngỡ như đã hút trọn mắt người đọc bằng dáng vẻ
hũng vĩ, dữ dội, hiểm ác từ những dòng văn đầu tiên. Song có lẽ ta càng say mê
hơn vẻ đẹp trữ tình của nó khi Nguyễn Tuân dùng những hình ảnh dịu dàng, trong
sáng nhất để miêu tả về cảnh đẹp đôi bờ sông Đà. Đó là thời điểm cho câu chữ
Nguyễn Tuân “lai láng chất thơ” chắp cánh cho vẻ đẹp của dòng sông bay lên từng
câu chữ, bằng cái nhìn và tình cảm của một con người coi sông Đà như một “cố
nhân”.

Vẻ đẹp của dòng sông Đà được toát lên từ không gian tĩnh lặng. Với bàn
tay tài hoa của bậc thầy ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã miêu tả cảnh đôi bờ sông thật
ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của một “bờ tiền sử”.
Câu văn “thuyền trôi trên sông Đà” được gieo lên bởi toàn thanh bằng, kết tạo nên
không gian như trải dài tới vô tận. Dòng sông Đà tạo cho ta cảm giác yên ả, thanh
bình và tĩnh lặng, dường như nó đã đụng đến vùng cảm xúc sâu kín nhất của tâm
hồn con người. Khẽ lay tâm hồn theo dòng sông, “người thợ hoàn kim của câu
chữ” đã dẫn dắt chúng ta đi sâu vào “lớp trầm tích” được phủ kín bởi vẻ đẹp nhẹ
nhàng ấy - vẻ đẹp của lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như
từ đời Trần, đời Lý, đời Lê quãng sông này cũng lặng lẽ như tờ đến thế mà thôi”.
Cái tĩnh lặng vốn có của dòng sông này đã khơi dậy ta trở về với quá khứ, nơi hội
tụ kết tinh vẻ đẹp của lịch sử ngàn đời. Không liên tưởng bằng cảm xúc dồi dào,
nhưng Nguyễn Tuân lại gợi cho chúng ta một thứ cảm xúc thật khác lạ đến từ vẻ
đẹp mộng mơ, huyền ảo, hồn nhiên, hoang dã của sông Đà: “Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nguyễn
Tuân là nhà văn của “cái dữ dội”, của cái phi thường, thế nhưng đến với cảnh thơ
mộng hãy tình tứ cũng khó là “thách thức” với ông. Nguyễn Tuân đã có một cách
nói thật độc đáo khi so sánh sự yên tĩnh của bờ bãi sông Đà. Một cách viết rất riêng
của Nguyễn Tuân. Bởi Nguyễn Tuân chưa bao giờ, và ít khi “cụ thể hóa” một hình
ảnh liên tưởng nào trong văn của mình. Tất cả những hình ảnh Nguyễn Tuân đưa ra
đều là những hình ảnh mang tính “trừu tượng hóa” và buộc người đọc phải tưởng
tượng và vận động theo ngòi bút của ông. Vậy nên, Nguyễn Tuân đã không ngần
ngại khi nhân hóa dòng sông Đà như một sinh thể sống động, đầy man dại và
phóng khoáng, so sánh dòng sông ấy như một điều thiêng liêng và kì bí.

Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là tìm đến sự tìm tòi,
sáng tạo. Bởi vì, “nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Đi tìm “thứ vàng mười”
của màu sắc sông núi, bờ sông Đà được nguyễn Tuân khai phá nổi bật lên vẻ đẹp
của những thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên,
trong cảnh sương đêm chưa tan hết, người nghệ sĩ ấy đã phát hiện và vẽ nên một vẻ
đẹp đầy sức sống: “Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tinh không
một bóng người, cả gianh đồi núi đang ra những nón búp”. Cảnh tượng đó còn đẫm
sương đêm, một vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất họa. Thiên nhiên giống như một
bức tranh thủy mạc lộng lẫy; thiên nhiên như một bức tranh của một danh họa thời
cổ, nhưng là cổ của một miền “cổ tích”. Cảnh sắc như nâng tâm hồn con người lạc
vào chốn tiên du. Nguyễn Tuân đã thi triển triệt để các giác quan để tạo nên một
khối quan sát tinh tường, lý thú cuốn hút bất cứ ai khi đọc những câu văn viết về
cảnh đẹp bờ bãi sông Đà. Chất thơ trong văn Nguyễn Tuân, có lẽ cũng toát lên từ
điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc -
nơi khơi nguồn cho tình yêu đất nước.

Trong cái đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Tuân đã mài
giũa cho câu văn mình một cá tính đặc biệt, giàu nhạc tính và trở trên gợi cảm hơn
bao giờ hết. Dòng Đà giang trở thành một linh hồn riêng, chất chứa những trầm tích
về văn hóa, là sự hòa quyện giữa niên đại thời gian, dòng chảy lịch sử cùng với nét
đẹp kì bí của nó. Chỉ với một câu văn, Nguyễn Tuân đã đủ sức dệt nên một bức
tranh thủy mặc, ống kính của nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của
dòng sông Đà với cảnh sắc ven sông đẹp như trong huyền thoại, cổ tích. Để rồi,
thèm giật mình khỏi đi lạc vào miền cổ tích ấy: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình
vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên
Bái - Lai Châu”.

Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm
chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hưu vểnh tai, nhìn tôi
không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông
khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. “Tiếng còi
sương” xuất hiện ở đây vụt lên ngân vang như một khát vọng, khát vọng đánh thức
mình ra khỏi miền cổ tích đấy để cho mình biết đang tồn tại ở cõi thực chứ không
phải là một giấc chiêm bao,... Những câu văn vừa cổ kính, vừa hiện đại nó chất
chứa những hơi thở của cuộc đời, của con người phả vào nhịp đập của cuộc sống.

Bức tranh sông Đà ở quãng trung lưu đẹp đẽ, dịu dàng và thơ
mộng khiến bất ai cũng phải ngắm nhìn và thảng thốt trước vẻ đẹp mê say, nồng
nàn, ý vị của nó. Nguyễn Tuân đã đưa ta chạm đến gianh giới giữa thực và mơ, mơ
và thực. Nhà văn đã khéo léo tạc được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau
đó như sực tỉnh với tiếng của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng
như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực
tỉnh cũng là giây phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kì sống động. Bút
pháp lấy động tả tĩnh đã được vận dụng hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức
chỉ tiếng cá quẫy cũng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng điều đặc biệt là dưới ngòi
bút của Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đi cùng với sự phẳng lặng, đơn điệu mà luôn
hàm chức sự bất ngờ, không ngừng biến hóa.
Giữa lúc đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên, Nguyễn Tuân lại
cất thơ Tản Đà – người bạn tâm giao, tri âm, tri kỷ của ông. Có lẽ, chất “Nho giáo”
trong Nguyễn Tuân dù có thay đổi trong đối tượng hay nhân vật của mình thì “sự
đổ bóng” ấy vẫn luôn rõ nét như vậy. Với những người tri âm, họ luôn biêt cách
nhớ về nhau và vịnh thơ theo một cách riêng. Cho nên, vào giây phút “có cảnh, có
tình” thì không thể nào thiếu “bạn hiền” nên Nguyễn Tuân đã nhớ đến “bạn hiền”
của mình bằng hai câu thơ: “Dải Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy
nhiêu tình” trong “Thơ trách người tình nhân chưa quen biết” của thi sĩ Tản Đà. Và
có lẽ, chính nguồn cảm xúc nhớ thương ấy, đã in vào cảm xúc của dòng sông quãng
này, khi nó lững lờ nhớ thương “những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn
Tây Bắc”. Và con sông như đang “lắng nghe những giọng nói êm êm của người
xuôi, và trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi
én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Dường như cảnh nào vật nào được “ngòi
bút như thần viết” của Nguyễn Tuân gõ đến cũng đều cựa quậy không ngừng,
không chịu ép mình xuống trang giấy mà sống động trên từng câu chữ. Bởi chúng
tài tình quá!

Với tài nghệ của “bậc thầy ngôn ngữ” Nguyễn Tuân đã bày ra
trước mắt chúng ta một bữa tiệc ngôn từ thịnh soạn, sự giàu có về ngôn ngữ đã lấp
đầy cả những vực sâu hun hút, đưa sông Đà lên trên vẻ đẹp kì vĩ. Đọc “Người lái
đò sông Đà” ta cảm nhận được hơi thở phập phồng của Nguyễn Tuân để rồi thấy
thứ ngôn ngữ “nóng nẫy sự sống”. Sức nóng ấy tỏa ra xung quanh, nung đốt và tỏa
sáng lên vẻ đẹp của con người trong hành trình vượt thác. Để rồi hôm nay người
đọc chúng ta có một sông Đà để thương để nhớ, để yêu, để chiêm nghiệm và say
đắm. Dòng sông in dấu đậm nét cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Lê Đạt từng
khẳng định “Mỗi người có một loại vân tay mỗi nghệ sĩ chân chính đều có một thứ
vân chữ không trộn lẫn”. Thứ vân chữ mà Nguyễn Tuân xây dựng nên “giàu có và
đặc sắc về giá trị tạo hình”. Trước hết, nó biểu hiện một cảm quan thẩm mĩ độc đáo
trong cách nhìn và quan sát sự vật, sự tỉ mỉ và chi tiết làm cho người ta có cảnh
giác sự vật đang sống dậy từ những trang văn bước ra cuộc đời. Độc đáo thôi chưa
đủ, vốn hiểu biết sâu rộng mới là chìa khóa để Nguyễn Tuân khai thác chất xám
trong bộ não của chính mình. Nguyễn Tuân đã mở ra hàng loạt các tri thức các
ngành từ quân sự, âm nhạc đến thể thao, hội họa tạo nên một môn nghệ thuật thứ
bảy lung linh dưới ánh hào quang chiếu sáng chói lọi. Nguyễn Tuân xứng đáng là
“Người thầy kim hoàn của chữ” hay chính là “ca sĩ của vẻ đẹp tinh khôi tuyệt đỉnh
của tạo hóa”.

Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ mềm mại,
du dương như nét vẽ thanh nhẹ với những biến ảo không ngừng. Nguyễn Tuân đã
dựng lên cả “Một thế giới sống, một thế giới biết nói”. Và có lẽ, chính từ những
dòng văn ấy phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân đã được khắc tạc rõ ràng
trong những câu văn đầy tinh tế. Dưới ngòi bút dạt dào chất thơ, chất họa vẻ đẹp
của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh kì thú như những thước phim
huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào trong thế giới của thần tiên, cổ
tích, thơ mộng cảnh vừa hoang sơ, cổ kính vừa thơ mộng trữ tình, tĩnh lặng và yên
ả nhưng ẩn chứa sức sống tươi non, một mạch chảy mãnh liệt không bao giờ vơi
cạn. Nguyễn Tuân đã làm ta say trong thế giới ngôn từ đầy sắc màu rực rỡ của câu
chữ sống động, vẻ đẹp của con người được.

Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân đã trở nên gắn bó, quyện hòa với dáng hình đất nước. Dòng sông ấy là dòng
sông giữa đời, giữa thiên nhiên bao la rộng lớn, được xây dựng, vun đắp nên từ một
tấm lòng trần gian. “Người lái đò sông Đà” chính là một giai phẩm đặc sắc bậc nhất
mà Nguyễn Tuân đã tô điểm cho văn học Việt Nam - một nét vẻ độc đáo, mới lạ
nhưng cũng không kém sự hấp dẫn và lưu luyến!

You might also like