Professional Documents
Culture Documents
Người Lái Đò
Người Lái Đò
Cách mạng tháng 8 tới mang theo làn gió mới cho nền văn học Việt Nam, cùng với đó là sự chuyển
biến về tư tưởng, nhận thức của những văn nghệ sĩ. Và Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài ảnh
hưởng ấy, khi thái độ khinh bạc, bi quan với hiện tại, tương lai và lẩn tránh về quá khứ đã bị thế chỗ
bằng sự phát huy cao độ tinh thần dân tộc và lòng yêu nước. Cái đẹp tài hoa giờ đây cũng được ông
tìm thấy ngay trong nhân dân, trong đời sống thường nhật, trên mọi lĩnh vực. Và "Người lái đò sông
Đà" là một minh chứng tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Tuân thời kì này.
Nhắc tới Nguyễn Tuân là ta nhắc đến một văn nhân tài hoa, uyên bác. Đó đồng thời cũng là biểu
hiện cao độ của chữ "ngông" trong phong cách của ông, thể hiện qua cách nhà văn biến mỗi trang
văn thành một "tờ hoa", mỗi sự vật, sự việc đều soi dưới góc độ thẩm mỹ: "Con sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình". Thiên nhiên hoang sơ giờ đây đã biến thành một tuyệt tác nghệ
thuật của tạo hóa, vừa kì vĩ vừa nên thơ, vừa quyến rũ lại rất đỗi mơ mộng. Sông Đà trong câu
chuyện của ông như người cố nhân lâu rồi ko gặp: nào là nắng tháng ba Đường thi; rồi "trông con
sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng"; lúc ngồi trên
thuyền thì sông "như một tình nhân chưa quen biết”. Rồi nhà văn còn tìm thấy sự đồng cảm với cái
“ngông” của thiên nhiên khi miêu tả nét riêng của Sông Đà: thế chảy độc đáo, nghịch ngược, không
giống ai… . Con sông ấy ko chỉ thơ mộng mà còn những phút giây trở nên hung bạo, mang một vẻ
đẹp dữ dội, hùng vĩ: Khúc thượng nguồn lắm thác, nhiều ghềnh, độ dốc lớn, nước chảy xiết; rồi còn
âm thanh "Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào
cũng đòi nợ xuýt"... Tả sông mà người ta tưởng như Nguyễn Tuân đang tả người, và cũng chính nhờ
sông kia mà nhà văn bộc lộ được ra con mắt thẩm mỹ độc đáo, sâu sắc của mình.
Để tăng thêm sức đọng cho cái tài hoa ấy, Nguyễn Tuân đã vận vào con sông tất cả vốn kiến thức
uyên bác của mình, nào là sự hiểu thấu đến tường tận đường đi, nước bước của những khúc thượng
nguồn, vách đá, hút nước, thạch trận… rồi đến cả ko gian chung quanh với màu nắng, tiếng còi
sương, bờ sông hoang dại… như một nhà địa lý thực thụ. Ko chỉ tiếp cận thiên nhiên, mà ngay cả với
con người, đặc biệt là con người lao động, Nguyễn Tuân cũng quyết đi tìm, khám phá đầy trân trọng
chất “vàng mười” trong tâm hồn họ. Mà cụ thể ở đây, chính là người lái đò - người anh hùng, nghệ sĩ
như trong những thiên sử thi thời trước. Ko chỉ có tài, nắm bắt được từng hành vi của thần sông, thần
đá với quy luật phục kích nơi ải nước hiểm trở, mà còn tỏ ra đầy dung cảm, oai nghiêm trong trận đối
địch với lũ thạch trận. Lực lượng của chúng thì hùng hậu, đông đảo, dữ dằn với những đá hậu, đá
tướng, đá tiền vệ; còn ông thân cô thế cô nhưng cũng chằng nhún nhường, hết khiêu khích lại như
một đại tướng lão luyện, dày dặn kinh nghiệm trận mạc mà tiến vào trận địa, lần lượt vượt qua từng
trùng vây. Còn Nguyễn Tuân như một người thư ký tường thuật một cách trung thành trận chiến đó.
Ông vận dụng hết thảy vốn kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực: võ thuật, thể thao, quân sự… cùng
trí tưởng tượng phong phú để biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca về người nghệ sĩ anh
hùng.
Nguyễn Tuân vốn chẳng ưa những gì bằng phẳng, nhợt nhạt mà luôn có cảm hứng mạnh mẽ với
những thứ lạ thường dữ dội, mãnh liệt. Phải chăng chính vì lẽ đó mà trong thiên tùy bút, những gì
Nguyễn miêu tả đều mạnh mẽ, ác liệt, tác động mạnh tới mọi giác quan? Nào là "mùa xuân dòng
xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước
Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về." Hay âm thanh sống động của dòng thác: Ban đầu cất lên tiếng
như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh
được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh
điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng…”... Quả thực, đó là kết tinh sau những quan niệm mà ông từng đề ra cho mình: "đi để
thay đổi thực đơn cho giác quan".
Nguyễn Tuân - người lái đò trên dòng sông chữ nghĩa. Người nghệ sĩ ấy lượn trên những con
sóng cổ, tự nhuốm vào thuyền mình cái đậm đà của hương vị cổ điển với những chữ Hán Việt đắc
địa: lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích, thơ ngộ… Những con sóng chữ thì cứ biến chuyển, co duỗi
nhịp nhàng mang cái nhạc điệu trầm bổng đưa ta về cái yên ả của dòng hạ lưu: "Dòng Sông quãng
này lững lờ như thương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con
sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi…". Song hành với nhịp văn là hình
ảnh: những mường tượng về "đá bờ sông dựng thành vách" cao hun hút, những "chẹt lòng sông Đà
như một cái yết hầu" dữ dằn, ghê gớm… chỉ bằng ngôn từ mà ta cảm giác như được tận mắt chứng
kiến, tất cả đều nhờ tài năng của ông đò Nguyễn Tuân…
Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã
đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê
hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ
sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi
thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên
dòng trên”.
Nếu ví người lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân
vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ,
với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con
thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng
phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai
con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu
dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sáng.
Các nhà văn khác thường so sánh cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở
nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sáng của ông: “ Bờ sông hoang dại như
một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu
hình “ bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cố tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ
sông” gợi đến bao cái vô hình “ bờ tiền sử”, “ nổi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng,
xa xăm. Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc. Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn
trên khui tả sông Đà “ loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi
thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ
của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi
thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức
hướng về truyền thống khi nói cái “ lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng
lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại. Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ
sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “ them được giật mình vì tiếng còn xe lửa” thì tương lai đã náo nức
reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến thế giới khác một cách uyển
chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm về thơ của ông “ từ
một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra
được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy? Ngoài ra, ông còn đem vật
thể so sáng với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa hay như “ Dòng
sông quãng này lững lờ như nhớ thương…Con sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập
thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng dầy chất thơ. Mơ mộng thay khi nối tiếp
những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật chất,
thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang “ nhớ
thương”, đang “ lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc
sống?.
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn “
Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng
“ tôi trôi” và điệp âm “ t” gợi hình ảnh con thuyền nổi nênh trên mặt sông. Những thanh ngang nằm
giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà
như không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “ thuyền tôi trôi” ấy
cứ như một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ
hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc. “ Thuyền tôi trôi qua một nương ngô..”, “ thuyền tôi trôi trên
dải sông Đà…” tưởng như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh
bằng nhẹ bỗng như thế. Hồn người như tan ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng
sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy dài theo những câu văn dài. Có phải
câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con sông? Câu “ Bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như
khép lại nén lại cảm xúc đang dân trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu
nhiều thanh bằng nữa như “ chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng
xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “ chăm chăm”, “ lừ lừ”
chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “ lững lờ”,
xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu
nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ trở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “ lá ngô non
đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh.
Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa
xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “ cỏ gianh đẫm sương đêm”, “ áng cỏ sương” và cả “
tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống. Những câu
văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “
Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có t” thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi,
mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “ đẫm sương” ấy là một nét vẽ,
tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả,
như nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân
ngây ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc
“ nhú”, “ mấy”, “ lá”, có một cái gì mềm mại trong “ đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe
“ ngọn cỏ”, “ sóng cỏ” nhưng “ búp cỏ”, “ áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ. Nếu thi hào dân tộc
Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên nhiên đối với con
người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng
cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn - bài thơ của Nguyễn Tuân.
Bài thơ cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh
lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “ Tiếng cá đập nước sông đuồi mất đàn hươu
vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm
thanh nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng
đập nước của cá? Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn
Tuân, mọi vật đều trở nê hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ một cái diện mênh mang một điệp
khúc xanh của ngô non, áng có, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển
đã đuộc vận dụng, khám phá mọi vẻ thơ ngây của cuộc sống.
Trong không gian u huyền ấy bỗng tác giả “ thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào
hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu., câu văn như một tiếng reo náo
nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc ( 1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời
những vần thơ đẹp.
Yêu biết mấy những dòng song bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của
nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xa lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta them mái ngói đỏ trăm ga.
( Tiếng hát con tàu).
Nhưng “ them giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được
nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “ thương mình xót
xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú Xương khi “ vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta
lại nâng niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông
Đà của Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới. Trước Cách mạng, ông đã từng “
xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc,
ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình. Thưởng ngoạn nhưng
không quên vì người, vì cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “ hợp lưu” với lòng người đọc
dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng
còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “ Ngói mới” của Xuân Diệu… đã góp thành
sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm vào cảnh
vật, và con hươn thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong
tâm tưởng.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “ Dải sông Đà bọt nước lên đênh.
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê
hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của
Nguyễn Tuân đã “ đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có
hồi, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi
thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất
chứa cảm xúc “ nhớ thương”, “ lắng nghe những giọng nói êm êm”.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có
một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp
lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn
Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.
Dàn bài
2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà
* Vẻ hung bạo, dữ dằn :
- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.
- Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm…
- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.
- Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau
- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều
phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.
* Vẻ trữ tình, thơ mộng :
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm
kiều.
- Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những
sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp
riêng.
- “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen
của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
- Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp
hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích vừa trù phú, tràn
trề nhựa sống;...
Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước.
Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả
sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng sông Đà là phông
nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
3. Hình tượng người lái đò
- Là người tinh thạo trong nghề nghiệp
+ Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của thần sông
thần đá”.
+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò
thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
- Là người trí dũng tuyệt vời :Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”,
vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy
hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chỉ
huy dày dạn kinh nghiệm:
+ Ở trùng vây thứ nhất : thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm
sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng sóng hung tợn
“liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn
tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi
bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng
ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ 2 này
tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật
theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con
thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc
được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng
nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả xung, hữu đột như
một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt
qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.
+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh
lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô
hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.
- Là người tài hoa nghệ sĩ :
+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh hoạt, khéo léo,
tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi
chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá
thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa
đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn
thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn; bình tĩnh và hùng dũng ngay cả lúc bị thương.
+ nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò: sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông
nước.
+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “Đêm ấy nhà đò
đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”.
Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là
vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy
cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó bằng cái nhìn giản dị mà
không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới cho
mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một
thời vang bóng mà là những người lao động bình thường- chất “vàng mười của Tây Bắc”. Qua hình
tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có
trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự uyên
bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ
thuật, điện ảnh…
- “… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng
hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như
một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của
Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức
sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải
phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ…”. (Phan
Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).
- “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà
là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có
hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…” .
“… Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn,
say đắm…”.
- Giố ngvớ i Hoàng Phủ Ngọ c Tườ ng khi viết Ai đã đặt tên cho dòng sông, sông
Đà đượ c tác giả khai thác mộ t cách trọ n vẹn nhấ t nhữ ng gì tuyệt mỹ củ a thiên
nhiên. Thứ vậ t chấ t nguyên bả n ấ y khi đi qua đôi mắ t củ a kẻ si tình bỗ ng trở
thành bả n trườ ng ca rầ m rộ , hùng vĩ và tràn đầ y phóng khoáng, tự do.
- Nguyễn Tuân quan niệm cái đẹp là nhữ ng gì gây ấ n tượ ng mạ nh, đậ p mạ nh vào
giác quan nghệ sĩ. Ông không thíchcái gì bằ ng phẳ ng, nhợ t nhạ t, khuôn phép yên ổ n.
Ông là nhà văn củ a nhữ ng tính cách độ c đáo, củ a nhữ ng tình cả m, cả mgiác mãnh liệt,
củ a nhữ ng phong cả nh tuyệt mĩ, củ a gió, bão, núi cao, rừ ng thiêng, củ a thác ghềnh dữ
dộ i
“ Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Đoạn mở bài (hoặc đoạn khái quát sau mở bài) có thể liên hệ các ngữ liệu là
những câu thơ viết về sông Đà:
Có một Đà giang đã từng chảy qua trang thơ của Quang Lâm:
Đó cũng là con sông gợi thương gợi nhớ trong thơ Trần Quang Quý:
Tôi ôm dòng sông nghe giai điệu bè trầm ngàn xưa kể chuyện
(Sông Đà)
Như vậy, sông Đà không phải lần đầu tiên đi vào thơ văn. Nhưng qua cảm nhận
của mỗi người nghệ sĩ, sông Đà lại được khám phá với những góc nhìn riêng, vẻ
đẹp riêng. Bởi lẽ "Thế giới không phải được tạo lập một lần mà mỗi một lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo lập", nên cũng
là dòng sông ấy, qua trang văn tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà
hiện lên như một công trình mỹ thuật tuyệt vời của tạo hóa với hai vẻ đẹp đầy
ấn tượng: Hùng vĩ, dữ dội và đằm thắm, trữ tình. Con sông của tạo hóa vốn đã
độc lạ, con sông chảy qua trang văn Nguyễn Tuân còn độc lạ gấp nhiều lần. Với
"Người lái đò sông Đà", ngòi bút Nguyễn Tuân như "tung hoành sảng khoái giữa
dòng thác cuồn cuộn của ngôn từ, buộc ngôn từ dựng lên ghềnh thác, buộc nhịp
điệu dựng lên sóng gió" khiến cho sự hung bạo dữ dằn của sông Đà khúc
thượng nguồn hiện lên thật sống động và truyền cảm. Đoạn văn: "Còn xa lắm
mới đến cái thác dưới [..] Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới" là
minh chứng sinh động điều đó.