You are on page 1of 3

Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn.

Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân
bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng
và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn
trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác
mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông
Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất khí. Nghĩa là
tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút
Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những
nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò
và con sông Đà.

Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là
một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai
nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung bạo và trữ tình". Lúc trở mặt hung
bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi
dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng vui, xa thì nhớ
nhung, lưu luyến.

Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một cây bút
vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu
nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội,
nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu
trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu
đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì
từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn
dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".

Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh
chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải
rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao
thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.

Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá
dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm
thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm "giống như cái
giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống
cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè
gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã
bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Dùng thủ pháp văn
học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả của
điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào một cái thuyền thúng
cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay
tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt
giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh
thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy
gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước
khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".

Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì quái do
cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.

Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng
gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo gần mãi lại réo to
mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".

Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò,
nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào
cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà
thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp
chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,...

Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn
Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng
trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên
sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì
lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành
thi sĩ. Ông thấy "lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước". Từ những chạm khắc gân
guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường
nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn
ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là "màu nắng
tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" - thoáng hiện lên trên sóng nước sông
Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn
đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh
mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi "một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt
nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".

Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà
màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi,
thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú
Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm
nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng
cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy
một tiếng còi sương ?". Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.

Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững hình tượng người
lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn với một con thác dữ,
nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác -
khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình
trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất thiết
phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt
thác..

You might also like