You are on page 1of 5

Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải là một chiếc vỏ ốc nhỏ bé mong manh song lấp

lánh sắc
màu và từ đó ngân lên tiếng thì thầm của đại dương sâu thẳm, ngân lên những khúc ca về cuộc
sống, tình yêu và khát vọng muôn đời. Như Pautopxki trong "Bụi quý" từng nói: "Sáng tác của
chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất, cho lời kêu gọi đấu tranh vì hạnh phúc vì niềm vui và tự
do, cho cái cao rộng của tâm hồn và sức mạnh của trí tuệ chiến thắng bóng tối. Cho chúng rực rỡ
như một mặt trời không bao giờ tắt". Và "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân chính là một
tác phẩm như vậy. Tùy bút như một khúc ca ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng
vĩ, bạo liệt song cũng vô cùng thơ mộng, trữ tình. Đặc biệt, trên cái phông, cái nền thiên nhiên ấy
là vẻ đẹp của tâm hồn con người lao động trong công cuộc dựng xây đất nước.

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước
năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập "Vang bóng một thời" và sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính
mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp
trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành
những công trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.
Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm
1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà
văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên quanh co,
uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính
cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vả đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo
nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.
Sông đà là một hình ảnh trung tâm của tác phẩm được tác giả xây dựng rất thành công. Dưới
ngòi bút của Nguyễn Tuân sông Đà không chỉ tiêu biểu cho thiên nhiên Tây Bắc mà còn trở
thành một sinh thể có tâm hồn có tính cách. Đó là một dòng sông rất hung bạo dữ dội và thơ
mộng trữ tình. Không để cho người đọc phải chờ đợi lâu, ngay trong lời đề từ của tác phẩm
Nguyễn Tuân đã tạo dấu ấn trong lòng người đọc về sự lạ thường của con sông đà. Nhà văn đã
mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích để giới thiệu:

“Chúng thủy giai đông tẩu


Đà giang độc bắc lưu”
Việc sử dụng những câu thơ chữ Hán đã tăng thêm tính trang trọng, cổ kính cho hình tượng sông
Đà. Từ “độc” trong lời thơ được sử dụng vô cùng hiệu quả thể hiện sự độc nhất, không lặp lại, sự
khác biệt khác thường của sông Đà. Sau lời đề từ, Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ liệt kê tên của 73 con
thác của sông Đà, nhưng sự hùng vĩ của nó không chỉ có thác mà còn ở vách đá. Bờ sông Đà
không trôi giữa hai bờ cát trắng phẳng lì thơ mộng trữ tình như Sông Đuống của Hoàng Cầm mà
chảy sữa hai vách đá dựng đứng hun hút. Từ điểm nhìn bao quát, Nguyễn Tuân đã giúp người
đọc hình dung về sự hiểm trở của sông Đà. Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc
giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo
tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như "đá bờ sông dựng
vách thành". Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy
giống như những thành trì vững chãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy
hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại càng ảm thấy thích
thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ
ra con sông ấy, mặt sông thường "đúng ngọ" mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như
"chẹt lòng sông như một cái yết hầu", rồi "có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ
này qua bờ kia". Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng
như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví dụ như ừ
"chẹt", nó giống như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh "như một
cái yết hầu" thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Bên cạnh đó (v)
mạnh: chẹt + ss -> độ hẹp đến vô cùng của 2 bên bờ sông. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà
giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm
giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các
vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.

Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình
tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc hoạ đậm nét ở mặt ghềnh Hát
Lóong. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là "nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió". Chỉ một câu nhưng từ "xô" được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này
khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một
cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức
mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó "gùn ghè", hầm hè y như
những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với
con người. Từ láy “cuồn cuộn” cùng thủ pháp so sánh, nhân hóa “như đòi nợ xuýt”, “gùn ghè”
vừa nhấn mạnh dòng chảy cuộn xiết, dữ dội cùng tiếng gió rít rùng rợn, quăng quật, gào rú thách
thức con người vừa hé mở hành động tâm địa nham hiểm độc ác của con sông. Từ đó nhà văn
làm nổi bật sự hung hãn lì lợm cuồng bạo của Đà Giang ngày đêm hăm dọa uy hiếp con người.
Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái "hút nước" khổng lồ ở quãng sông Tà Mường
Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống "như những cái giếng bê
tông": tròn, sâu, kiên cố được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp nhân hoá,
biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. “ặc ặc lên như rót dầu sôi vào” -
> h.ảnh ss+từ láy gợi âm thanh nặng nề, mệt, to, rùng rợn. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người
chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm
nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới
gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông. Cách so sánh ví von gây cảm giác
mạnh cho người đọc như nhìn thấy sự hung dữ của con SĐ, con sông k khác gì loài hug thú, đi
đến đâu gieo rắc tử khí đến đó.
Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đày hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một
cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng "réo
gần mãi lên, réo to mãi lên". Ông nghe tiếng nước như có lúc đang "oán trách", có khi lại "van
xin" hay lại đầy "khiêu khích". -> mức độ âm thanh tăng tiến, mực độ cảm xúc bị kéo thoe => sự
hung hãn của thác nước, kích thích trí tưởng tượng của con người, dẫn dụ con người. Có lúc nó
lại rống lên như "một ngàn con trâu mộng" đang vật lộn trong lúc rừng cháy. -> NT ss+nh+liên
tưởng độc đáo lấy cái thú để tả dòng sông, Nguyễn Tuân đã lột tả đến tận cùng cái dữ dội, mang
dại của con thác, đó là 1 cách chơi ngông của nhà văn.
Tới cái thác:
+ sóng bọt…: hùng vĩ lớn lao
+ đá từ ngàn năm…: bí ẩn hiểm ác
+ Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành "chân trời đá" mênh mông. Chúng mang
nhiều dáng vẻ khác nhau như "ngỗ nghịh", "nhăn nhúm", "méo mó"... Tác giả đã dùng nhiều tính
từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả
cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng
tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một "loài thuỷ quái khổng lồ" đầy
độc ác, nguy hiểm.
 NT: nh+trí tưởng tượng phong phú, tài năng uyên bác nhà thơ đã vận dụng ngôn ngữ của
1 số ngành khác nhau: quân sự, thể thao, đô vật, mĩ thuật để biến đá thành bầy thạch tinh
hung hãn, ma quái trước con người.
Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn mang trong
mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được
Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những không gian và thời gian khác
nhau.
Dây thừng: hiền lành vô hại. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng
tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm "tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân". => SĐ hiện lên với chất thơ trẻ trung, đẹp đẽ, thướt tha,
mềm mại như đang kđ SĐ như áng tóc của cơ thể sống TB. TB đẹp hơn, tươi mới hơn là nhờ
dòng sông. Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa
của dòng sông như mùa xuân dòng sông "xanh ngọc bích", mùa thu "lừ lừ chín đỏ". -> 2 màu sắc
tưởng chừng đối lập những lại tô điểm cho nhau -> vẻ đẹp biến ảo linh hoạt, hút hồn, hấp dẫn.
Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng "như một cố nhân". SĐ
như 1 cố nhân xa thì nhớ bên nhau thì yêu thiết tha, trân trọng vẻ đẹp của tháng 3 Đường thi thơ
mộng, trữ tình, ấm áp, lấp lánh. Bờ SĐ, bãi SĐ, chuồn chuồn bươm bướm trên SĐ: câu văn bỏ
lửng gọi nhiều liên tưởng, dường như con người đang bị vẻ đẹp tuyệt mỹ của dòng sông thu hút,
đang thẩn thờ bất lực trước vẻ đẹp tuyệt mỹ của tn. “Chao ổi, con sông ..”: thán từ “chao
ôi”+điệp ngữ+ADCĐCG-> diễ tả trọn vẹn niềm vui khi gặp lại cố nhân. Tác giả đã không quên
mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả
dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.
SĐ như 1 tình nhân chưa quen biết:
Cuối cùng Nguyễn Tuân tập trung miêu tả vẻ đẹp hoang sơ trù phú của đôi bờ khi ông đi thuyền
trên sông Đà: “Cảnh ven sông ở đây lặng từ… Và con sông như đang trôi những con đò đuôi én
thắp mình dây cổ điển”. Thi vị nhất là không gian tĩnh lặng trên dòng sông Đà, tác giả liên tưởng
đến dòng sông chảy xa xăm trong lịch sử “đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ
đến thế mà thôi”, vừa làm nổi bật sự cổ kính tĩnh lặng của không gian vừa gợi cái thăm thẳm xa
xăm của thời gian. Không chỉ vậy, cảnh bờ sông tiếp tục được miêu tả qua những so sánh độc
đáo “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử…”, sự liên tưởng mới lạ của ông đã tô đậm vẻ đẹp cổ
kính hoang sơ mà vẫn trong trẻo êm đềm tĩnh lặng của dòng sông đã có từ rất xa xưa. Ẩn sau vẻ
đẹp bình yên tĩnh mịch sông Đà còn mang vẻ đẹp hữu hình trù phú, được nhà văn phát hiện qua
các hình ảnh “cỏ danh đang ra những nõn mút, búp cỏ danh đẫm sương đêm, mấy lá ngô non đầu
mùa, áng cỏ sương”. Tất cả đã làm nổi bật khung cảnh yên bình thơ mộng sự sống tràn trề đã tạo
nên diện mạo mới cho sông Đà nơi hạ lưu. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân sông Đà còn rất
nặng tình nặng nghĩa.

Qua truyện ngắn "Người lái đò sông Đà" tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái
đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao...
Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc
hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại. "Người lái đò sông Đà" thực sự là một
tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới
thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng
lại trữ tình của dòng sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm
yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây.

You might also like