You are on page 1of 5

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

(Trích – Nguyễn Tuân)

I. Giới thiệu tác giả

Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Ông là một nghệ sĩ tài hoa,
uyên bác, có cá tính độc đáo. Sự nghiệp của nhà văn thành công cả ở 2 giai đoạn: trước và sau
CM

Nguyễn Tuân- một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm CÁI ĐẸP.

+ Trước CM: cái đẹp lạc lõng, bất hòa với cuộc đời

+ Sau CM: hướng đến thiên nhiên, con người trong cuộc sống đời thường (chất vàng của TN và
thứ vàng mười qua thử lửa)

PCNT: NGÔNG, Tài hoa, uyên bác; Tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, nhìn
người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ; Quan niệm cái đẹp độc đáo, đập mạnh vào các giác
quan; Ngôn từ : sáng tạo, giàu hình ảnh, cảm giác; lối diễn đạt mới, câu văn dài ngắn co duỗi
nhịp nhàng... Sở trường ở thể tùy bút: “ông vua tùy bút”.

Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại, song
đặc biệt thành công ở thể tùy bút, được mệnh danh là “ông vua tùy bút”. Tác phẩm tiêu biểu
nhất của Nguyễn Tuân về thể loại này là "Người lái đò sông Đà".

Đóng góp lớn cho văn học dân tộc:

+ Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt đến trình độ nghệ thuật cao

+ Làm phong phú ngôn ngữ dân tộc.

+ Phong cách nghệ thuật độc đáo

II. Khái quát tác phẩm

"Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế gian khổ và hào
hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Bài tùy bút được in trong tập "Sông Đà" xuất bản năm
1960. Nội dung bài tùy bút là miêu tả con sông Đà và hình ảnh người lái đò vượt thác trên sông
Đà, qua đó ca ngợi chất vàng của tự nhiên, phát hiện chất vàng mười qua thử lửa của con
người vừa để thỏa mãn đam mê xê dịch.

III. Nội dung

* Lời đề từ : “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”+ “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc
bắc lưu”: Cảm xúc say sưa, mê đắm trước vẻ đẹp của con sông; thiên nhiên, con người hòa
điệu trong tiếng hát đẹp + vẻ độc đáo, khác thường, ngạo ngược của SĐ

-> cảm hứng sáng tác và phong cách của Nguyễn Tuân
1. Hình tượng con sông Đà:

a. Con sông Đà hiện lên trước hết với nét tính cách dữ dội và hung bạo:

- Một trong những chi tiết đầu tiên gợi lên sự dữ dội và hung bạo của con sông Đà là “cảnh đá
bờ sông dựng vách thành”. Cụm từ “vách thành” làm hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh hai
bờ sông Đà với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. Độ cao của bờ sông Đà còn
được Nguyễn Tuân tiếp tục gợi tả qua những chi tiết như: “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới có mặt trời”, “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”, “cảm
thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng
nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

Không chỉ cao và sâu, hai bờ sông Đà có lúc còn rất hẹp, bờ đá ép lòng sông đến nghẹt thở, có
quãng “vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu” đến nỗi “đứng bên này bờ “nhẹ tay
ném hòn đá sang bên kia vách”, “có chỗ con hươu con nai đã có lần nhảy qua”.

NT: so sánh, liên tưởng mới mẻ, điệp từ “nào”, miêu tả bằng ấn tượng của nhiều giác quan gợi
hình thế dựng đứng, hẹp, bức bối, lạnh lẽo, tối tăm của vách đá.

- Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh mặt ghềnh
Hát Loóng: Cụm từ ngữ “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” với nhịp ngắt ngắn,
nhanh, dồn dập, hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ cho nhau đã tái hiện sức mạnh dữ
dội của nước, sóng, gió cùng với đá sông Đà. Điệp từ “xô” lặp lại ba lần gây ấn tượng về sự
chuyển động khủng khiếp, gợi liên tưởng đến những con sóng chồm lên nhau theo chiều ngang,
vút lên theo chiều dọc rồi đổ ập xuống. Từ láy “gùn ghè” thể hiện bộ dạng dữ tợn, hung
hăng;tâm tính hiểm ác, ngỗ ngược, cuồng bạo của dòng sông, “lúc nào cũng như đòi nợ xuýt bất
cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”.

- Đem lại ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của sông Đà là hình ảnh những cái hút
nước trên sông: Hình ảnh so sánh “những cái hút nước” như những “cái giếng bê tông xoáy tít
đáy”, so sánh âm thanh hút nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như
vừa rót dầu sôi vào” làm cho hình ảnh cái hút nước hiện lên như một con quái vật đang giận dữ.
Hình ảnh liên tưởng mép rìa của hút nước như “quãng đường mượn cạp ngoài bờ vực”, hình
ảnh những con thuyền bị hút nước ấy hút vào, thuyền “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi”, bị dìm dưới lòng sông và mươi phút sau thấy “tan xác ở khuỷnh sông dưới” tạo cho người
đọc cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền qua đấy. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn dẫn
dụ người đọc vào trò chơi cảm giác mạnh khi hình dung một anh bạn quay phim táo bạo ngồi
trên chiếc thuyền thúng để lao vào xoáy nước ấy nhằm cung cấp cho người xem những thước
phim cân não. Người xem sẽ sống trong cảm giác hãi hùng thực sự khi cảm thấy tay mình phải
giữ chặt lấy chiếc ghế như “ghì chặt lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê
nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”. Đó là chuyến phiêu lưu cảm giác mạnh, thấy nét
đẹp nên thơ trong sự dữ dội bằng cái nhìn mới mẻ của tác giả.

Nghệ thuật: Nhiều chi tiết so sánh; trí tưởng tượng phong phú, độc đáo; ngôn ngữ tạo hình, gợi
thanh sinh động; thủ pháp điện ảnh, huy động kiến thức nhiều ngành

- Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất, thể hiện rõ tính cách hung bạo nhất của con sông Đà vẫn là
cảnh thác đá.

+ Từ xa đã nghe âm thanh của tiếng thác rất lớn: “tiếng nước réo gần mãi rồi lại réo to mãi lên.
Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đó là khúc nhạc của thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn
khích, man dại. Dám lấy lửa để tả nước, dám lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân thực sự đã cho
thấy cái ngông, cái tài của mình.

+ Khi đến gần, thấy “bọt tung trắng xóa cả một chân trời đá”. Đá ở đây không ngồi nằm một
cách lộn xộn, mà nó bày thạch trận trên sông. Sông Đà đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn như đá
tướng, đá quân, đá tiền vệ, hậu vệ, boongke chìm, pháo đài nổi. Hình dáng lũ đá cũng được
khắc họa sinh động: hòn thì “mặt ngỗ ngược”, hòn thì như là sơ hở để dụ cái thuyền đi vào, hòn
thì như là khiêu khích, hòn thì hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến.
Khi thuyền đã đi vào, sóng và đá như quân liều mạng, nhổm cả dậy, xông lên vồ lấy thuyền mà
đá trái, mà thúc gối, mà giở tất cả những miếng đòn nguy hiểm nhất. Con sông Đà có trí tuệ
chiến trận và sự nham hiểm vĩnh cửu.

+ Thạch trận sông Đà còn bố trí theo binh pháp, có cửa sinh và cửa tử. Ở vòng một mở ra năm
cửa, trong đó có 4 cửa tử, một cửa sinh. Cửa sinh nằm phía tả ngạn; Vòng hai mở thêm nhiều
cửa, cửa sinh lại nằm phía hữu ngạn, mức độ nguy hiểm cao hơn trước. Chi tiết dòng thác hùm
beo hồng hộc tế mạnh là ẩn dụ về sức mạnh hoang dã, bạo tàn cùng âm thanh, hình ảnh ghê
rợn, hung hãn. Vòng ba, ít cửa hơn, nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết. Luồng sống bị
trấn giữ, canh gác nên tính chất nguy hiểm, bất trắc cao hơn, hiểm ác tột độ

=> Sông Đà hung bạo được khắc họa rõ nét cả ở diện mạo dữ dằn, tâm tính nham hiểm và cả
trí tuệ mai phục, tấn công đối thủ -> thứ kẻ thù số một

Nghệ thuât: hệ thống động từ mạnh, nhiều hình ảnh dữ dội, tiết tấu nhanh, hối thúc; phép so
sánh, nhân hóa độc đáo, liên tưởng vô biên; cách tổ chức câu văn cầu kì; ngắt nhịp, co duỗi đầy
tính nghệ thuật; sáng tạo từ ngữ

b. Bên cạnh tính cách hung bạo, sông Đà còn mang một vẻ đẹp trữ tình đằm thắm. Vẻ đẹp trữ
tình được Nguyễn Tuân miêu tả từ nhiều góc độ:

- Từ trên cao nhìn xuống:


+ Từ trên cao, nét trữ tình đầu tiên là hình ảnh “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Câu văn rất dài chỉ có một dấu phẩy duy nhất kết
hợp với điệp ngữ “tuôn dài tuôn dài” vừa gợi tả sinh động độ dài tưởng như bất tận của dòng
sông, vừa làm cho dòng sông trở nên êm đềm, mềm mại và đầy nữ tính. Câu văn mở ra một
không gian thơ mộng, huyền ảo và chính Sông Đà góp phần làm nên vẻ đẹp đó của đất trời Tây
Bắc.

- Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà từ trên cao nhìn xuống còn hiện ra qua những màu sắc đầy biến
ảo. Đó là “dòng xanh ngọc bích” trong trẻo khi xuân đến, là màu nước “lừ lừ chín đỏ” vào mùa
thu. Hình ảnh so sánh nước sông Đà mùa thu “như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về” đã không chỉ làm hiện lên màu
sắc rất đặc trưng của nước sông Đà mùa thu mà còn hé lộ cho ta thấy ẩn chứa bên trong dòng
chảy êm ả vùng hạ lưu ấy vẫn tiềm ẩn những sức mạnh ghê gớm của một con sông trái chứng
trái nết, thoắt hiền lành đấy rồi bỗng chốc lại có thể gắt gỏng thác lũ ngay đấy.

- Khi từ trong rừng đi ra, tác giả lại thấy sông Đà gợi cảm như một cố nhân, đi xa thì nhớ, gặp lại
thì mừng vui khôn xiết: “Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên
đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở
thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Khi bắt gặp ánh nắng
chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn
trong ánh sáng “loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp trong trẻo,
huyền ảo, phẳng lặng, lấp lánh, thanh bình.

- Khi đi thuyền trên sông, tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc
vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử, đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như
một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo,
dùng thời gian để gợi mở không gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong
sáng, nguyên thuỷ của sông Đà.

Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong sắc thái lặng tờ, tịnh
không một bóng người của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn
thấy một vẻ đẹp đầy sức sống, non tơ, trong trẻo, tinh khôi “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô
non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ giành đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh
tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp
ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn
hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao
nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng
sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút. Dòng sông lững lờ ấy còn mang đầy thương
nhớ, yên lặng lắng nghe phía tương lai (nhân hóa)

2. Hình tượng người lái đò sông Đà:

Tên gọi: ông đò -> gọi bằng nghề nghiệp với thái độ trân trọng

Lại lịch: vô danh hóa nhân vật: hướng tới số đông những người lao động bình dị

Công việc: lái đò trên SĐ từ khi còn trẻ cho đến hiện tại khoảng 70 tuổi -> gắn bó với công việc,
dày dặn kinh nghiệm

Ngoại hình: tay lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, vết sẹo trên cơ thể…

-> dấu ấn của công việc

a. Trước hết, ông lái đò là một con người lao động TRÍ DŨNG (dũng cảm và tài trí), điều này
được thể hiện rõ qua cuộc chiến đấu với thác đá sông Đà:

- Ở vòng vây thứ nhất, sông Đà mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử và một cửa sinh. “Sóng
nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”,
chúng giở ra những miếng đòn hiểm độc nhất. Dù thác đá dữ dội, và dù đã bị thương, ông lái đò
vẫn bình tĩnh, “trên chiếc thuyền có sáu bơi chèo vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của
người cầm lái”.

- Ở vòng vây thứ hai, “Sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa
sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Ông lái đò đã xử lí một cách bình tĩnh, táo bạo, linh
hoạt. “Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn
lên, chặt đôi ra để mở đường tiến”. Ông đã đưa được con thuyền vào cửa sinh khiến thằng đá
tướng “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.

- Ở vòng vây thứ ba, cuộc chiến đấu trở nên quyết liệt hơn vì “bên phải bên trái đều là luồng
chết cả. Luồng sống ở chặng này lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”. Như một viên
tướng tài tình, ông lái đò điều khiển chiếc thuyền vun vút lao đi như một mũi tên, qua các cánh
cổng đá cánh mở cánh khép, vừa lao đi vừa tự động lái lượn được. Ông đã chiến thắng hoàn
toàn con sông Đà, đưa con thuyền về bến bình yên.
-> Ông đò hội tụ: trí tuệ + kinh nghiệm+ lòng dũng cảm+ sức mạnh thể lực+ bản lĩnh kiên cường

b. Bên cạnh vẻ đẹp dũng cảm và tài trí, ông lái đò còn hiện lên với vẻ đẹp TÀI HOA, nghệ sĩ:

- Ông đối đầu với thác đá sông Đà bằng một thái độ ung dung đầy chất nghệ sĩ. Tay lái của ông
khi thì “lái miết một đường chéo”, khi thì điều khiển con thuyền “vút qua cánh cổng đã cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Đúng là một “tay lái lụa”, một “tay
lái ra hoa”-> tài năng vượt thác ghềnh của ông đò ở mức phi phàm, kì diệu

c. Ông lái đò còn là con người KHIÊM NHƯỜNG, GIẢN DỊ trong cuộc sống đời thường:

Sau khi vượt qua thác đá Sông Đà, ông lái đò vẫn rất thản nhiên nướng ống cơm lam, bàn
chuyện cá anh vũ cá dầm xanh, không bàn một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua, coi đó như
là một thử thách bình thường mà hằng ngày ông vẫn luôn phải đối mặt. Phải là một người tài
năng, bản lĩnh mới có được thái độ thản nhiên như thế.

NT: nhiều những so sánh, ví von, liên tưởng độc đáo, bất ngờ, thú vị; từ ngữ phong phú, sống
động, giá trị gợi tả, gợi cảm cao, thuộc nhiều lĩnh vực quân sự, thể thao; câu văn đa dạng, nhiều
tầng, giàu nhịp điệu…

=>Ông đò là người lao động, người nghệ sĩ làm chủ thiên nhiên, “thứ vàng mười đã qua thử
lửa”; tiêu biểu cho người lao động, cho chủ nghĩa anh hùng trong lao động và cho kiểu nhân vật
của Nguyễn Tuân

3. CÁI TÔI TÁC GIẢ

Trực tiếp: Xưng tôi

Gián tiếp: Qua đối tượng miêu tả, giọng điệu, ngôn ngữ, hình ảnh so sánh, nhân hóa…

=>hướng ngoại, đầy phấn khích và rung cảm mãnh liệt trước SĐ, người lái đò; tài năng trong
quan sát, tưởng tượng, bày tỏ, tái hiện; tài hoa, uyên bác; thiết tha yêu quê hương, con người,
cuộc đời + đầy lòng tự tôn dân tộc

IV. TỔNG KẾT

“Người lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết
tha của một con người muốn dung văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ
tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Tác
phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa uyên bác của
người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và
những kì tích lao động của con người. NLĐSĐ là dòng sông chữ của Nguyễn Tuân với những
liên tưởng phóng khoáng, trùng điệp các hình ảnh so sánh mới lạ của trí tưởng tượng vô biên,
sự sáng tạo từ ngữ, câu văn cầu kì, co duỗi linh hoạt, quan sát ở nhiều góc độ, bằng nhiều giác
quan, vận dụng kiến thức uyên bác trên nhiều lĩnh vực một cách tài tình, hấp dẫn

You might also like