You are on page 1of 15

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

1. Tác giả

- Nguyễn Tuân là tác giả lớn của văn học hiện đại Việt Nam với những thành tựu xuất sắc
ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945.

- Sáng tác của Nguyễn Tuân mang phong cách riêng độc đáo trong đó nổi bật chất tài hoa
uyên bác.

- Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở
phương diện văn hoá thẩm mĩ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.

“Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người thợ
kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu), Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành
trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn
Tuân "đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọ).

2. Tác phẩm

2.1. Xuất xứ

- Người lái đò Sông Đà là bài tuỳ bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông
Đà năm 1960.

- HCST: sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên
miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1960, chuyến đi không chỉ nhằm thoả
mãn niềm khát khao xê dịch mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và
thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn
con người Tây Bắc trong cuộc sống hàng ngày của họ.

- Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân.
2.2. Lời đề từ của tuỳ bút Người lái đò sông Đà

- Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông! (Wladyslaw Broniwski – Ba Lan): Nhà văn đã
mượn câu thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộ những xúc cảm đang trào dâng mãnh liệt
trong lòng.

- Tiếng hát trên dòng sông có thể là tiếng hát của những người chèo đò, kéo thuyền, vượt
thác, tiếng hát thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động
của con người Tây Bắc; cũng có thể hiểu là tiếng hát say mê, phấn khích đầy ngưỡng mộ
của nhà văn trước vẻ đẹp của dòng sông.

- Lời đề từ do đó đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của tuỳ bút, đó là tình yêu đắm say, tha
thiết của nhà văn với thiên nhiên và con người trên dòng sông Đà

- Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu (Nguyễn Quang Bích): Hai câu thơ
chữ Hán đã đề cập tới một nét độc đáo của sông Đà khi dòng sông đều chảy về hướng
đông, chỉ có sông Đà một mình chảy theo hướng bắc - đó cũng là đặc điểm khơi gợi hứng
thú khám phá và chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời kiếm tìm cái Đẹp và sự độc
đáo. Nhưng khi mượn câu thơ xưa làm lời đề từ, có lẽ tác giả Người lái đò sông Đà
không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà còn nhằm khẳng định cá tính
độc đáo của mình trong dòng sông văn chương, đó là văn phong đầy sáng tạo của một
nhà văn có ý thức sâu sắc về cái Tôi cá nhân, về Bản Ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo
nghệ thuật.

 Với hai lời đề từ, tác giả Nguyễn Tuân đã cho thấy đồng thời cả cảm hứng sáng tác và
phong cách nghệ thuật độc đáo của mình trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà.

II. HÌNH TƯỢNG DÒNG SÔNG ĐÀ.

Qua ngòi bút của một nhà văn luôn khám phá thế giới ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ,
trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà, dòng sông Đà đã hiện lên như một công trình mĩ
thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hoá với hai ấn tượng đậm: dữ dằn, hung bạo và thơ mộng,
trữ tình.
1. Dòng sông hung bạo.

1.1 Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi lên sự hùng vĩ của sông Đà là cảnh đá bờ
sông dựng vách thành.

- Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh vách thành  thể hiện sự vững chãi, thâm với thành
cao, vực thẳm. - - Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng tượng như mặt sông chỗ ấy chỉ
chỉ lúc ngọ mới có mặt trời; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách... 
gợi tả gián tiếp độ hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá

- Động từ chẹt trong hình ảnh so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết
hầu  gợi độ hẹp của dòng sông

- Trong chi tiết ngồi trong khoảng qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh 
Nghệ thuật miêu tả sự vật qua cảm giác

- Những hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với cấu trúc trùng điệp của kiểu ngôn từ không
xác định như nào, mấy... trong so sánh về một khung của số nào trên cái tầng thứ mấy
nào vừa tắt phụt điện  tăng thêm cảm giác.

12. Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh mặt
ghềnh Hát Loóng.

- hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió...  tái hiện sinh động quần thể những
sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng gió và đá sông Đà

- Động từ xô điệp lại trong cả ba vế câu  gây ấn tượng về những chuyển động vĩnh
hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác

- Từ láy gùn ghè và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hoá về việc sóng gió trên
mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm
được qua đây  thể sự hung hãn của dòng sông luôn hăm doạ, uy hiếp con người.

1.3. Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của sông Đà là hình ảnh
những cái hút nước trên sông.
- Những chi tiết so sánh: hình ảnh cái hút nước tựa cái giếng bê tông xoáy tít, âm thanh
giống như cửa cống cái bị sặc, hình ảnh + âm thanh khi tưởng tượng mặt nước đang bị
rót dầu sôi  cho thấy sức mạnh và sự hung bạo của hút nước.

- Hình ảnh liên tưởng quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực  giúp người đọc dễ
dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ.

- Chi tiết những bè gỗ to lớn, nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy hút nước hay chiếc
thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi và tan xác ở khuỷnh sông dưới - là
những hình ảnh tưởng tượng  đưa đến một ấn tượng sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp
của hút nước sông Đà.

- Chi tiết anh bạn quay phim ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả
mình cả cái máy quay xuống đáy cái hút Sông - giả tưởng li kì do nhà văn tạo ra  bằng
thủ pháp điện ảnh dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm

1.4. Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất trong diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một của
con người phải là thác đá sông Đà.

1.4.1. Khi còn xa mới tới thác...

- Tiếng nước thác được miêu tả bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của
con người: khi oán trách...van xin, khi khiêu khách, giọng gần mà chế nhạo, khi rống lên
 Nghệ thuật nhân hoá đã khiến thác nước sông Đà trở thành một sinh thể sống

- Từ ngữ gợi âm xanh tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng  để vừa miêu tả sự
đe doạ hung hãn của dòng sông, vừa gợi tả khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát
với thác đá sông Đà

- Phép so sánh: hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa...
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng  lấy hình ảnh gợi tả âm thanh
(man dại, bản năng của động vật + âm thanh của những thân cây)  âm thanh của thác
đá được cảm nhận bằng thính giác, thị giác, xúc giác.

1.4.2. Khi thác hiện ra...


- Đá và nước thác: sóng bọt đã trăng xoá cả một chân trời đá.

- Tính từ trắng xoá lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi
mãnh liệt  gợi tả làn hơi nước trên mặt sóng + hình ảnh chân trời đá  gợi sự hùng vĩ
tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngày trong những ấn tượng đầu tiên.

- Hình ảnh nhân hóa: đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục... mỗi lần có chiếc thuyền nào
xuất hiện... là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền  đá + nước + sóng + gió
sông Đà tấn công, uy hiếp con người

- Sử dụng thuật ngữ của quân sự, thể thao, võ thuật (thạch trận, cuộc giáp lá cà, hàng
tiền vệ, boong ke, pháo đài...), những động từ mang sắc thái nhân hoá đặt trong những
nhịp câu ngắn, nhanh, dồn dập (mặt sông rung tít, nước thác reo hò... hò la... ùa vào... bẻ
gãy... thúc gối... đội thuyền.. đánh miếng đòn độc hiểm... bám lấy thuyền... đánh khuýp
quật vu hồi...) khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận
hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên.

- Sự ác liệt của sông Đà: âm thanh cuồng (trận nước vang trời thanh la não bạt) + hình
ảnh (dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá) + hình ảnh ẩn dụ về binh
pháp của thần sông thần đá.

- Sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau: ngỗ ngược... nhăn nhúm méo
mó; bệ vệ oai phong lẫm liệt; hất hàm; thằng đá tướng... tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất
vọng...

- Thác đá sông Đà dàn sẵn trận địa bày thạch trận mai phục và tấn công con người: Vòng
đầu, mở ra năm cửa... cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn, vòng thứ hai tăng thêm nhiều
cửa tử... cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn, vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là
luồng chết... luồng sống... lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác...

 Nghệ thuật nhân hoá + những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm + những tính từ chỉ
tính cách, thái độ, cảm xúc của con người đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong
những phần khủng khiếp của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng
gió, với nước thác, đá sông Đà - không im lìm và bất động như đặc tính vốn có tự ngàn
năm mà thét gào sống động; không vô tri mà ác hiểm, dữ dằn, đá sông Đà đã không chỉ lộ
diện mạo - mà cả tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người.

Thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn tả tài hoa, những tri thức uyên bác, nhà văn
của những cảm giác mạnh, những cảnh trí dữ dội, phi thường đã làm hiện lên hình ảnh
dòng sông Đà hung bạo, hiểm ác không chỉ như một con thuỷ quái, kẻ thù số một của con
người mà còn trở thành một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hoá, khơi gợi cảm
giác hãi hùng đây ngưỡng mộ, mê đắm.

2. Dòng sông trữ tình.

2.1. Sông Đà tuôn dài tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bụng nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân.

- Câu văn rất dài, chỉ có một dấu ngắt + điệp ngữ tuôn dài, tuôn dài  gợi tả sinh động
độ dài của dòng sông + đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận từ những dãy núi ở Tây
Bắc, chảy xuống đồng bằng, hoà vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển.

- Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn  làm tăng thêm sự yên ả, bình lặng cho
dòng sông khúc hạ nguồn.

- So sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình  sông Đà mang nét mềm mại, đằm thắm,
vẻ duyên dáng đầy nữ tính

- Sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời,
sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai và cái ấm áp, gần gũi thân yêu của làn
khói núi Mèo đốt nương xuân.

- Sông Đà mang vẻ đẹp của đất nước và nó gắn bó gần gũi thân thiết với cuộc sông con
ngườ

 Nhà văn của những vẻ đẹp vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong
quan niệm thâm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra âm áp
giữa cuộc đời binh dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường của những
người lao động bình thường.

2.2 Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn hiện ra qua những màu sắc đầy biến ảo. à niềm yêu
và sự say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một cách công phu và tinh tế trong
những thời điểm khác nhau, với những sắc thái khác nhau.

- Mùa xuân - dòng xanh ngọc bích: sự trong sáng, quí giá và êm nhẹ của sông Đà.

- Mùa thu - sông Đà lừ lừ chín đỏ: dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con
sông đầy.

- Hình ảnh so sánh nước sông Đà mùa thu như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ
lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về: làm màu sắc đặc
trưng của nước sông Đà trong mùa thu hiện lên + thể hiện sức mạnh tiềm tàng của con
sông.

2.3 Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà gợi cảm như một cố nhân.

- Tình huống đặc biệt: đi rừng lâu ngày, bắt đầu thèm chỗ thoáng, thêm một không gian
phóng khoáng mênh mông, và nhất là thèm được gặp lại sông Đà cố nhân!

- Cố nhân: là hình ảnh nhân hoá  dòng sông như một người bạn cũ + đưa đến sự vương
vấn cổ kính, xưa cũ.

- So sánh: Nhìn dòng sông thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiêu gương vào mắt
mình rồi bỏ chạy  bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông.

- So sánh: mặt sông giống như cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi
 làm xao xuyến những tâm hồn luôn yêu nhớ hương vị Đường thi cổ điển.

- Một câu văn chỉ nối tiếp các chủ ngữ: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm trên sông Đà”.
+ Hai chữ sông Đà điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập có tác dụng: tạo cảm giác như nhà
văn hoà vào những không gian miên man, gợi cảm của sông Đà bằng những xúc cảm dồn
dập, gấp gáp.

- So sánh: “Chao ôi! Trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

+ Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể chị có thể nhìn mà không thể nắm bắt.

+ Giòn tan là tính từ dùng để chỉ đặc điểm của những vật thể mỏng manh, dễ vỡ.

 Nắng giòn tan là một ẩn dụ đẹp để gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng, nhẹ
>< cái u ám, trĩu nặng của bầu trời những ngày mưa dầm

 Cách so sánh ấy đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến, nâng niu
cùng niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại dòng sông.

- So sánh niềm vui tái ngộ với dòng sông cố nhân, như niềm vui khi nối lại chiêm bao
đứt quãng: tác giả như tận hưởng niềm vui hiếm có, khi gặp lại dòng sông lần nào cũng
tươi mới, kì diệu như là lần đầu tiên.

- So sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó đằm đằm, ấm ấm như gặp lại cô nhân: sông
Đà đã thực sự trở thành người bạn tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ
thương trong hiện tại, bao hẹn hò chung thuỷ trong tương lai.

2.4 Nét trữ tình thi vị nhất của sông Đà chính là ở sắc thái lặng lờ hoang dại của nó.

- Câu văn đầy những thanh bằng: Thuyền tôi trôi trên sông Đà: tạo ra một cõi mơ êm
đềm như chưa từng có dấu vết của con người.

- Trong câu: Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi

+ Tính từ lặng tờ lặp lại hai lần cùng câu văn mang ý nghĩa khẳng định sự êm đềm, tĩnh
lặng của dòng sông không chỉ vì cái yên ả trong không gian mà như còn vì cái thăm thẳm
xa xăm của thời gian
- So sánh: bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa: cách so sánh không làm rõ hình ảnh của bờ sông, nó đẩy dòng sông trôi xa
thêm vào trong thế giới cổ tích huyền hoặc của tuổi thơ  người đọc cảm nhận rõ hơn sự
lặng lờ, hoang dại của một dòng sông trong trẻo, êm đềm.

Những hình ảnh thật mong manh, nhỏ bé, nguyên sơ: mấy lá ngô non đầu mùa mới nhú,
mấy nõn búp có giành đám sương đêm + âm thanh khẽ khàng, dịu nhẹ của tiếng cá dầm
xanh quẫy nước: sự yên ả, êm đềm đến mức mơ hồ của sông Đà khúc hạ nguồn.

- Hình ảnh con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng có sương, cất tiếng hỏi nhà văn
bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành...

+ Nhà văn bước lạc vào một cõi trong trẻo, lành, thuần hậu

+ Tạo ảo giác mãnh liệt đến mức nhà văn bỗng thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp
lê của chuyến xe lửa: thể hiện ước mơ hiện đại hoá miền Tây Bắc, cũng là cách nhà văn
nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người trong đại.

 Sự lặng tờ, hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét trong lời ao ước của Nguyễn Tuân
khi đứng bên một dòng sông quá đỗi êm đềm.

 Với việc phối hợp linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như ẩn dụ, nhân hoá,
so sánh, với lối hành văn đầy biến hoá, độc đáo, giàu sức gợi tả và gợi cảm, vận dụng tri
thức tổng hợp của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để quan sát, miêu tả hoặc bộc lộ
cảm xúc, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng dòng sông Đà trong hai sắc
thái: hung bạo và trữ tình. Ông đã thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong
những trang viết tài hoa, uyên bác khi miêu tả dòng sông, trong cách tô đậm những sắc
thái phi thường tuyệt mĩ trong việc soi chiêu dòng sông từ góc độ văn hoá, thẩm mĩ, và
nhất là trong cách khắc hoạ dòng sông Đà như một công trình mĩ thuật kì vĩ tuyệt vời của
tạo hoá, để từ đó người đọc nhận ra tình yêu say đắm của nhà văn với quê hương, đất
nước.

III. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ.


Trước 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con
người xuất chúng, vì thế, cái đẹp và người tài thường cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, và
trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam những năm đầu XX, đó là
những vẻ đẹp vang bóng một thời thường đem đến sự ngưỡng mộ ngậm ngùi, nuối tiếc.

Sau 1945, quan niệm thẩm mĩ của nhà văn đã có những thay đổi cơ bản. Vẫn nhìn con
người từ phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng bây giờ, Nguyễn Tuân cho rằng bất cứ người
lao động nào khi đạt tới trình độ điêu luyện giỏi giang trong công việc của mình đều có
thể coi là nghệ sĩ và xứng đáng được tôn vinh ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Trong những sáng
tác sau 1945, Nguyễn Tuân đã khám phá vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của những con người lao
động bình thường cuộc sống đời thường, qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng, yêu mến
đối với họ. Người lái đò sông Đà trong tuỳ bút cùng tên cũng là một nhân vật được nhà
văn khám phá và thể hiện không chỉ ở vẻ đẹp tài hoa mà còn là trí dũng.

1. Bối cảnh cho ông đò xuất hiện.

- Nền thiên nhiên dữ dội, kì vĩ, một không gian hào tráng, lớn lao xứng đáng với sự xuất
hiện của người anh hùng sông nước

2. Tình huống bộc lộ vẻ đẹp tài hoa trí dũng của con người.

- Cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục, trong đó nổi bật sự tương phản giữa một thiên
nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí dũng ngoan cường

→ Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông Đà chính là những tình huống
đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của mình khi người lái đò luôn
phải tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo, càng phải ngoan cường, dũng cảm mới có thể đưa
con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông.

3. Vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò trong trận thuỷ chiến với sóng thác sông Đà.

3.1. Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận,


- Khi sóng thác đánh miếng đòn độc hiểm nhất, ông đò mặt méo bệch đi : cách sử dụng từ
độc đáo làm hiện lên gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn, sự nhợt nhạt vì phải
dầm lâu trong nước lạnh.

- Sự đau đớn của ông đò được gián tiếp miêu tả trong cảm nhận của thị giác và xúc giác:
mặt sông trong tích tắc loà sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa
vào đầu

- Trong trận hỗn chiến gian lao khi tương quan lực lượng quá chênh lệch với sóng thác
sông Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén đau đớn, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền
vượt vòng vây thứ nhất của thạch trận trên sông Đà.

 Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh cáo của người cầm lái, Nguyễn Tuân
ca ngợi bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.

3.2 Vòng vây thứ hai của thạch trận,.

-Ông đò thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dạn kinh nghiệm - người nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá, người đã thuộc qui luật của dòng sông, thác đá.

- Chi tiết: ông đò nắm chắc bờm sóng... ghì cương... phóng nhanh vào cửa sinh: ông đò
được miêu tả như một dũng tướng tài ba đang điều khiển, thuần phục con ngựa bất kham
của sóng thác sông Đà.

- Chi tiết: ông nhớ mặt từng đứa trong bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước: thể hiện kinh
nghiệm dày dặn và trí nhớ siêu phàm trong việc đối phó với thách thức sông Đà.

- Những động tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò: lái miết một đường
chéo, khi tránh mà rảo bơi chèo, khi đè sấn lên mà chặt đôi... cho thấy những biến pháp
kì diệu của một tay lái ra đã chiến thắng cả thần sông thần đá.

3.3. Ở vòng vây cuối của thạch trận

- Hình ảnh ẩn dụ: cổng đá cánh mở cảnh khép: một mặt trận đá và sóng dữ
- Nhiệm vụ của ông đò: là canh thật chính xác để phóng thẳng thuyền, chọc thủng một
luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn.

- Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn +
cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ và danh từ nối tiếp: vút, vút, của ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng... đã thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò.

- Hình ảnh một mũi tên tre xuyên qua hơi nước: tốc độ phi thường của ông đò.

 Tài năng của ông đò đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ
điêu luyện và lĩnh kiên cường - tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu.

Thạch trận 1: Sông Đà chiếm ưu thế

Thạch trận 2: Người lái đò chiến thắng bằng sự dũng cảm + tài hoa

Thạch trận 3: người lái đò vượt hết thác

 Ngòi bút Nguyễn Tuân như một máy quay phim, ghi lại trường đoạn hồi hộp, gay cấn
giữa con người thiên nhiên.

4. Những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị.

- Giỏi giang, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét về đẹp tài hoa
nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, chủ động để tìm cho
mình một cửa sinh duy nhất giữa bát ngát trận đồ cửa từ của những trùng vi thạch trận
hiểm ác, dữ dằn

- Ông không bao giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dầu chỉ trong khoảnh
khắc; luôn có thể trình diễn nghệ thuật lái đò điêu luyện của một tay lái ra hoa.

- Hình ảnh: những người lái đò lại đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn
bàn tán về cá anh vũ, cả dầm xanh... chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến
thắng vừa qua nơi của ải nước đủ tướng dữ quân tợn: thái độ bình thản, họ coi việc chiến
đấu và chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của
ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện thường ngày.
IV. NGHỆ THUẬT

Nghệ thuật: Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của người lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ngợi
ca dưới sự kết hợp của những biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ gợi lên cảm
giác mãnh liệt, hồi hộp cho người đọc. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một
bức tranh hoành tráng về dũng sĩ vượt thác. Tất cả được tạo nên bởi cái tài, cái tâm, cái trí
tuệ uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực như thể thao, điện ảnh, quân
sự... của Nguyễn Tuân.

V. KẾT LUẬN

Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn quan sát, khám
phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ; miêu tả con người ở phương diện
tài hoa nghệ sĩ.

Với việc thể hiện nhuần nhuyễn những nét phong cách ấy, tác phẩm đã thực sự thành
công khi phát hiện và miêu tả chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên
nhiên Tây Bắc cùng chất vàng mười quí giá trong tâm hồn, tính cách những người lao
động bình dị miền Tây Bắc. Tuỳ bút Người lái đò sông Đà đã trở thành một thiên anh
hùng ca ca ngợi vẻ đẹp hào tráng của con người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên
nhiên. Với quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, tích cực của Nguyễn Tuân, người lái đò nơi
thượng nguồn Tây Bắc thực sự là một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng sông nước khi hàng
ngày phải chiến đấu và luôn phải chiến thắng thiên nhiên bằng trí tuệ, sự khéo léo, sức
mạnh và lòng can đảm của mình.

 LƯU Ý

- Khi phân tích bất kì một hình tượng nghệ thuật nào, chúng ta cũng phải:

+ Lí giải nguyên nhân tác giả chọn hình tượng ấy

+ Giới thiệu hình tượng

+ Phân tích nội dung, nghệ thuật của hình tượng


+ Đánh giá, tổng kết về hình tượng đó

 CÁC NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC PHẨM

1. Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một
đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi
nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết,
những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong
phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu
cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng
tạo nên những tác phẩm kì vĩ (Phan Huy Đông).
2. “… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô
giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá
phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói- “hung bạo và trữ
tình…”. (Nguyễn Đăng Mạnh).

3. Lật mở từng trang viết của nhà văn Nguyễn Tuân, không khó để nhận thấy những con
người phi thường, những cảm xúc dữ dội, mãnh liệt, những khung cảnh ấn tượng nơi
thác ghềnh, rừng thiêng, núi cao, bão, gió - Tất cả được thâu tóm qua lăng kính 'vạn hoa'
của nhiều ngành nghệ thuật và diễn tả bằng ngòi bút sắc bén, ngang tàng. Dường như,
cá tính không thể trộn lẫn ấy nảy sinh từ cẩn tắc, từ trăn trở khôn nguôi trên hành trình
đi tìm cái đẹp của một con người rất mực tài hoa mà cuộc sống trong đời thực cũng rất
lạ lùng… (Trích Bài đăng trên báo giấy Đời sống & Pháp luật số 71)

4. “Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khác, vẽ và kể chuyện về sông Đà, làm
thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc
biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông” (Đỗ Kim
Hồi).

5. “Qua bài tùy bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác của ông lái đò, Nguyễn Tuân
muốn nói với ta rằng: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường. Nó ở ngay
trong cuộc sống của nhân dân ta hằng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm
manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu đâu, mà ở ngay những người dân lao
động bình thường kia. Cuộc đời ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo kia
là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời”. (Nguyễn Đăng Mạnh)

LIÊN HỆ MỞ RỘNG CHO TÁC PHẨM

You might also like