You are on page 1of 11

Trường THPT Lê Quý Đôn – HS:……………………………………………..Lớp: 12….

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


Trích “Sông Đà”- Nguyễn Tuân

I.TÁC GIẢ: NGUYỄN TUÂN


Nguyeãn Tuaân ( 1910 - 1987 )
- Tröôùc caùch maïng thaùng Taùm: OÂng laø caây buùt vaên xuoâi laõng maïn thôøi kyø cuoái.
- Sau caùch maïng thaùng Taùm: Oâng tham gia caùch maïng, ñi khaùng chieán; chuyeân vieát buùt kyù vaø tuøy
buùt.
- NT có phong cách NT “độc đáo”, mang đậm chất tài hoa - uyên bác, có thể gói gọn trong chữ “ngông”. Vận
dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau để quan sát, miêu tả, từ đó tạo nên những áng
văn rất giàu có về tri thức và vốn sống.
- Cái đẹp không phải là sự đối lập giữa quá khứ - hiện tại mà cái đẹp được đặt trong mối quan hệ giữa quá khứ-
hiện tại- tương lai.
- Luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa - nghệ sĩ; luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa -thẩm
mĩ của nó.
- Sở trường của NT là tùy bút với mạch văn biến hóa linh hoạt; câu văn giàu hình ảnh, nhạc điệu; từ vựng phong
phú, độc đáo, mới lạ. Văn NT bao giờ cũng vừa đĩnh đạc, cổ kính vừa trẻ trung, hiện đại.
=> Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn thế kỉ XX, một trí thức giàu lòng yêu nước, giàu tinh thần dân tộc “một
nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”; là cây đại thụ của nền văn xuôi hiện Việt Nam hiện đại với phong cách nghệ
thuật độc đáo: tài hoa – uyên bác, đậm chất ngông; có sở trường về thể loại tuỳ bút cũng như có nhiều thành
công về truyện ngắn.

II.Tác phẩm: Người lái đò sông Đà


1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Trích tập tùy bút “ Sông Đà”(1960)
+ Đó là những năm miền Bắc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng XHCN.
+ Đó là kết quả của nhiều dịp NT đến với Tây Bắc trong thời kì kháng chiến, đặc biệt là kết quả của chuyến đi
thực tế Tây Bắc năm 1958. Đây là những năm tháng NT sống với nhân dân, bộ đội & cả công nhân TB. Thực tiễn
cuộc sống mới ở vùng cao khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của NT.
2. Thể loại tùy bút:
- Là phóng bút một cách tùy hứng theo dòng cảm xúc chủ quan của người viết. Đây là thể văn tự do, phóng túng
viết một cách tự do, thường mượn một câu chuyện, một sự kiện để liên tưởng, bàn bạc một vấn đề nào đó. Tùy
bút thường thấm đẫm chất trữ tình, rất thuận lợi cho tác giả bộc lộ những tình cảm trước hiện thực cuộc sống.
- Tùy bút của NT mang dấu ấn nghệ thuật của riêng ông:
+ Mang màu sắc hiện đại, tổng hợp trong các trang viết nhiều thành tựu của các ngành nghệ thuật để tăng thêm
sắc màu biểu hiện. Sự am hiểu của nhà văn về âm nhạc, hội họa, điện ảnh,…làm cho tùy bút mang tính nghệ thuật
cao.
+ Có yếu tố truyện: dùng trí tưởng tượng để kể, các nhân vật được miêu tả, khắc họa tâm lí tính cách ở 1 chừng
mực nhất định.
+ Có tính chất búy kí: NT phô bày sự hiểu biết của mình về địa lí, lịch sử, địa chất nhằm cung cấp cho người
đọc những tư liệu, những kiến thức về 1 dòng sông.
+ Kết hợp giữa tính chất báo chí & tính nhạc với bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn. Hiện thực khi NT
mô tả sự hung dữ với những thác ghềnh; lãng mạn khi ông miêu tả một dòng sông trữ tình như trong cổ tích.
3. Đề tài: Công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở vùng Tây Bắc.
4. Chủ đề: Qua việc miêu tả hình ảnh con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình, tác giả làm nổi bật hình ảnh con
người trước thiên nhiên, bộc lộ bản chất cao quí của người lao động: gan góc, thông minh, tài ba “ một thứ vàng
mười đã qua thử lửa của đất nước”.
Giáo án: Ngữ văn 12 – GV: Trần Thị Xuân Đào
5. Ý nghĩa lời đề từ:
- “ Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”: sử dụng hình ảnh hoán dụ (tiếng hát) để ca ngợi vẻ đẹp lạc quan
yêu đời của người lao động giữa thiên nhiên hùng vĩ (dòng sông)
- “ Chúng thủy giai Đông tẩu / Đà giang độc Bắc lưu”(Mọi con sông đổ chảy về hướng Đông / Duy có con sông
Đà chảy về hướng Bắc): nhằm nhấn mạnh tính độc đáo, cá tính mạnh mẽ của sông Đà.

HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM:


A.Người lái đò sông Đà”- một bài ca về thiên nhiên Tây Bắc qua hình ảnh Sông Đà:
I.Về lai lịch:
“Chúng thủy giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
à Cách giới thiệu tạo ấn tượng về Sông Đà: như một nhân vật có cá tính độc đáo.
- Sông Đà bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam -Trung Quốc “ Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên Trung
Quốc lấy tên là Lý Tiên, đi qua một vùng núi ác rồi đến gần ngã ba đường thì xin nhập quốc tịch VN, trưởng
thành mãi lên & đến ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng” dài khoảng gần 900 km, vượt qua nhiều
rừng núi bao la, có độ dốc lớn. Do đó, sông Đà có tốc độ dòng chảy khá mạnh so với các con sông khác.
- NT đã xây dựng con sông Đà bằng những nghịch lí, những nghịch âm. Điều đó đã khiến con sông Đà phô bày
hết được những vẻ đẹp phong phú & hấp dẫn của mình với những phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa:
hung bạo - trữ tình.Và cũng khiến ngòi bút phong phú của NT phô khoe hết được vẻ đa dạng, độc đáo vốn có ->
tạo chất men say cho cuộc sống con người.
II. Về tính cách :
1. Sông Đà - con sông TB hung bạo:
Mở đầu thiên tùy bút, tác giả miêu tả hoàng loạt các con thác thuộc địa phận Hòa Bình. Cái đáng sợ của SĐ
không chỉ là những con thác mà còn là quang cảnh hùng vĩ với vẻ hoang sơ, huyền bí của dòng sông chảy giữa
điệp trùng rừng núi TB.
a. Những khung cảnh hùng vĩ:
- “Những cảnh đá bờ sông dựng vách thành ”: vì thế cả ngày mặt sông không có ánh nắng, chỉ khi nào mặt trời
rọi đúng đỉnh đầu thì chỗ ấy mới có ánh nắng =>Tác giả lấy cái rợp tối của lòng sông để tả thế hiểm, độ sâu hun
hút khôn cùng của Sông Đà.
- “ Có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như cái yết hầu”: một sự so sánh cụ thể khiến người đọc như thấy
nghẹt thở trước sự quanh co, khúc khuỷu của vách đá ven sông.
- Có những quãng sông hẹp với vách đá thành hai bờ sừng sững đến nỗi:“con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này
sang bờ kia”: sự so sánh này làm nổi bật sự huyền bí, hoang sơ của con sông. Sông hẹp đến mức “ném nhẹ tay
hòn đá cũng chạm vách thành đối diện”
- Tác giả so sánh liên tưởng cảnh tượng đó như “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ
mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.Trong câu văn này NT không chỉ dùng thị giác mà còn bằng trực giác, xúc giác
& thân nhiệt để cảm nhận cái vắng lặng, tăm tối của sông Đà. Nhờ đó người ở thị thành chưa một lần đặt chân
vào chốn rừng núi mà vẫn có thể cảm nhận được cái hiểm trở của vách thành ven Sông Đà.
b. Sự dữ dằn của ghềnh sông với sự hợp sức của gió, của sóng và của đá:
- Con sông luôn hung hăng, “ưa gây sự”: Nó luôn chờ đợi người lái đò nào đi qua để giáng tai họa cho họ.“
Quãng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè
suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò SĐ nào tóm được qua đấy”
-> cấu trúc câu trùng điệp tạo ra nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp giống như một sự chuyển vận của gió to, sóng
lớn. Nghệ thuật điệp âm “xô” gây cảm giác mạnh mẽ như đang đứng trước sóng gió ngút ngàn của Đà giang hùng
vĩ.
- Hung bạo ở những cái hút nước: “Giống như cái giếng bê-tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “
nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những cái thuyền bị cái
giếng ấy hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới dòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Với cách tả này NT đã gây cảm giác lạnh người như đang
đứng trước một con thủy quái.
- NT đã kết nối những hình sắc, động thái thật của sông với những hình ảnh như không dính dáng gì đến sông “
Thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua quãng đường
mượn cạp ra ngoài bờ vực”
- Hung bạo ở những thác nước: có những thác dữ “ quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền”. Nó như một bầy thủy quái hung hăng bạo ngược. Ẩn trong những con thác đó là sự “ mai phục” của “
thạch trận”, mỗi lần thấy một con thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức “ nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền”
-> Cách so sánh và nhân hóa thật độc đáo
- Những dòng thác lao dòng, những thạch trận trên sông nhằm uy hiếp người lái đò. Tác giả đã gợi cảm giác
âm thanh như bản giao hưởng. Thoạt đầu là khúc dạo đầu với những cung bậc “ nghe như là oán trách gì” rồi như
“van xin”, khi thì “ khiêu khích, giọng gằn và chế nhạo”, khi thì “rống lên”, “reo như đun sôi”. Tác giả miêu tả
bọn chúng như bọn “người thác” nham hiểm chứ không còn là hiện tượng thiên nhiên vô cảm. Thế rồi, âm thanh
của tiếng thác nước phóng to lên hét cỡ: khúc nhạc của thiên nhiên đang ở đỉnh của cơn phấn khích, mạnh mẽ &
hoang dại “ rống lên như tiếng của một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu…”. Đấy là một liên
tưởng lạ nhưng hợp lí trong sự tương giao giữa sông nước & rừng núi . Âm thanh thác nước được động vật hóa
thành âm thanh của cả một đàn trâu mộng. Có sự liên tưởng lạ, bất ngờ trong sự tương khắc giữa nước & lửa,
giữa thủy & hỏa, tạo cảm giác thẩm mĩ rất cao.
- Hung bạo ở sóng thác: lúc thì ông tả với cái nhìn bao quát “ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa”
để gợi vẻ đẹp kì vĩ của dòng sông; lúc thì dùng kiến thức võ thuật để miêu tả cái hung hăng của dòng sông một
cách thật sống động “ sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng & hông
thuyền”
- Hung bạo ở đá thác: Từ chỗ nghe thấy tiếng, những người chèo đò dần dần nhìn thấy diện mạo “bọn ngươì đá”
hiện lên thật rõ nét. Bằng trí tưởng tượng phong phú, NT đã nhận ngay ra diện mạo gớm ghiếc & tâm địa nham
hiểm của kẻ thù:
+ Diện mạo dữ tợn “mặt hòn nào cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này”. Nhờ cách sử dụng nhân hóa, tác giả đã đọc được từng sắc diện người trong từng hòn đá vô tri
“một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến” .
Với động từ “hất hàm” đã truyền linh hồn vào những hòn đá vô tri, khiến hòn đá trở nên xấc xược, hỗn láo, giang
hồ. => Giá trị tạo hình.
+ Tâm địa nham hiểm: một đội quân đá rắn mặt, có cấp bậc, chức vụ & vai trò rõ ràng: đá to được miêu tả như
hòn đá tướng; đá nhỏ làm đá quân; đá ngầm làm quân mai phục ở lòng sông đến mấy nghìn năm nay; đá nổi thì
sẵn sàng nhổm dậy cả để vồ lấy con thuyền.
=> Câu chữ của NT đã bắt sự hung bạo kia phải nổi hẳn lên thành hình khối & réo lên muôn vạn âm
thanh. Không chỉ mô tả thật chính xác, tài tình mà qua cách miêu tả ấy ta còn cảm nhận được đằng sau nó là tình
cảm của tác giả với con sông, lòng yêu thiên nhiên, giang sơn đất nước sâu sắc qua âm hưởng của những khúc ca
ca ngợi sức mạnh thật hoang dại mà cũng thật tự do, khoáng đạt.
- Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp hoang dại, sức mạnh huyền bí của con Sông Đà hiện lên ở
nhiều góc độ khác nhau:
+ Sông Đà “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” sẵn sàng cướp đi mạng sống con người,
có tâm địa ác độc như dì ghẻ.
+ Đấy cũng là tiềm năng to lớn của SĐ khi nó được con người chinh phục. Chính vì vậy, NT đã nghĩ đến hình
ảnh của những “tuốc-bin thủy điện”. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của SĐ trong sự
nghiệp xây dựng đất nước.
 Nguyễn Tuân dùng nhiều câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những động từ mạnh, và lối nói ví von, ẩn
dụ tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác, thú vị.
2. Sông Đà - con sông TB trữ tình:
SĐ không chỉ khác thường với cảnh hùng tráng, kì vĩ, hung bạo mà còn là một dòng sông thơ mộng, cổ
kính, hoang sơ ; có đoạn ghềnh thác hung hãn nhưng cũng có đoạn thật hiền hòa, nước chảy êm đềm. Ngôn từ của
NT cũng di động ở giữa hai thái cực ấy. NT không thông qua nhân vật trung gian nữa mà ông viết theo cảm xúc
tức thời của một du khách ở nhiều góc nhìn khác nhau: khi thì bay trên không trung, khi thì “theo gót anh liên
lạc”, khi thì ngồi trên con thuyền êm trôi. Cứ mỗi lần như thế, ông lại phát hiện ra vẻ đẹp khác của con sông Đà.
a. Nhìn qua nhiều không gian: từ trên cao, mặt nước, bờ bãi
 Về hình dáng:
- Đó là lúc nhà văn “bay tạt qua sông Đà” để thấy con sông Đà từ trên cao như “sợi dây thừng ngoằn ngoèo”
- Khi xuống thấp, nhà văn thấy sông Đà“ tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời TB bung nở hoa ban hoa gạo tháng 2 & cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…”.Với NT, đó cũng
không chỉ là tuyệt tác của thiên nhiên mà còn là thiếu nữ đôi mươi. Đây là kết quả của sự tưởng tượng phong phú,
bay bổng; nó còn là kết quả của vốn văn hóa đúc kết lâu đời của nhà văn, là những yếu tố đã tạo nên những câu
văn mượt mà.
à Sông Đà như cô gái hiền lành xuân sắc, như hình ảnh của thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm và man sơ.
 Sông Đà thân thiết với con người:
Đó là lần theo gót anh liên lạc xuống một dốc núi & đột ngột con sông Đà hiện ra “như 1 cố nhân”. Từ Hán Việt
được dùng ở đây thật đắc địa.
+ cái vui ùa đến, tràn ra thành nhịp: Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm,….Khi đọc những câu
văn này ta lại thấy tấm lòng trìu mến, hoan hỉ của NT đối với tạo vật.
+ cái vui khiến nhà văn cảm thấy “cái nắng giòn tan” như cái cười giòn, sảng khoái như gặp lại “cố nhân”
->Tác giả đã đưa kiến thức thơ ca vào trong bài văn xuôi. Niềm vui ở đây thật huyền diệu như “nối lại chiêm bao
đứt quãng”.Ở phương diện này SĐ với NT là “ người bạn cố tri” và là “ người tình nhân”. Cứ thế cảnh thiên
nhiên cứ mở rộng dần bằng vẻ đẹp hiện thực của nó + vẻ đẹp tình yêu của chính nhà văn tài hoa đang đắm say mơ
mộng. Có thể ông đã nhìn sông Đà với trái tim của một nhà thơ.
b. Nhìn qua thời gian: theo mùa, theo dòng lịch sử quá khứ, hiện tại, tương lai
 Sắc màu: Sông Đà đẹp đầy màu sắc mùa xuân: Màu nước của dòng sông thay đổi theo mùa:
- Xuân về: Đà giang xanh màu ngọc bích - vừa trong xanh vừa óng ánh chứ không phải màu xanh canh hến
của sông Gâm, sông Lô.
- Thu sang: nước Sông Đà chuyển màu thành “lừ lừ chín đỏ” như da mặt người bầm đi vì rượu bữa….
à Tác giả dùng cách phối màu của nghệ thuật hội họa để tả những biến đổi tinh vi của màu sắc nước sông
Đà. Điều đó thể hiện vốn hiểu biết “lịch lãm” của NT.
 Dòng thời gian lịch sử của quá khứ:
Cái lặng lẽ được đẩy đến mức tuyệt đối bằng cách ru hồn người trong hoài niệm lịch sử cha ông:
+ Cảnh ven sông ở đây “…lặng tờ . Hình như từ thời Lí , đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi”. So sánh với các triều đại lịch sử để khẳng định sự lặng lẽ của dòng sông. Cái ý “lặng tờ” được nhắc đi
nhắc lại theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ ca, bằng 3 lần so sánh rất lạ:
+ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử…”
+ “Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…”
+ “ Dòng sông quãng này như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn TB”
à tạo sự gần gũi, cụ thể nhằm mục đích gợi vẻ đẹp của dòng sông bền bỉ qua năm tháng lịch sử. Những so
sánh ấm áp ấy mở ra một chuỗi liên tưởng trùng trùng, bát ngát, mở rộng đến tận cùng trí tưởng
tượng, gợi ra vẻ đẹp muôn đời, bất biến của dòng sông.
 Sông Đà thơ mộng trong hiện tại:
- Đó là lúc con thuyền NTuân trôi trên SĐ, tâm hồn của ông cũng thanh thản như con thuyền trôi trên sông.
Cụm từ “thuyền tôi trôi” lặp đến 3 lần tạo thành một điệp khúc êm nhẹ. Dòng nước trôi đi & “thuyền tôi trôi trên
SĐ”. Thế là con thuyền được dòng sông đưa đi, không phải chèo chống gì cả. Nó gợi ra sự lặng lẽ thơ mộng của
một mũi đò lừ đừ trôi giữa đôi bờ.Tác giả lại viết: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non
đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người ….Một bầy hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm….”.Ngồi
trên thuyền, trôi trên mặt nước mà tác giả tưởng chừng như đang trôi trong một nương ngô, trong đồi cỏ đang ra
những nõn búp. Mùa xuân Đà giang đang e ấp, trở mình qua lá ngô non mới nhú, qua nõn búp cỏ gianh.
- Thuyền tôi trôi trên “dải sông Đà bọt nước lềnh bềnh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân
chưa quen biết”. Lại một lần nữa tác giả đưa kiến thức thơ ca vào trong bài tùy bút, đưa câu thơ của Tản Đà vào
làm tăng thêm vẻ thơ mộng của dòng sông.
 Dòng sông khát vọng của tương lai:
NT tưởng vọng đến tương lai tươi sáng cho vùng đất thiêng liêng:“Chao ôi, thèm thấy được giật mình vì một
tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên trên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu”.Tiếng còi vang lên
trong các tác phẩm xưa của NT là một cuộc xê dịch, của sự chia li nhưng tiếng còi ở đây là sự phát triển của TB,
của một mộng tưởng tươi đẹp.
- Dựng lại cuộc hội ngộ giữa “con hươu thơ ngộ”với ông khách sông Đà: “ Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông
cũng vừa nghe một tiếng còi sương”. Tiếng còi sương của xe lửa, của tưởng tượng, ao ước làm cho cuộc gặp gỡ
chan chứa khát vọng về một hiện thực sáng ngời chưa tới song đã âm vang trong lòng & tạo vật.
à Sông Đà thật mỹ lệ và như “một cố nhân…lắm bệnh nhiều chứng” gợi cảm hứng nghệ thuật và cảm xúc;
vừa Đường thi cổ kính lại vừa hiện đại.
 Tác giả đã miêu tả SĐ với hai đặc điểm có vẻ đối lập đến gay gắt. Bởi lẽ:

+ Đó là hình ảnh hiện thực của SĐ


+ Đó là góc nhìn của tác giả. SĐ như là một nhân vật có tâm trạng, có cá tính, lúc thì hiền hòa khi thì giận dữ như
con người.
- Sông Đà như một công trình nghệ thuật thiên tạo để nhiều dấu ấn cho những ai một lần biết đến.
- Sông Đà dữ dội đã làm phông nền hấp dẫn để thể hiện tài năng của con người, nhằm ca ngợi ông lái đò
Tóm lại: Bằng khả năng quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ điêu luyện, phối hợp cách tả trực
tiếp theo ấn tượng & những liên tưởng, so sánh, ẩn dụ, nhân hóa bất ngờ, dùng nhiều hình ảnh trong sáng, gợi
cảm, đầy chất thơ để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông. Nhịp câu thì hối hả, mau lẹ để diễn tả niềm sung sướng
dâng trào, tạo sức lôi cuốn, hấp dẫn.
 Nguyễn Tuân đã cung cấp những kiến thức hết sức chi tiết về một dòng sông nổi tiếng ở Tây Bắc của
Tổ quốc .
B.“Ngưòi lái đò sông Đà” - một bài ca về con người TB qua hình ảnh ông lái đò:
1. Ông lái đò - là người lao động gắn bó, hòa nhập với sông nước từ ngoại hình, tố chất đến thói quen, cảm
giác:
Hình ảnh người lài đò chính là đối tượng của cái đẹp, lấp lánh ánh sáng của người nghệ sĩ tài hoa. Bởi lẽ, ở
đây, lái đò - chở đò là cả một nghệ thuật cao cường trên sông nước.
Nghệ thuật ấy là sự nhập thân vào cả hai phương diện tâm hồn và tính cách của ông lái.
a. Về lai lịch:
- Ông đò là một ông già 70 tuổi. Ông sinh ra và lớn lên ngay bên bờ sông Đà “Quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông
sát tỉnh”.
- Phần lớn cuộc đời ông dành cho nghề lái đò dọc trên sông Đà – một nghề đầy gian khổ và hiểm nguy.
“Thời Tây , Tàu …ông chở đò dọc tải chè mạn, chè cối từ Mường Lay cho đến hết cửa rừng Hòa Bình…”
b. Về hình dáng:
Bằng hệ thống ngôn từ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, bằng lối so sánh độc đáo đầy gợi cảm, NT đã
làm sống dậy trước mắt người đọc một ông lái đò với ngoại hình đặc biệt ấn tượng. Cái gian nan, khổ cực của
nghề lái đò như “ chạm khắc”, làm nên một hình dáng rất đặc biệt của ông lái:
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào
+ Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cái cuống lái trong tưởng tượng…
+ Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
+ Nhãn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù ….
+ Cái đầu bạc trắng nhưng hình dáng vẫn còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như
chất sừng, chất mun”, “ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá”
à Chỉ một vài nét, Nguyễn Tuân đã tạc nên một bức chân dung của lái đò không chỉ hình dáng bề ngoài mà
cả nội tâm “ là linh hồn muôn thuở của sông nước này” phong thái của một người lao động có tâm hồn.
c. Tài năng và tâm hồn:
+ Trong thời gian hơn chục năm trên sông Đà “ ông làm nghề chèo đò đã mười lăm năm liền, trên Sông Đà,
ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần…chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần”…
+ Ông am hiểu tường tận về con sông, về phương tiện đi lại, “ông dùng mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào
lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Ông thuộc dòng sông như thuộc “một trường
thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu & những đoạn xuống dòng…”
-> Ông lái đò như mọc lên từ “con Sông Đà hung dữ độc ác khét tiếng với bảy mươi hai con thác hiểm nghèo”,
“nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước SĐ”.
=> Vì thế ông luôn tự tin và chủ động trong mọi tình huống có khả năng chế ngự con Sông Đà hung dữ thành
con sông thân thuộc, êm dịu.
2. Ông lái đò - là người anh hùng trong trận thủy chiến:
Để đề cao vẻ đẹp này, NT say sưa tả trận thủy chiến ác liệt giữa con thuyền và SĐ đầy hiểm nguy:
- Một trận thủy chiến không cân sức giữa một bên là con SĐ được miêu tả như một bầy thủy quái với: nào
sóng, nào ghềnh, nào thác, nào đá,...hung hăng, dữ tợn với một bên chỉ là một ông lái đò với chiếc thuyền gỗ
mỏng manh.
- Một trận thủy chiến quyết tử: “Đám tảng đá hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái
thuyền” còn ông lái đò cũng quyết tâm “cưỡi lên thác SĐ, phải cưỡi đến cùng” với tư thế của người xung trận trên
chiến trường thác ghềnh.
Trước trùng vi thạch trận của sông Đà, cuộc vượt thác là trận chiến của con đò mà người lái đò là vị tướng chỉ
huy. Cuộc vượt thác được miêu tả qua 3 trùng vi thạch trận. Cách gọi tên sự vật bằng từ Hán Việt làm cho câu
chuyện trở nên thần kì vừa cổ kính & hiện đại
 Tả xung hữu đột với “ trùng vi thạch trận”:
- Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bố trí 4 cửa tử và 1 cửa sinh, cửa sinh nằm ở tả ngạn. Thạch trận vừa bày xong thì
cái thuyền vụt tới. Đối phương tung ra đội quân nước “ hò la vang dậy” với các đòn hiểm: ‘ùa vào bẻ gãy cán
chèo”, “đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền”. Nước như đô vật đánh những miếng đòn hiểm độc, cái chết
tưởng đã kề bên.Trước tình thế nguy hiểm này “ông lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất tung sóng trận địa
phóng thẳng vào mình”. Sóng nước như thể quân liều mạng “đội cả thuyền lên”, “mặt sông tích tắc lòa sáng như
cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Ông lái đò vẫn cố gắng chịu dựng: “cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái mặc dù mặt méo bệch đi vì đau, ông vẫn bình tĩnh: “ trên cái
thuyền saú bơi chèo, vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo”. Tác giả đã sử dụng kiến thức võ thuật & cả
nghệ thuật phối thanh, phối khí vào trong văn chương.
=> Bằng những hình ảnh so sánh gợi liên tưởng đến cuộc đấu vật, tác giả đã khắc họa sông Đà thành một
đối thủ hung hăng, nguy hiểm đồng thời ca ngợi vẻ đẹp ông lái đò là con người gan góc, kiên cường, bình tĩnh
vượt qua thử thách dành lấy sự sống.
- Trùng vi thứ hai: đối phương nham hiểm tung ra đội quân đá & đồng thời bố trí trận địa với nhiều cửa tử
nhưng có 1 cửa sinh. Cửa sinh ấy được bố trí từ tả ngạn sang hữu ngạn “ dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh dòng sông đá”, “ bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên trái liền xô ra định níu lấy con thuyền lôi vào
tập đoàn cửa tử”, “không ngớt khiêu khích”…. . Ông lái đò liền thay đổi chiến thuật: “ nắm chặt lấy bờm sóng
đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái , bám chắc lấy luồng nước đúng ” cho con thuyền “phóng thẳng vào cửa
sinh”.Ông xử lí các tình huống thật chính xác với tư thế oai phong, hùng dũng vừa táo bạo, nhanh nhẹn vừa
thông minh tài trí. Con thuyền lướt nhanh, bất ngờ khiến bọn “người đá” không kịp trở tay. Để miêu tả cuộc giao
tranh ấy, NT đã tung ra hàng loạt động từ, miêu tả những tư thế “nắm chặt, ghì cương, lái miết, đè sấn, chặt đôi,
phóng thẳng”. Lũ đá chiến bại “thằng đá tướng tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.Tả sắc diện của hòn đá, NT
dùng 2 từ “tiu nghỉu” thật là tuyệt bút.
=> Với những hình ảnh so sánh gợi liên tưởng cuộc đấu võ, ta thấy con sông Đà là võ sĩ thật tàn bạo, nham
hiểm quyết dồn đối thủ vào đường chết; còn ông lái đò là một vị tướng tài ba, dũng mãnh, rất thành thạo,
chính xác trong từng động tác.
- Trùng vi thứ ba: Đối phương bố trí cửa sinh ít hơn. Cửa sinh lại ở giữa dòng, bên trái bên phải đều là cửa chết;
ông lái đò như một chỉ huy dày dặn cứ phóng thẳng con thuyền , chọc thủng vòng vây”, “ vun vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng”. Nhờ sự khéo léo điêu luyện“ thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Cuộc vựơt thác được miêu tả như cao trào của một bản anh hùng ca.
=> Đến đây trình độ chèo lái con thuyền của ông lái đò đã đạt tới sự tài hoa nghệ thuật, tay lái ngư dân nở hoa,
ngôn ngữ nghệ sĩ cũng như nở hoa. Ngòi bút NT như một máy camera ghi lại những đoạn phim có giá trị tạo hình
và đầy kịch tính. Tất cả như muốn đua tranh với thiên nhiên quái ác và con người như đã gìành được thắng lợi vẻ
vang.
=> Hình ảnh miêu tả gợi liên tưởng đến cuộc đấu bóng, sông Đà quyết dồn ép, nguy hiểm quyết chiến đấu tiêu
diệt đối thủ nhưng ông lái như một cầu thủ xuất sắc đã chứng tỏ được bản lĩnh vững vàng, điêu luyện nhẹ
nhàng vượt qua thử thách khắc nghiệt để chiến thắng
Tóm lại: Trong đoạn văn này, NT đã viết nên những câu văn với nhịp văn gấp gáp, căng thẳng, gợi không khí
giao tranh quyết liệt giữa 2 thế lực: thiên nhiên – con người nhằm nhấn mạnh bản lĩnh, sử dũng cảm & khả năng
chinh phục tự nhiên của con người.
Kết hợp kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực: võ thuật, quân sự, thể thao cùng với trí tưởng tượng bay bổng
kết hợp với kho từ vựng phong phú, chính xác, cách dẫn dắt tình tiết thích hợp, NT đã viết nên những đoạn văn
đặc sắc tràn đầy không khí trận mạc, miêu tả sinh động cuộc chiến đấu giữa người lái đò với thác với đá nhằm
biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca về người anh hùng – nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác. Ông lái
đò vừa là một dũng sĩ vừa là người nghệ sĩ đang làm chủ thiên nhiên. Đó chính là vẻ đẹp “chất vàng mười đã qua
thử lửa” trong tâm hồn của con người TB mà nhà văn khao khát đi tìm.
3.Ông lái đò - là người người nghệ sĩ có tâm hồn phong phú, cao đẹp:
- Ông không thích lái đò trên những khúc sông bằng phẳng. Ông bảo “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác,
nó dễ dại tay dại chân và buồn ngủ”.
- Ông thích chạy đò qua những khúc sông có nhiều ghềnh thác vì ông cảm nhận rằng “ hết ghềnh thác, hình như
sông Đà hết đậm đà với nhà đò”.
- Sau khi vượt qua thác lũ, họ “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá đầm
xanh - chả thấy ai bàn thêm lời nào về cuộc chiến thắng đã qua”, mọi việc vất vả hiểm nguy “ xèo xèo tan trong
trí nhớ”. Họ coi việc đối mặt với sông nước là chuyện thường nhật, không có gì đáng nói.
-Trước thác ghềnh hung bạo, họ gan góc nhưng lúc bình thường lại gắn bó thiết tha với bản làng quê hương: nhớ
tiếng gà. Như bao người khác, ông cho buộc bu gà trống có bộ lông đẹp và giọng gáy hay vào đuôi thuyền để đi
đường xa , qua bờ bến khác có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ ruộng nương bản làng mình
=>Ông được xem như một người nghệ sĩ tài hoa, yêu mến và tự hào với công việc lúc nào cũng ung dung,
giản dị, giàu tình cảm.
* Tóm lại :
- Ông lái đò là hình ảnh tuyệt đẹp về người lao động bình thường nhưng tài ba, trí dũng. Nhân vật ông lái được
xây dựng trong mối tương quan với hoàn cảnh. Hình ảnh ông lái đò chính là tư thế của người lao động làm chủ
cuộc sống, làm chủ thiên nhiên: vừa đẹp đẽ phi thường bởi bàn tay tài hoa, nghị lực, trí tuệ thông minh lại vừa
khiêm tốn giản dị. Quả là “ một thứ vàng mười đã qua thử lửa của TB”. Cuộc sống của những người lái đò vô
danh nơi hoang vu kia chính là một thiên anh hùng ca lao động
- Cuộc đối đầu dữ dội với sông Đà à để làm bật nổi phẩm chất và tính cách của ông lái đò. Người anh hùng
không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn xuất hiện trong cuộc sống lao động bình thường.
- Nét độc đáo là Nguyễn Tuân có ý thức tạo tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ phẩm chất & tài năng
của mình; ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình; sử dụng tri thức hội họa, điện ảnh, võ thuật, quân sự
một cách tài hoa – uyên bác để diễn tả sinh động tài nghệ của nhân vật.
3. Nghệ thuật:
* Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua bài tùy bút:
+ Cách nhìn và tả cảnh thiên nhiên thật đẹp ( thiên nhiên sông Đà vừa mang một vẻ đẹp dữ dội, vừa mang vẻ đẹp
trữ tình, thơ mộng…)
à Tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, vốn ngôn ngữ cực kỳ phong phú của nhà văn.
+ Cách nhìn và miêu tả con người lao động của nhà văn chú trong vào vẻ đẹp trí tuệ , tài năng và tâm hồn ( tấm
lòng ông lái thật chân chất, đôn hậu ).
-> Qua đó , nhà văn đã dành cho nhân vật những tình cảm yêu mến và trân trọng, ngợi ca.
- Nghệ thuật viết tùy bút của Nguyễn Tuân thật đặc sắc:
+ Lối ví von độc đáo, bất ngờ, chính xác.
+ Chi tiết chân thực và hóm hỉnh.
+ Cách viết phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện.
+ Sự hiểu biết khoa học cặn kẽ, sức tưởng tượng phong phú, cảm xúc sâu lắng. Đặc biệt là lòng yêu thương và tự
hào về con người và đất nước.
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật:
- Sự uyên bác của một trí tuệ và sự phóng khoáng của một tâm hồn.
- Sự quý trọng những giá trị vật chất và tinh thần của đất nước, của dân tộc và tình yêu đối với người lao động
bình thường.
- Chất tài hoa – tài tử trong cách dùng từ, câu, hành văn .
- Lựa chọn các phương thức nghệ thuật đặc sắc, từ vựng phong phú, cách diễn đạt ý độc đáo.
2. Nội dung: Ngợi ca thiên nhiên Tây Bắc vừa hoang sơ, dữ dội vừa thơ mộng, trữ tình qua hình ảnh sông Đà;
ngợi ca người lao động Tây Bắc trong thời đại mới: trí dũng, tài hoa nhưng khiêm tốn, giản dị qua hình ảnh ông
lái đò.
=> Tùy bút “Người lái đò sông Đà” thể hiện rõ tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cám ơn
NT- người đã bằng cảm hứng lãng mạn & “phép thuật” của ngôn từ đem lại cho người đọc “chất vàng 10” của
cuộc đời, làm phong phú thêm cho tâm hồn & trí tuệ người đọc: dạy ta biết yêu hơn Tổ quốc & nhân dân
mình.
Đề: Phong cách Nguyễn Tuân thể hiện trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
I. ĐVĐ:
Giới thiệu đôi nét về tác giả & tác phẩm.
Qua thiên tùy bút đã thể hiện trọn vẹn phong cách của NT
II.GQVĐ:
1.Thiên tùy bút đã thể hiện chất tài hoa, tài tử, tài quan sát, miêu tả mọi vật trên cơ sở của cái đẹp:
a.Đó là cái đẹp trữ tình của con sông :
- Một con sông có vẻ đẹp hoang dã, cảnh ven sông lặng tờ, bờ sông “như một bờ tiền sử” & “nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa”
- Đó cũng là vẻ đẹp của hình dáng con sông Đà: dáng hình của người thiếu nữ kiều diễm “ con sông Đà tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai &
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”
- Đó là vẻ đẹp của màu nước sông Đà “mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu
canh hến của sông Gâm sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ của một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”
- Con sông Đà thật gợi cảm, từ cái dốc núi nhìn xuống mặt nước sông Đà thấy “trước mắt loang loáng như trẻ
con nghịch chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy”, cái miếng sáng ấy “sáng lóe lên một màu tháng ba đường thi “Yên
hoa tam nguyệt há Dương Châu”
- Đặc biệt chất tài hoa, tài tử ấy luôn dừng lại ở cảnh bờ bãi ven sông Đà với hình ảnh những chú “chuồn chuồn
bươm bướm bay lượn rực rỡ, với “một đàn hươu ngốn những búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, có lúc chúng lại
vểnh tai ngơ ngác nhìn chiếc thuyền đang trôi nhẹ trên sông . Trên mặt nước sông Đà, “cá đầm xanh quẫy vọt lên
mặt sông bụng trắng như bạc thoi rơi” trông thật đẹp mắt.
b.Đó là vẻ đẹp con người: được NT tập trung quan sát & miêu tả ở hình ảnh ông lái đò:
- NT rất chú ý đến chất nghệ sĩ của ông lái khi chèo đò & gọi tay lái của ông là “tay lái ra hoa”
- NT khắc họa vẻ đẹp của ông lái khi thể hiện tư thế của người anh hung vượt thác. Ông lái “nắm chặt cái bờm
sóng”, “con thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”,
còn những con sóng thì “đứa ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, “đứa thì ông sấn lên mà chặt đôi ra mở đường
tiến”,…
- Trong khi miêu tả cái đẹp của người lái đò, ngoài nét nghệ sĩ & anh hùng, NT còn chú ý đến nét đẹp bình dị khi
ông lão đốt lửa nướng cơm trong ống lam, kể chuyện cá anh vũ, cá đầm xanh hoặc việc buộc đôi gà vào đuôi
thuyền để cho nó gáy đỡ nhớ bản làng.
 Đấy là vẻ đẹp tài hoa, tài tử khi miêu tả con sông & người lái đò. Vẻ đẹp ấy đã nâng cao phong cách nghệ
thuật của NT. Ông không còn là người lữ hành đơn côi, cô độc trên hành trình đi tìm cái đẹp mà đã gắn cái
đẹp vào chính cuộc đời.
2. Thiên tùy bút đã thể hiện tính uyên bác & chiều rộng chiều sâu văn hóa trong phong cách của NT:
- NT tỏ ra am hiểu tận cùng con sông Đà. Ông thuộc từng luồng lạch, từng con thác , “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá”, “thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải nước nguy hiểm này”, hiểu rõ từng đoạn sông,
khám phá được cả đặc tính âm thanh của thác nước “tiếng nước réo gần mãi lại réo lên to mãi. Tiếng nước thác
nghe như là oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên
như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa một rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…"; nước ở cái giếng
sâu “ặc ặc lên như rót dầu sôi vào”, “ nước ở đây thở & kêu như cái cửa cống bị sặc”,..
- Khi miêu tả con sông, NT luôn chú ý khám phá những điều mới lạ.(hút nước, sóng thác, trận địa đá,…)
- Không hướng vào lớp người “đặc tuyển” như trước CMTT, khám phá con người bình dị trong cuộc sống lao
động nhưng ở đó NT cũng phát hiện nét phi thường.
- Đặt nhân vật vào khung cảnh sống nước dữ dội, vận dụng một nguồn kiến thức uyên bác về âm nhạc, điện ảnh,
võ thuật, quân sự, thể thao,…để miêu tả cuộc chiến đấu ác liệt & chiến thắng oanh liệt.
- Sử dụng ngôn từ giàu hình ảnh, phong phú, sống động, nhiều biện pháp nghệ thuật độc đáo: ẩn dụ, so sánh, nhân
hóa,… để viết nên bài ca ca ngợi người anh hùng.
III. KTVĐ:Khẳng định lại vấn đề “ Nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp”với phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo”

You might also like