You are on page 1of 2

SÔNG-ĐÀ

Uploaded by mai phương nguyễn thị

 0 ratings · 91 views · 13 pages


Document Information 

Copyright
Download
© © All Rights Reservednow 
Available Formats
DOC, PDF, TXT or read online from
BAÌ NGƯỜI LÁI Scribd
ĐÒ SÔNG ĐÀ
MB
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa. Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo
Share this document
nên một "huyền sử" - huyền sử của một người ưa lối chơi "độc tấu". "Người lái đò sông Đà" được coi là một
trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn. Qua tác phẩm, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng con
Sông Đà. Dưới ngòi bút của NT, Đà giang hiện lên như một sinh thể sống động giàu cá tính:vừa hung bạo, vừa
trữ tình+VĐNL, PHẠM VI KIÊN THỨC

 
Hoặc

Nếu «âm nhạc là kiến trúc của âm thanh»; «hội họa là khúc biến tấu của màu sắc» thì tác phẩm văn chương
được ví như « bàn yến tiệc của ngôn từ và cảm xúc». NLĐSĐ của nhà văn NT là một tác phẩm như thế! Dưới

Facebook Twitter
ngòi bút tài hoa của NT, câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà. Đà giang hiện lên như 1 sinh thể sống
động giàu cá tính: vừa hung bạo vừa trữ tình + VĐNL, PVKT
TB
I/ KHÁI QUÁT CHUNG ( DÙNG CHO MỌI ĐỀ)


- Pau-top-xki đã từng nói “ Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của
cái Đẹp”. NT Chính là 1 một người nghệ sĩ như thế! Hành trình sáng tạo NT của NT là hành trình tìm kiếm, tôn
vinh cái Đẹp nói như nhà thơ Nguyễn Đình Thi thì đó là nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật" .
-NT cũng coi văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo, ông sợ lặp lại mình và lặp lại người, sợ sự nhàm chán tẻ

Email
nhạt. Vì vậy ông ưa chủ nghĩa xê dịch, nay đây mai đó. Đó cũng là cách để NT làm giàu thực đơn tâm hồn
mình.
- Nói đến NT là nói đến 1 ngòi bút tài hoa, lịch lãm, uyên bác với vốn hiểu biết sâu rộng nhiều ngành nghề, lĩnh
vực.
- NLĐSĐ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn. Bài kí là kết quả của chuyến đi thực tế
Didđầyyou find
hào hứng this
và gian document
kh khi lên mảnh đất Tâyuseful?
Bắc rộng lớn và xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cơn đói của thú
xê dịch mà chủ yếu là tìm chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa của con người lao động
Tác phẩm được in trong tập Tùy bút Sông Đà (1960) và được ví như một thiên anh hùng ca, một bản tình ca
say đắm về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người VN.
II/ PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ
ĐOẠN DẪN
Đất nước VN ta với trăm sông nghìn núi. Biết bao nhiêu con sông đã bước vào thơ ca, khơi nguồn cảm
hứng cho nhiều nghệ sĩ. Trong số những dòng sông ấy, ta phải kể đến con sông Đà. Nó là đối tượng cảm
hứng của các bậc tao nhân mặc khách nhưng có lẽ đến với NT, sông Đà mới thực sự trở nên chân thực sống
động. Dưới ngòi bút tài hoa của NT, sông Đà hiện lên với hai nét cá tính trái ngược: vừa hung bạo vừa trữ
Is this content
hình núi noninappropriate?
hiểm trở, Sông Đà lắm thác Report thisđó,
nhiều ghềnh.Từ Document
tình. Sông Đà vốn bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Khi chảy qua vùng rừng núi Tây
Bắc, địa Nguyễn đã tìm thấy những tính cách
hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ lưu, chảy qua vùng đồng bằng sông Đà lại
phô diễn tất cả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.
1.Con sông Đà hung bạo.
1.1. Phân tích nội dung:
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong thiên tùy bút
này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
(Ca dao)
Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang
độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Sự hung baoh của con sông còn được
thể hiện ở đá hai bên bờ sông, ở ghềnh, thác nước, ở những cái hút nước chết người và đá sông Đà.
a. Đá bờ sông dựng vách thành.
- Biện pháp nghệ thuật so sánh kết hợp với liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã diễn tả thành công độ cao
của đá hai bên bờ sông, sự lạnh lẽo, âm u của những khúc sông có đá dưng vách thành.

AD Read without ads.

+ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời ”. Chi tiết này vẽ ra hình ảnh những vách đá cao, dựng
đứng cùng với khoảng cách hai bên bờ sông hẹp khiến ánh sáng mặt trời không thể chiếu vào mặt sông. Bởi
vậy, chỉ giữa trưa khi ánh sáng chiếu thẳng mới lọt được vào Sông Đà. Khung cảnh ven sông vừa kì vĩ hoành
tráng vừa âm u, rợn ngợp.

+ Bên cạnh đó, tác giả còn lấy một bộ phận nhỏ, hẹp ở c họng con người để miêu tả sự nhỏ, hẹp của dòng
sông: "Có vách đá chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu". Hình ảnh Nguyễn Tuân miêu tả giúp cho người đọc
không chỉ hình dung được sự nhỏ, hẹp mà từ "chẹt" còn gợi cảm giác bức bối, khó chịu khi nước sông bị đá
chẹn lại.

+ Để tô đậm thêm cho sự nhỏ hẹp và hoang sơ của sông, nhà văn lại sử dụng liên tiếp 2 hình ảnh: “ đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bờ bên kia vách: và “có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ bên này
sang bờ bên kia”. Đi vào những quãng sông như thế con người ta không thể không cảm thấy nguy hiểm đang
rình rập.
- Cuối cùng, để khắc sâu ấn tượng về độ cao của vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và sự nhỏ hẹp
của dòng chảy bằng một hình ảnh so sánh độc đáo : “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”
=> Thật thú vị, bất ngờ khi nhà văn so sánh cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với một
khoảnh khắc của đời sống hiện đại giữa chốn thị thành. Tưởng như xa cách mà lại hóa gần, ai chưa có dịp trải
nghiệm cái cảm giác “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy” cũng có thể cảm nhận đc điều đó trong một hiện thực
rất gần với mình. Phải là một người có óc tưởng tượng sáng tạo và trường liên tưởng phong phú Nguyễn Tuân
mới tạo ra được những đọan văn độc đáo, thú vị đến vậy.
=>Cảnh đá bờ sông hiện lên vô cùng sống động, trang văn của Nguyễn Tuân đã đi đến tận cùng của cái
hẹp, sâu, lạnh, tối, dựng đứng của thành vách đá Sông Đà.
b/ Cảnh mặt Ghềnh Hát Loóng
Sự hung bạo của Sông Đà tiếp tục được đẩy lên cao hơn trong đoạn văn miêu tả "cảnh mặt ghềnh Hát
Loóng"

- Với kiến thức địa lí uyên bác, cùng với sự khảo sát chi tiết, tỉ mỉ Nguyễn Tuân đã cho người đọc biết: trong số
73 ghềnh thác trên Sông Đà thì mặt ghềnh Hát Loóng chính là nơi dài nhất, nguy hiểm nhất.

- Để diễn tả được điều này, Nguyễn Tuân đã dùng một câu văn đầy giá trị tạo hình: "Lại như quãng mặt ghềnh
Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua quãng ấy ". Ở câu văn này, Nguyễn Tuân đã chứng
tỏ khả năng sáng tạo ngôn ngữ bậc thầy, một "người thợ kim hoàn của chữ". Đúng như nhà văn Anh Đức từng
nhận xét: "Ngẫm không biết đến chừng nào mới có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc
thầy của nghệ thuật ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ
tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng ".
+ Thứ nhất, câu văn tuy dài song lại không tạo nên cảm giác dàn trải, chậm rãi vì được tác giả chia thành nhiều
vế ngắn, tạo nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp . Nhiều nhịp ngắn kết hợp với nhịp dài ở cuối đoạn khiến cho
những chuyển động của sóng, của gió và đá ngày càng lớn, càng bức thúc tạo nên một mối đe doạ thực sự đối
với bất cứ người lái đò nào đi qua những ghềnh thác như thế.

+ Thêm nữa, biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc , ... "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió ..." đã
tạo nên một phản ứng dây chuyền, tạo vòng tròn kín khít giữa bốn đối tượng: nước, đá, sóng, gió. Bình thường
mỗi thế lực này đã mang sẵn trong mình sức mạnh ghê gớm của tự nhiên, nay chúng lại được gối lên nhau để
tạo nên một sức mạnh vô cùng khủng khiếp. Đó là một vòng quay vĩnh viễn, không ngừng nghỉ, sống động, dữ
dội của cảnh sắc nơi đây. Đặc biệt, lối viết ngược "sóng xô gió" đã biểu đạt sức mạnh dị thường của dòng chảy.

+ Cuối cùng, từ láy "gùn ghè" và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hoá về việc sóng gió trên mặt
ghềnh Hát Loóng lúc nào "cũng như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy" đã thể
hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm doạ, uy hiếp con người.
=> Qua một đoạn văn ngắn, tác giả không chỉ đặc tả được sự hùng vĩ, dữ dội của quãng mặt ghềnh Hát
Loóng mà còn khắc trạm được tâm tính, diện mạo của Sông Đà hiểm ác, bạo ngược.
c/ Cảnh những cái hút nước
Bất cứ ai cũng có thể hình dung ít nhiều về những chỗ xoáy nước xiết trên sông, nhưng nó không thể
hiểm độc bằng những cái hút nước Nguyễn Tuân miêu tả trên Sông Đà. Để miêu tả hình ảnh này, tác giả đã huy

AD Read without ads.

động rất nhiều kiến thức của nhiều ngành nghề khác nhau, nhìn dòng sông từ nhiều góc độ, nhiều giác quan,
nhiều vị thế trải nghiệm để tạo ra những ấn tượng về sự ghê rợn của những cái hút nước trên Sông Đà.

- Trước hết là ấn tượng về hình ảnh: "những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để
chuẩn bị làm móng cầu". Phép so sánh cùng với kiến thức ngành xây dựng ở đây đã giúp người đọc hình dung
được sự thẳng đứng, độ sâu hun hút của những cái hút nước. Tiếp theo hình ảnh "Trên mặt cái hút nước xoáy tít
đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn" đã gợi lên bao sự chết chóc. Trong văn hoá và tâm thức của
con người Việt Nam, quạ là con vật gắn với điềm gở, sự đen đủi và chết chóc. Bản thận sự xuất hiện của những
hình ảnh này đã tạo nên ấn tượng ghê rợn nhưng tác giả còn tô đậm thêm bằng việc tạo hình dáng bay lừ lừ của
cả đàn quạ trên mặt sông những chỗ có cái hút nước. Câu văn tạo cảm giác như cái chết đang bủa vây, không có
cách nào thoát được.
- Ấn tượng nhất là âm thanh của những cái hút nước: "Nước ở đây thở và kêu như của cống cái bị sặc", "những
cái giếng sâu nước ằng ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Hai chữ "ằng ặc" mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái
vật, khiến sông Đà như loài thuỷ quái bị bóp c đang quằn quại. (ằng ặc: gợi tả âm thanh của đối tượng bị thắt
lại, trào lên)

- Sau đó nhà văn đã minh chứng cho sự ghê rợn của những cái hút nước:
+ Đi qua những cái hút nước có thể liên tưởng giống như đi trên một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực,
muốn vượt qua được đoạn đường đó thì ô tô phải "sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua". Nghĩa là muốn thoát
chết khi đi qua những cái hút nước trên Sông Đà con thuyền phải đi vào gần sát mép cái hút nước nhưng phải
vút qua thật nhanh, chuyển động với tốc độ cao, gấp gắp, vượt qua khoảnh khắc sinh tử cận kề.
=> Đây thực sự là một cảm giác rất phiêu lưu, mạo hiểm.
+ Thuyền, bè bị lôi tuột vào cái hút nước thì sẽ dẫn đến hậu quả: "Thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới" . Tất cả
những hình ảnh trên đã đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà.
+ Tài hoa và độc đáo nhất trong việc miêu tả những cái hút nước chính là việc tác giả tạo ra một giả tưởng li kì,
dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận dáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay
phim táo tợn. Vì thế, những cái hút nước đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh. Nhà văn đã liên tưởng đến
cảnh một anh bạn quay phim táo bạo đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng để cả mình và máy quay rơi
vào cái hút nước của Sông Đà. Để rồi từ đáy cái hút nước nhìn ngược lên, quay được toàn cảnh cái hút nước.
Một khung cảnh thật tráng lệ, tuyệt mĩ hiện ra: một cái thành giếng "xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng
thuỷ tinh khối đúc dày" và khối thuỷ tinh ấy có thể "vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim và cả người
xem". Rõ ràng, cái đẹp mà Nguyễn Tuân hướng đến ở đây là cái đẹp mang tính chất tráng lệ, phi thường. Không
dừng lại ở đây, nhà văn lại tiếp tục liên tưởng đến cảm giác của người xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng
giếng xoáy tít đáy sẽ truyền đến cho người xem cảm giác: đang lấy gân "giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc
lá rừng " mà chiếc lá rừng ấy vừa bị vứt vào một chếc cốc pha lê khng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
=> Bằng những liên tưởng vô cùng phong phú, Nguyễn Tuân đã đưa ta đến một bữa tiệc cảm giác. Đáng chú ý
là, trong đoạn văn này, Nguyễn Tuân còn sử dụng từ ngữ rất độc đáo. Nếu trong thơ có những chữ "lấp lánh",
"kêu giòn và toả hương" (Pauxtoxky) thì trong trang văn của "ông vua tuỳ bút" cũng có những chữ như thế. Chữ
"áng" trong câu "áng thuỷ tinh đúc dày" thật giàu giá trị. Từ "áng" chỉ cái đẹp, tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao
như "áng văn chính luận mẫu mực" để nói về "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh, "áng thiên c hùng văn"
để nói về "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Ở đây, Nguyễn Tuân lại dùng từ "áng" để chỉ những cái hút
nước Sông Đà. Ông quả đúng là "người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp, cái độc đáo". Ông không chỉ thấy được nghệ
thuật ở phương diện trữ tình mà còn cảm nhận được nghệ thuật trong sự hung bạo, dữ dội của dòng chảy. Có thể
nói, Nguyễn Tuân đã mĩ hoá sự hung bạo của Sông Đà.
=> Đọc những trang tuỳ bút của Nguyễn Tuân, người đọc có cảm giác như nhìn thấy con mắt của Nguyễn Tuân
đầy cảm hứng, cảm xúc trữ tình, đắm say, ngưỡng mộ trước kì quan, tuyệt tác của tạo hoá – Sông Đà.
Sự hung bạo của Sông Đà không chỉ được thể hiện ở dòng chảy cuộn xiết, những ghềnh thác mà con
người có thể cảm nhận bằng mắt. Sự hung bạo của nó còn được thể hiện ở tâm địa, những mưu mô xảo quyệt
vừa thâm hiểm vừa độc ác.
d/ Âm thanh thác nước Sông Đà
+ Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ của con người
qua nghệ thuật nhân hóa: khi "oán trách", ... "van xin", khi "khiêu khích" "giọng gằn mà chế nhạo". Với việc
liệt kê ra một loạt từ chỉ cảm xúc ấy, Nguyên Tuân đã gợi ra vô vàn các cung bậc khác nhau, cực kì đa dạng của
âm thanh thác nước. Sông Đà thực sự đã trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, de doạ con người
ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Đặc biệt, nhà văn đã sử dụng các từ ngữ miêu tả âm thanh thác nước theo mức
độ tăng tiến cả về âm lượng và sắc thái cảm xúc.
=> Điều đó vừa gợi được sự hung hãn của dòng sông vừa gợi tả được khoảng cách ngắn dần giữa người quan
sát với thác đá Sông Đà.

AD Read without ads.

=> Mặt khác, đây cũng là cách để làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp, tò mò đầy hứng thú cho người đọc.
=> Tất cả cho thấy, mối hiểm nguy của Sông Đà không đơn giản và khó lường trước.
+ Độc đáo nhất là hình ảnh so sánh trong câu văn: "Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng".
=> Nguyễn Tuân quả là đã "chơi ngông", một cái ngông mà không ai làm được. Ông đã lấy lửa để tả nước, lấy
rừng để tả sông, lấy tiếng gầm thét của đàn trâu mộng đang trong cơn nguy khốn để tả tiếng nước thác ào ào từ
trên cao đ xuống.
=> Cách liên tưởng đó khiến người đọc như được dẫn ngược về với nạn động đất động rừng thời tiền sử. Ở đó,
những khu rừng hoang dại đang bốc cháy, những đàn trâu da của chúng đang cháy "bùng bùng" và chúng đang
"rống lên" hoảng loạn tìm hướng chạy thoát thân.
+ Liên hệ: Trong bài thơ Tây Tiến Quang Dũng đã viết : "Chiều chiều oai linh thác gầm thét ", đến Tuỳ bút
"Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân, người đọc đã thực sự được nghe, được cảm nhận âm thanh "gào
thét" của thác nước. Đó là âm thanh vang động cả núi rừng, âm thanh ghê rợn man dại, hung dữ để lại ấn tượng
sâu đậm trong lòng người.
=> Như vậy, với sự kết hợp độc, lạ về ngôn từ, Nguyễn Tuân đã tạo nên một khúc tráng ca về âm thanh. Dù
chưa hề nhìn thấy thác nhưng cũng cảm nhận được sự dữ dội của thác đá Sông Đà. Đọc những câu văn trên,
người đọc càng hiểu sâu sắc năng lực sáng tạo hình ảnh độc đáo của Nguyễn Tuâne.

e. Đá sông Đà:
+ Câu văn đầu tiên khi đến thác "tới cái thác rồi" ngắn gọn, như một tiếng reo thích thú. Phải chăng, nhà văn
muốn truyền cái cảm giác hứng thú đến người đọc khi đang dấn sâu vào cuộc thuỷ chiến trên Sông Đà. Thật
đúng với phong cách nghệ thuật của cụ Nguyễn: ưa tìm những cảm giác sắc nhọn.
+ Lực lượng đá hùng hậu: "sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá". Câu văn đã gợi mở một không gian
hùng vĩ, mênh mông của đá Sông Đà. Đá Sông Đà chẳng khác nào một đội quân hùng mạnh với đủ tường dữ,
quân tợn.
+ Diện mạo dữ tợn: "Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược", "hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó". Ba từ láy:
"ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" được nhân cách hoá để đặc tả hình dáng đá. Đó là hình dáng du côn của
thiên nhiên hoang dã.
=> Tác giả truyền cái hồn sống cho từng thớ đá, tạo nên những sắc diện người trong hình đá vô tri. Vì thế mà
hòn thì như đang “hất hàm hỏi các thuyền phải xưng tên tui trước khi giao chiến”. Hòn khác lại như thách thức
con thuyền “có giỏi thì tiến vào”.
=> Có thể nói, từ quan sát thực tế, lọc qua trí tưởng tượng phóng khoáng nhà văn đã thấy được cả tâm hồn của
đá qua hình vẻ bề ngoài.
+ Tâm địa xảo quyệt: được thể hiện qua các chi tiết:
+ + "Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông" . Nghĩa là đá giấu mình dưới mặt nước đợi thời
cơ thuận lợi. Khi con thuyền tới, chúng sẽ "nhm cả dậy vồ lấy thuyền". Như vậy, dưới ngòi bút của Nguyễn
Tuân đá ở đây không bất động mà chúng biết hành động để tấn công con người. Biện pháp nhân hoá ở đây "mai
phục" không chỉ diễn tả được cho người đọc thấy những nguy cơ bất trắc, tiềm ẩn của giới tự nhiên mà còn thể
hiện tâm địa xảo trá, nham hiểm, một thứ trí tuệ của sông nước.
++ Đá còn bày "thạch trận trên sông ", dàn sẵn trận địa đưa con thuyền vào thế hiểm nghèo để tấn công.
Nguyễn Tuân đã khắc hoạ Sông Đà không chỉ băng cái nhìn địa lí, cái nhìn điện ảnh mà bằng cả giác quan tinh
tường và sự tỉnh táo của một nhà quân sự. Vì vậy trận địa thác đá Sông Đà đã hiện lên như là một nơi mai phục
của cả một lực lượng đông đảo, hùng hậu, hiếu chiến của lũ người đá. Đá bày thạch trận dưới lòng sông để lừa
người và thuyền vào cửa tử.
Vòng 1: mở ra 5 cửa: 4 cửa tử, 1 cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn (phía trái)
Vòng 2: tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Vòng 3: ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ.
=> Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng nhiều kiến thức của: quân sự, võ thuật, thể thao, ... để miêu tả Sông Đà hung
bạo, dữ dội.
=> Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, dòng sông hiện lên như một loài thuỷ quái khng lồ, khôn ngoan, mưu trí,
nham hiểm, hung ác và có diện mạo, tâm địa như một thứ kẻ thù số một của con người. Nhà văn đã giúp dòng
sông trở nên sống động hơn, không còn là dòng chảy vô tri mà trở thành một sinh thể, một thế lực quyền năng
thách thức con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Có lẽ, bất cứ tay lái đò lão luyện nào cũng phải thốt
lên rằng: "bất đáo Đà giang phi hảo hán".
1.2.Nhận xét chung về PCNT khi miêu tả sông Đà hung bạo ( Dùng cho mọi đề khi phân tích sông Đà
hung bạo)
- Đoạn trích cho thấy NT là một ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm.

AD Read without ads.

+ Tiếp cận mọi vật ở phương diện văn hóa thẫm mĩ: Dưới ngòi bút của NT, sông Đà hiện lên như một công
trình nghệ thuật vô song của tạo hóa. Đó không còn là dòng chảy vô tri vô giác mà là một sinh thể sống động
giàu cá tính.
- Nhà văn thể hiện sự quan sát tỉ mỉ công phu, liên tưởng tưởng tượng phong phú, đồng thời vận dụng kiến thức
của nhiều ngành nghề lĩnh vực như: võ thuật, quân sự, quay phim, điện ảnh, giao thông...
- Thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh được vận dụng tối đa mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Giong văn
nhanh, dồn dập, mạnh mẽ, nhiều thanh trắc...
-Ngôn ngữ tài hoa, tinh tế, điêu luyện, phong phú. NT xứng đáng là bậc thầy ngôn ngữ T.V là người thợ kim
hoàn của chữ. Nói đến NT nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm
ngôn ngữ dân tộc. Đây cũng được coi là một trong những đóng góp lớn của nhà văn góp phần làm giàu đẹp,
phong phú ngôn ngữ TV.
Tác giả khắc họa thành công hình ảnh con sông Đà hung bạo, hiểm ác như loai thủy quái khng lồ và kẻ thù
số một của con người. Đó cũng là vẻ đẹp,sức mạnh và sự hùng vĩ của thiên nhiên TB. Thiên nhiên càng dữ dội
khắc nghiệt càng tô đậm vẻ đẹp anh hùng của người lao động. Đó cũng là cách mà NT tôn vinh ngợi ca vẻ
đẹp của con người.

- Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch ". Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của
những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ,
của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội.....Đó cũng là quan niệm thẩm mĩ độc đáo của nhà văn.
- Qua đó nhà văn cũng bộc lộ được tình yêu quê hương ĐN, niềm tự hào về vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
+Trước CM, tình yêu quê hương T quốc của NT được bộc lộ một cách thầm kín. NT thường tìm về với khu
vườn dĩ vãng “ Vang bóng 1 thời” để ngợi ca, gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, những thú vui tao
nhã của người xưa.
+Giờ đây, khi viết về con sông Đà, ánh sáng CM rọi chiếu vào tâm hồn của nhà văn, phù sa của nhân dân bồi
đắp, ông đứng giữa dòng sông Đà, đứng giữa nhân dân Tây Bắc để bộc lộ trực tiếp tình yêu nước sâu sắc .
Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất vàng mười của thiên nhiên TB. Cái Đẹp không ở đâu xa mà hiện hữu ngay ở
cuộc sống đời thường.
 Tất cả góp phần tạo nên một cái Tôi-NT với phong cách nghệ thuật độc đáo giàu cá tính.

2. SÔNG ĐÀ TRỮ TÌNH


2.1. Phân tích nội dung:
Vẻ đẹp của Đà giang được tác giả khám phá ở nhiều điểm nhìn khác nhau đem đến cho người đọc những trải
nghiệm thú vị về một dòng sông đa tính cách, đa diện mạo và khơi gợi thật nhiều cảm xúc.
a.Hình dáng
- Ở góc nhìn từ trên tàu bay, sông Đà hiện ra trước mắt du khách thật kiều diễm trong dáng hình của nó. Đó
không phải là cái dây thừng ngoằn ngoèo vắt qua các ghềnh thác như khúc đầu nguồn mà nó trở nên dịu dàng,
quyến rũ như mái tóc bồng bềnh của một thiếu nữ vùng cao: “ Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi mèo đốt nương xuân”.Câu văn dài, giàu chất thơ, hình ảnh so sánh độc đáo nhà văn gợi lên được
độ dài bất tận của dòng sông vừa gợi ra cái hồn của dòng chảy. Sông Đà đã hiện lên như một thiếu nữ
mang trong mình tất thảy những nét đẹp của người con gái TB: dịu dàng, đằm thắm, duyên dáng, đầy nữ tính
với mái tóc tuôn dài, mềm mại;vừa e lệ kín đáo ẩn hiện trong mây trời TB;vừa rực rỡ, tươi tắn, lộng lẫy như
những đóa hoa ban, hoa gạo ; nhưng vẫn thật gần gũi ấm áp trong làn khói của nguười Mèo. Cái đẹp không còn
xa lạ của thời vang bóng , giờ đây cái đẹp hiện hữu gần gũi ấm áp bịnh dị giữa chốn đời thường. Con người trở
thành chuẩn mực, thước đo của cái đẹp.Hẳn bạn đọc sẽ nhận thấy trong thơ ca c trung đại, các bậc tao nhân
thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người. Làm sao quên được hình ảnh:
“Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em sắc như là dao cau
Nụ cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”

AD Read without ads.

Ngược lại, đến với Nguyễn, con người là chuẩn mực để so sánh. Ông kéo thiên nhiên lại gần với con
người. Với Nguyễn Tuân, con người là trung tâm của vũ trụ, là một tiểu vũ trụ. Vì vậy, ông nhìn sông Đà như
áng tóc của người thiếu nữ.
b.Vẻ đẹp màu sắc sông Đà
Khám phá vẻ đẹp của Đà giang theo thời gian, NT lại phát hiện ra vẻ đẹp màu sắc biến ảo đầy thú vị của
con sông. Nếu sắc nước sông Hương biến ảo theo ngày «sáng xanh trưa vàng chiều tím» thì sông Đà biến
ảo theo mùa.Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông
Gâm, Sông Lô.Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh để làm ni bạt sắc nước sông Đà trong vắt như pha lê,
ngọc thạch mà mắt người có thể nhìn thấu đáy.Đó cũng là vẻ đẹo dịu dàng, nữ tính của con sông. Mùa thu
nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa.. .Tiếp tục là những hình ảnh liên tưởng
so sánh thú vị, NT đã cho thấy sự biến ảo độc đáo, thú vị của màu nước sống Đà. Tính khí của con sông kia
cũng thất thường lắm, dịu dàng đấy mà giận dỗi được ngay.
Sông Đà hiện lên như một cô gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa cô ấy tự thay tấm áo đã cũ màu,
khoác cho mình tấm áo mới để đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
c. Với điểm nhìn mang đầy tâm trạng của một người đi rừng lâu ngày ra chợt bắt gặp sông Đà ngay trước
mắt, NT đã nhìn sông Đà như một cố nhân.
+Trước hết đó là cái ấn tượng mạnh đến giật mình của sự lấp lánh mặt nước lòng sông. “Mặt nước loang loáng
như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy”. Hình ảnh so sánh sinh động khiến sông Đà hiện thật
tươi sáng. Với những người đi từ rừng ra, sông Đà như một thế giới khác tươi đẹp tràn đầy ánh sáng, xua tan cái
âm u, lạnh lẽo chốn thâm sâu, đem đến những cảm xúc tích cực.
+ Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường ni tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” :
“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
 Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp c thi của dòng sông Tây Bắc.

+ Hai bên bờ Bờ sông Đà, bãi sông Đà. Chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà.”
Không gian của một miền hoang dại, mang hương đồng gió nội ấy như một phần thưởng ngọt ngào cho
những tay lái kiên cường vượt thác lũ
+Với niềm yêu mến say mê vô bờ bến, NT đã gọi Đà Giang bằng cái tên trìu mến “cố nhân”. Con sông trở
thành người bạn tri âm tri kỉ gần thương, xa nhớ. Vì vậy gặp lại sông Đà vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa
dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng ”, “ nó đằm đằm, ấm ấm như gặp lại cố nhân”...
 Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên như người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi
người đi xa trở về. Kh nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác
lũ, gắt gỏng ngay đấy”.
d. Cảnh hai bên bờ sông
Từ dưới thuyền nhìn lên bờ Nguyễn Tuân đã cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ của Đà giang.
-Câu văn mở đầu toàn thanh bằng: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà" tạo âm hưởng nhẹ nhàng, thanh thoát. "Câu
văn đã đưa con thuyền, nhà văn và cả người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng
như chưa từng có dấu vết của con người " (Trịnh Thu Tuyết).
-Cảnh ven sông tĩnh lặng yên ả thanh bình Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. "Hình như từ đời Lí đời Trần đời
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Tác giả đã đẩy dòng sông về quá khứ để nó trở nên
nguyên sơ, trong trẻo, tĩnh lặng và tinh khiết. Thiên nhiên nơi đây dường như chưa từng đi thay từ thủa khai
thiên lập địa đến giờ:
-Vẻ đẹp nguyên sơ tràn trề sức sống: lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh nõn búp, một đàn hươu, đẫm sương đêm.
Tất cả đều tinh khôi, non tơ, ngọt ngào hương sữa. Dường như mọi vật đang cựa quậy, sinh sôi trong màu xanh
mỡ màng, mơn mởn. Để rồi thiên nhiên bống biến thành khu vườn c tích. Thực và mộng chảy tràn vào nhau
“những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một
đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm” .
- (l.h: Vẻ đẹp trù phú tốt tươi ấy cũng là nét đẹp đặc trưng của bao dòng sông Việt
“Sông Đuông trôi đi/ Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiên trường kì/ Xanh xanh bãi
mía bờ dâu/ Ngô khoai biêng biếc. ( Hoàng Cầm)

-Bờ sông: "Hoang dại như một bờ tiền sử", "Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Đây là
những so sánh lạ lẫm, chính xác mà cũng thật Nguyễn Tuân.
+ "Bờ tiền sử" gợi kí ức về thủa hồng hoang của nhân loại. Ở đây, nhà văn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp hoang sơ
như chưa có dấu chân của con người.

Trusted by over 1 million members

Try Scribd FREE for 30 days to access over 125


million titles without ads or interruptions!

Start Free Trial

Cancel Anytime.

+ "Tui xưa" (không phải ngày xưa, thủa xưa) đã đánh thức miền hoài niệm của mỗi cá nhân về thế giới c tích
có ông Bụt, bà tiên.
Nguyễn Tuân đã giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng nhưng khái niệm trừu tượng hơn nữa.
Điều đó khiến trí tưởng tượng của độc giả được phiêu lưu, trôi theo con thuyền êm đềm, yên ả đi vào thế giời
huyền ảo của c tích. Trong thế giới ấy, người đọc sẽ cảm nhận rõ hơn sự "lặng tờ" "hoang dại" của một dòng
sông trong trẻo, yên ả.
- Niềm mong ước của tác giả: "Thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa". Niềm
khao khát này không chỉ là ước mơ hiện đại hoá miền Tây Bắc, giống như Chế Lan Viên từng giả tưởng trong
bài thơ "Tiếng hát con tàu" – "Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?". Niềm mơ ước ấy còn là biểu tượng của
âm thanh cuộc sống hiện tại, giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là con
người trong nền văn minh hiện tại.
-Đặc biệt nhất là hình ảnh: "con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh có sương ... tiếng nói riêng của con
vật" chi tiết này đã làm tăng thêm vẻ đẹp thần tiên của Sông Đà. Cảnh vật hai bên bờ sông yên tĩnh đến khôn
cùng, yên tĩnh đến mức người va vật có thể giao cảm để lặng tìm âm thanh từ tâm hồn.
-Sông Đà không chỉ thơ mộng mà đó còn là dòng sông của sự giàu có và trù phú: "Đàn cá ...tiếng cá đập nước
sông". Nhà văn đã sử dụng bút pháp c điển: lấy động tả tĩnh. Không gian tĩnh lặng quá khiến con người có thể
nghe được cả âm thanh cá quẫy rộn ràng âm vang.
-Để gia tăng thêm chất trữ tình cho dòng sông, Nguyễn Tuân đa khéo léo trích dẫn một vài câu thơ của Tản
Đà, Nguyễn Quang Bích mà không cần thêm bất cứ lời bình luạn nào. Tác giả đã chứng minh được vẻ đẹp trữ
tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca.
-Đoạn văn khép lại bằng hình ảnh miêu tả trực tiếp dòng chảy ở hạ nguồn: "Con sông lững lờ ...". Dòng sông
chảy chậm rãi, êm đềm, duyên dáng khác hẳn với hình ảnh con sông Đà cuồn cuộn ghềnh thác ở thượng nguồn.
=> Những câu văn của Nguyễn Tuân như những giai điệu êm ái, trữ tình, vừa làm sống dậy những vẻ đẹp của
đời sống hiện tại, vừa đưa người đọc trở về với những miền kí ức xa xăm của những thời đã qua nay chỉ còn
“vang bóng”.
2.2.Nhận xét chung về PCNT khi miêu tả sông Đà trữ tình( Dùng cho mọi đề khi phân tích sông Đà trữ
tình)
- Đoạn trích cho thấy NT là một ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm.
+ Tiếp cận mọi vật ở phương diện văn hóa thẫm mĩ: Dưới ngòi bút của NT, sông Đà hiện lên như một công
trình nghệ thuật vô song của tạo hóa. Đó không còn là dòng chảy vô tri vô giác mà là một sinh thể sống động
giàu cá tính
- Nhà văn thể hiện sự quan sát tỉ mỉ công phu, liên tưởng tưởng tượng phong phú, đồng thời vận dụng kiến thức
của nhiều ngành nghề lĩnh vực như: Du lịch, địa lí, văn học...
- Thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh được vận dụng tối đa mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Giong văn nhẹ
nhàng uyển chuyển giàu chất thơ, nhiều thanh B...
-Ngôn ngữ tài hoa, tinh tế, điêu luyện, phong phú. NT xứng đáng là bậc thầy ngôn ngữ T.V là người thợ kim
hoàn của chữ. Nói đến NT nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm
ngôn ngữ dân tộc. Đây cũng được coi là một trong những đóng góp lớn của nhà văn góp phần làm giàu đẹp,
phong phú ngôn ngữ TV.
Tác giả khắc họa thành công hình ảnh con sông Đà thơ mộng, hiền hòa,trù phú, tràn đầy sức sống .

- Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch ". Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của
những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ,
của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội.....Đó cũng là quan niệm thẩm mĩ độc đáo của nhà văn.
- Qua đó nhà văn cũng bộc lộ được tình yêu quê hương ĐN, niềm tự hào về vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc.
+Trước CM, tình yêu quê hương T quốc của NT được bộc lộ một cách thầm kín. NT thường tìm về với khu
vườn dĩ vãng “ Vang bóng 1 thời” để ngợi ca, gìn giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, những thú vui tao
nhã của người xưa.
+Giờ đây, khi viết về con sông Đà, ánh sáng CM rọi chiếu vào tâm hồn của nhà văn, phù sa của nhân dân bồi
đắp, ông đứng giữa dòng sông Đà, đứng giữa nhân dân Tây Bắc để bộc lộ trực tiếp tình yêu nước sâu sắc .
Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất vàng mười của thiên nhiên TB.
 Tất cả góp phần tạo nên một cái Tôi-NT với phong cách nghệ thuật độc đáo giàu cá tính

AD Read without ads.

KB : “Người lái đò sông Đà” là một trong những bài kí xuất sắc của nền VHVN hiện đại. Tác phẩm là kết tinh
của một ngòi bút uyên bác lịch lãm, một tâm hồn tha thiết nặng lòng với quê hương đất nước. Đọc NLĐSĐ ta
thêm yêu con người VN dũng cảm, cần cù mà tài hoa; ta tự hào về núi sông TQ nguy nga, tráng lệ.

III. LUYỆN ĐỀ VỀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


Lưu ý: vẻ đẹp của ông lái đò chủ yếu thể hiện trong cuộc vượt thác.
( Ngoài ra chú ý đến vẻ đẹp đời thường)

 Tên tuổi lai lịch ngoại hình


 Phẩm chất trong cuộc vượt thác
- Giàu kinh nghiệm
- Trí dũng song toàn: thông minh, mưu trí. Kiêm cường dũng cảm
- Nghệ sĩ tài hoa trong nghề chèo đò vượt thác
 Phẩm chất trong cuộc sống đời thương: ung dungg, giản dị, khiêm tốn, cốt cách nghệ sĩ
 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Ý nghĩa hình tượng
Đề bài
…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ
người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa
vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như
cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của
nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của
người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải
phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông
đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có
bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để
đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi
đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh,
mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định
níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa
thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đNgường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng
reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng
chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy.
Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba
này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút
qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác.Dòng sông vặn mình vào
một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò
đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá
hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm

AD Read without ads.

một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là
ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó
cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.

(TríchNgười lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó , nhận xét cái nhìn mang tính
phát hiện về người lao động của nhà văn Nguyễn Tuân.
Gợi ý:
1.MB
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa. Toàn bộ cuộc đời cũng như các trang viết của ông đã tạo nên một
"huyền sử" - huyền sử của một người ưa lối chơi "độc tấu". "Người lái đò sông Đà" được coi là một trong
những tác phẩm xuất sắc của nhà văn. Dưới ngòi bút tài hoa của NT, người lái đò hiện lên như một một
người anh hùng trí dũng song toàn, tài hoa nghệ sĩ. Vẻ đẹp ấy được thể hiện rõ nét qua đoạn văn..... +
PVKT, VĐNL
2. TB
* Y1: Gioi thiệu chung về tác giả tác phẩm ( ngắn gọn)
* Y2: Gioi thiệu chung về nhân vật ông lái đò: tên tuổi, lai lịch, ngoại hình ( 1 đoạn văn)
-Nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình mà chỉ gọi là ông lái đò. Đó cũng là đồ nghệ thuật của NT. Ông
lái đò cũng như biết bao người lao động bình dị vẫn đang âm thầm, lặng lẽ trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn góp
phần bé nhỏ cho công cuộc dựng xây ĐN.
- Ông lái đò đã ngoài 70 tui, sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà Phần lớn cuộc đời ông là làm nghề lái đò và
gắn bó máu thịt với con S.Đ. Bao nhiêu năm tháng làm nghề dường như những thử thách gian nan, đều
hẳn sâu trên dáng hình cơ thể ông lão để rồi cái dấu ấn nghề nghiệp thể hiện ngay ở ngoại hình hết sức
đặc biệt của ông. “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp
lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông”. Trên người ông
chằng chịt những vết seo mà NT ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng . Bước vào tui 70 đầu tóc bạc trắng
nhưng thân hình ông vẫn đẹp như 1 pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh nên chất sừng chất mun,
cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn, cường tráng của một người lao động
trên sông nước.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà NT đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh
nhân vật ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống
với sông nước. Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người
mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó.
*Y3: Vẻ đẹp tài năng, phẩm chất ( Phân tích sâu dẫn chứng trong đoạn văn đã cho)
-Dẫn: Để làm ni bật tài năng, phẩm chất của người lái đò Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình trong
cuộc chiến gay go quyết liệt với con sông Đà hung bạo. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, S.Đ hiện lên dữ
dội như loài thủy quái khng lồ, còn ông lái đò chỉ đơn độc trên chiếc thuyền mỏng manh. Thiên nhiên càng
khắc nghiệt càng tô đậm đc tài năng, khí phách của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Đó
cũng là dụng nghệ thuật của nhà văn. Người ta gọi đó là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng.
Trong cuộc chiến với thiên nhiên sông nước Đà giang, ông lái đò hiện lên không chỉ là một tay lái đò
từng trải dày dạn kinh nghiệm ; một anh hùng trên sông nước trí dũng song toàn mà còn là một tay lái
ra hoa, một người nghệ sĩ trong nghề chèo đò vượt thác. ( 3 chính)
- PC1:Một người lái đò từng trải, yêu nghề, giàu kinh nghiệm
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành
thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một
linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi,
ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần...Sự từng trải của người lái đò
còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mươi ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng
đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở . “. Ông lái đã nắm chắc binh
pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này “. Hơn
thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả

AD Read without ads.

-20% -40%

-38%

MỚI MỚI

-42% -15%

Shopee Sale Thời Trang Nữ


Shopee

những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn ni
tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li,
cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là
cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình với người lái đò.

- PC2:Một anh hùng trên sông nước trí dũng song toàn: Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai
chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa .
Trùng vi thạch trâ ̣n thứ nhất :
+Đá sông Đà: Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những câu văn tả đá được
nhân hóa như một đội quân: "đá tảng, đá hòn".., "đá tiền vệ" đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và
một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá:
"mai phục", "nhổm cả dậy", "đứng ngồi nằm tùy theo sở thích". "ăn chết", 'canh cửa", "hất hàm"... Cộng hưởng với
những động từ là những tính từ làm ni bật tính hung bạo: "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó"...
Tất cả làm ni bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân
sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp.
+ Nước thác: "phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá", tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm
không khí chiến đấu ác liệt.
+ Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đá trái, thúc gối... Mặt nước thì hò la
vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ
liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và hông
thuyền.
Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ phong phú sinh động
đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự
cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà .
+ Ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt
qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.
Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của
người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã hiện
lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Trùng vi thạch trận thứ 2:
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái
đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đ á. Biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm
nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai
không phải chiến đấu với đ á, sóng như cửa thứ n hất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà .
Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà là
cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sông Đà như một
con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải
cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để
có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng
nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở
cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế,
một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào
cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn
lên, chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe bên tai
tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất ni bật của ông lái đò lại anh
hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.

-PC3:Tay lái ra hoa, nghệ sĩ tài hoa trong nghề chèo đò:
+Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm
đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn

AD Read without ads.

đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba
với nghệ thuật miêu tả sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ
trong nghề lái đò của mình.
+Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn
công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút,
vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nướ c, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một mất một còn nhưng
Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không
bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con
thuyền vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một tay lái nở hoa.
Thế là kết thúc.
 Nhận xét: Qua cuộc vượt thác ông lái đò hiện lên oai phong lẫm liệt như 1 vị danh tướng trí dung song
toàn, quyết chiến , quyết thắng. Ông thực sự là 1 tay lái lão luyện, 1 tay lái ra hoa, 1 nghệ sĩ tài hoa trong nghề
chèo đò vượt thác. Dẫu cuộc chiến với thiên nhiên là không cân sức nhưng bằng tài trí của mình ông đã chinh
phục và chiến thắng thiên nhiên trở thành người anh hùng lao động trong công cuộc xây dựng XH mới.

-PC4: Vẻ đẹp trong cuộc sống đời thường:


« Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá,
nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh .... Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc
chiến thắng vừa qua...Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm
không mấy ai tự tán dương về công sức của mình, cũng chẳng hề hồi hộp lo lắng khi nghĩ về trận chiến vừa qua.
Đó là vẻ đẹp đời thường giản dị, khiêm tốn cùng phong thái ung dung tự tại của 1 nghệ sĩ.

Liên hệ: Đọc văn Nt viết về người lái đò chiến đấu với sông đà gợi cho ta liên tưởng tới hình tượng uy lít
xơ trong sử thi Ô đi xê của HI lạp. Tuy nhiên nếu cuộc hànhtrình Uy Lít xơ là để chinh phục thiên nhiên
biển cả của một a hùng trí tuệ thì ông lái đò của NT hiện lên rất đỗi bình dị và đời thường. Cái đẹp cái tài
không chỉ ở những người nổi tiếng, người nghệ sĩ mà còn ở những người bình thường trong cuộc sống lao
động mưu sinh thầm lặng

* Y4: Nghệ thuật


+ Bút pháp lãng mạn
+ Đặt nhân vật trong tình huống thử thách
+ Thủ pháp tương phản được NT khai thác một cách triệt để: một bên là dòng sông bày binh bố trận trùng trùng
lớp lớp, một bên là ông lái đò bé nhỏ yếu thế
+ Thủ pháp đòn bẩy lấy chất vàng của thiên nhiên làm ni bật chất vàng mười của con người;na
+ Ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, tài hoa, tinh tế, điêu luyện
+ Kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn, sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật đắc sắc: so sánh, nhân hóa, liên tưởng
độc đáo, thú vị..
+ Vận dụng tri thức của nhiều ngành nghề như võ thuật, quân sự..., nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc chiến hào
hùng và khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật.
* Y5: ( VẤN ĐỀ NL T2) Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về người LAO ĐỘNG của nhà văn
Nguyễn Tuân
- Luôn miêu tả, khám phá con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác
của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề
chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và
siêu phàm.

+ Trước cách mạng NT đi tìm chất tài hoa nghệ sĩ, những tính cách phi thường ở tầng lớp các nhà Nho trong
khu vườn vang bóng.
+Gio đây ông đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ngay ở những người lao động bình dị, trong những công việc bình
dị đời thường.

AD Read without ads.

- Nguyễn Tuân khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống
ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất nước và chinh phục thiên nhiên.
 Ông lái đò tiêu biểu là người anh hùng lao động mới, cũng là nghệ sĩ tài hoa mà NT gọi đó là “chất vàng
mười đã qua thử lửa”.
- Cũng từ đó, NT bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào về con người lao động Việt Nam
Tac phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật NT: TÀI HOA, UYÊN BAC, LỊCH LÃM.
KB
NLĐSĐ là kết tinh của một ngòi bút uyên bác lịch lãm, một tâm hồn tha thiết nặng lòng với quê hương đất
nước. Đọc NLĐSĐ ta thêm yêu con người VN dũng cảm, cần cù mà tài hoa; ta tự hào về núi sông TQ nguy
nga, tráng lệ. Qua hình tượng ông lái đò ta càng thêm trân quý sự cống hiến, hi sinh thầm lặng của những người
lao động bình dị:
“ Họ đã sống và chết
Gian dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt, đặt tên
Nhưng họ đã làm ra ĐN”
MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO KHÁC
Đề 1
Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã có những lần miêu tả dòng Sông Đà:
Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa.
Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ
lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của
con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm
xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.
Thuyền tôi trôi trên “ Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình
nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để
lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và
con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ
điển trên dòng trên.
(Nguyễn Tuân - Người lái đò Sông Đà, Ngữ văn 12, Tập 1)
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp dòng Sông Đà trong đoạn văn trên, từ đó nhận xét về cái tôi tài hoa,
uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

Nội dung: đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Đà:

AD Read without ads.

+Thác ghềnh lúc này chỉ còn là nỗi nhớ. Thuyền tôi trôi...câu văn mở đầu toàn thanh bằng gợi cảm giác lâng
lâng, mơ màng; phép điệp “thuyền tôi trôi....lặng tờ, thuyền tôi trôi...không bóng người, thuyền tôi trôi....lững
lờ” nhắc lại trùng điệp như một điểm nhấn của cảm xúc, cảm giác làm cho đoạn văn như một dòng cảm giác,
cảm xúc cứ tràn đi, lan toả, bâng khuâng.
+ Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, mà nó trôi ngược về quá khứ. Bởi người ngắm nó - người
đang lênh đênh giữa dòng sông, đang chìm trong hoài niệm, mạch cảm xúc bơi ngược về với lịch sử dân tộc
“Hình như từ đời Lí, đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi ”.
+ Thiên nhiên hài hòa mang vẻ đẹp trong trẻo, nguyên sơ, kì thú được cảm nhận bằng hệ thống hình ảnh phù
hợp, hô ứng với nhau để tạo cảm giác, ấn tượng về vẻ hoang sơ và tĩnh lặng của không gian: đó là những hình
ảnh non tơ nhất, tươi tắn và tinh khiết nhất như lá ngô non đầu mùa, búp cỏ gianh đồi núi, vạt cỏ gianh với
những nõn búp đẫm sương đêm, con hươu thơ ngộ, đàn cá dầm xanh... Trong không gian ấy, ngay cả một âm
thanh rất hiện đại là tiếng còi tàu cùng được c tích hoá, huyền thoại hoá: tiếng còi sương. Trong một không
gian như thế, sự
tương giao giữa lòng người và tạo vật là một tất yếu nên một người khách sông Đà đã nghe được câu hỏi của
con hươu thơ ngộ về sự tồn tại của một tiếng còi sương.....
+ Nguyễn Tuân đã trải lòng mình ra với dòng sông, hoá thân vào nó để lắng nghe và xúc động: “Dòng sông
quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông
như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở
chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên” . Qua mỗi dặm đường
đất nước, nhà văn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ. Yêu sông Đà cũng
chính là yêu T quốc và yêu con người Việt Nam.
Nhận xét cái tôi tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân:
+ Tài hoa: Ở lối viết uyển chuyển, linh hoạt; cách so sánh, liên tưởng nhiều tầng bậc, bất ngờ, độc đáo. Ông
nhìn sự vật bằng con mắt của người họa sĩ, dưới góc độ thẩm mĩ; tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê
của nhà văn trước vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên đất nước.
+ Uyên bác: thể hiện ở cách nhìn và khám phá hiện thực theo chiều sâu, ở sự vận dụng kiến thức
sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ nghĩa. Hình
ảnh dòng sông Đà được nhà văn miêu tả, tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc nhìn, với những
chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy khả năng
quan sát và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn Tuân

Share this document


    
You might also like

Document 7 pages

NLĐSĐ
Như Nguyễn
100% (2)

Document 20 pages

ghi-người-lái-đò-sông-
đà-22-1
Huong Giang Nguyen Dang
No ratings yet

Document 14 pages

ghi người lái đò sông đà


22.docx
Đoan
No ratings yet

Magazines Podcasts

Sheet music

Document 19 pages

GÃY LƯNG CÙNG VĂN 12


HK1_
Rachel - Mai Trang Thanh -…
FSchool CTyet
No ratings

Document 32 pages

Phân Tích Hình Tượng


Con Sông Đà
laven Nguyen
No ratings yet

Document 18 pages

Người lái đò sông đà


Nguyen Hong
No ratings yet

From Everand

Nhung Ghi Chep Vun


Quoc-Bao
No ratings yet

Document 13 pages

SÔNG-ĐÀ
Nguyễn Trần Bảo Hân
100% (1)

Document 6 pages

sông đà hung bạo


dung92400
No ratings yet

Document 11 pages

NGƯỜI-LÁI-ĐÒ-SÔNG-ĐÀ-
NT-2019
ngan nguyen pham thanh
No ratings yet

Document 4 pages

4
Tú Quyênn
No ratings yet

Document 14 pages

8. Người lái đò Sông Đà


Heo Đẹp Zai
No ratings yet

Show more

About Support

About Scribd Help / FAQ

Everand: Ebooks & Accessibility


Audiobooks
Purchase help
Press
AdChoices
Join our team!

Contact us Social
Invite friends Instagram
Scribd for enterprise Twitter

Facebook
Legal
Pinterest
Terms

Privacy

Copyright

Cookie Preferences

Do not sell or share my


personal information

Get our free apps

Documents

Language: English

Copyright © 2023 Scribd Inc.


Download

-5% -5% -5%

You might also like