Professional Documents
Culture Documents
BT:
Dạng 1: Cảm nhận hình tượng Sông Đà từ đó anh /chị có nhận xét gì về
(phong cách nghệ thuật) con người nhà văn NT ( Một đoạn văn, 2 đoạn văn,
kết hợp đoạn văn miêu tả Sông Đà hung bạo hùng vĩ dữ dội và Sông Đà thơ
mộng trữ tình)
Hình tượng Sông Đà kết tinh những nét đặc sắc trong văn phong của NT: tài hoa uyên
bác, bậc thầy ngôn ngữ...từ đó ta thấy được con người nhà văn NT.
Dạng 2: Cảm nhận về hình tượng Người lái đò Sông Đà, từ đó anh/chị có
nhận xét gì về phong cách nghệ thuật của NT.
Nhận xét về phong cách: khám phá sự vật hiện tượng con người dưới góc độ văn hóa
thẩm mĩ, ...; từ đó ta thấy được con người nhà văn NT.
Dạng 3: Cái tôi – xét đến cùng là sự thể hiện con người nhà văn trong tác phẩm
của nhà văn NT qua tùy bút NLĐSĐ.
MỞ BÀI:
Có ai đó từng nhận xét về Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân là nhà văn cả đời đi tìm cái thực
và cái đẹp”. Đúng vậy! Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn thiết tha với những
giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc, một nhà văn cực kì tài hoa, uyên bác. Người lái đò
Sông Đà là tuỳ bút xuất sắc của nhà văn Nguyễn Tuân được in trong tập tuỳ bút “Sông
Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và 1 bài thơ ở dạng phác thảo. Đó là kết quả của chuyến
đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi
thực tế năm 1958. Mục đích của chuyến đi này là tìm kiếm" chất vàng mười" trong tâm
hồn những người lao động miến Tây Bắc đã qua thử lửa chiến tranh.
II, Người lái đò Sông Đà.
2, Phân tích:
Lời đề từ:
Lời đề từ là phần nằm ngoài văn bản nhưng là chìa khóa để mở ra thế giới nghệ
thuật có trong tác phẩm.
+ “ Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” . Câu thơ hướng tới khẳng định vẻ
đẹp của những con người lao động trên các dòng sông. Qua đó người đọc còn
cảm nhận được cảm xúc mãnh liệt của nhà văn NT khi đến với thiên nhiên và
con người Tây Bắc. => Con người
+ “ Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” Mượn lời của tống đốc
Đà Giang, Nguyễn Quang Bích, NT đã khẳng định vẻ đẹp độc đáo khác thường
của con sông Đà. Phải chăng chính sự đặc biệt ấy đã hấp dẫn, mê giục NT xê
dịch lên miền Tây Bắc của Tổ Quốc ca ngợi vẻ đẹp của con sông. => vẻ đẹp
con sông.
Như vậy với lời đề từ thứ 2 NT đã ca ngợi vẻ đẹp của SĐ- cũng chính là biểu
tượng của thiên nhiên Tây Bắc.
Cảnh sắc hai bên bờ sông: Nếu ở hình dáng và màu sắc NT chủ yếu tả khái quát thì
cảnh sắc hai bên bờ Sông Đà lại được NT miêu tả khá tỉ mỉ chi tiết. Có thể nói đây là
một trong những đoạn văn hay nhất của thiên tùy bút này khi NT miêu tả vẻ đẹp thiên
nhiên – in đậm dấu ấn pcnt của NT không chỉ ở những liên tưởng phong phú mà còn
là những cảm nhận vô cùng tinh tế.
Cảnh sắc hai bên bờ sông được bắt đầu bằng hình ảnh “thuyền tôi trôi ...thuyền
tôi trôi...”Một câu văn êm ru trong thanh bằng như đưa con thuyền, nhà văn, và
người đọc đến với một cõi mơ êm đềm yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như
chưa từng có dấu vết của con người. Mở ra trước mắt người đọc là hình ảnh
“cảnh ven sông lặng tờ như từ thời Trần, thời Lê Sông Đà cũng lặng tờ đến thế
mà thôi” – hình ảnh so sánh khiến cho sự êm đềm tĩnh lặng của dòng sông dày
thêm ko chỉ vì cái yên ả trong ko gian mà còn vì cái thăm thẳm xa xăm của
thời gian. Và đặc biệt tính chất ước lệ của cụm từ “Từ thời Trần, thời Lê Sông
Đà cũng lặng tờ đến thế mà thôi” đã đưa đến cho người đọc cảm giác cuộc
sống như ngưng lại nơi đây trong ko gian nguyên sơ, thuần khiết, an lành...một
ko gian nằm ngoài sự trôi chảy vận động của cuộc sống văn minh. Chưa hết
trong cảm nhận của NT “ Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên
như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” cách so sánh của NT ko hề làm rõ, làm hiện hữu
hình ảnh của bờ sông, nhưng lại gợi tả ko gian vắng lặng đến nao lòng, hồn
nhiên đến ngây thơ trong trẻo
.
Qua sự quan sát của NT cảnh vật hai bên bờ sông thơ mộng đầy sức sống đó
là “mấy nương ngô đang nhú ra những lá ngô non đầu mùa” hay “cỏ gianh đồi
núi đang ra những nõn búp” – những hình ảnh đầy sức gợi của sự sống mới bắt
đầu với màu xanh bạt ngàn – màu xanh non mỡ màng, đầy sức sống.
Miêu tả cảnh sắc hai bên bờ sông NT ko chỉ gợi ra những hình ảnh thị giác
mà còn bằng cảm giác và thính giác.Vẻ đẹp nên thơ trữ tình của Sông Đà còn
có trong “Đàn cá dầm xanh, cá anh vũ quẫy vọt tung lên khỏi mặt nước rơi
xuống trắng như bạc rơi thoi”. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã giúp cho NT ko
chỉ gợi ra được một ko gian huyền diệu mơ hồ, có lẽ ko có sự miêu tả trực tiếp
nào lại khiến sự lặng tờ của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế.
Trong khung cảnh yên bình NT thèm một âm thanh rộn rã “ tiếng còi xúp lê
của xe lửa...” cũng là thèm về một ánh sáng của thời đại chiếu rọi đôi bờ Đà
giang, đưa ông cùng với người đọc bay lên với “ Ngọn gió ngày mai thổi tới”.
Để rồi đắm mình trong vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông, hòa mình vào
vẻ đẹp của dòng sông mà NT như nhận thấy “Dòng sông quãng này như nhớ
thương những đá thác xa xôi...”Dù về đến quãng trung lưu, hạ lưu nhưng sự dữ
dội, hung bạo của Sông Đà ở thượng nguồn vẫn thấp thoáng ẩn hiện đâu đó
trong cái lững lờ dòng nước êm trôi đã bỏ lại trên thượng nguồn. Dòng sông
như đang lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi. Quả thực nếu cái dữ dội,
hùng vĩ của Sông Đà đã được đẩy lên đến mức tột cùng trở thành ác quỉ - kẻ
thù số 1 của con người Tây Bắc thì vẻ thơ mộng trữ tình của con sông cũng
được đẩy lên mức tuyệt đỉnh trở thành một nàng thơ với vẻ đẹp kiều diễm lộng
lẫy, để rồi từ ấy đến nay có biết bao người làm thơ, vẽ, kể chuyện về dòng sông
thì có lẽ vẫn chưa có ai vượt hơn được NT trong việc “biến vùng sông nước ấy
thành một gợi cảm mênh mang”. (Đỗ Kim Hồi)
2, Hình tượng Người lái đò Sông Đà:
Lai lịch, hoàn cảnh xuất thân của người lái đò
Đặc điểm ngoại hình
Người lao động bình thường trên sông nước
Người nghệ sĩ trên sông nước – trong nghệ thuật chèo đò vượt thác.
Song có lẽ đẹp nhất chính là hình tượng “ người lái đò nghệ sĩ” trong tác
phẩm “Người lái đò Sông Đà”. Ông lái đò đã trở thành biểu tượng đẹp cho
người lao động trong thời kì mới khi Đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
a, Lai lịch, nguồn gốc xuất thân:
Xuất hiện trong tác phẩm này NLĐSĐ được nhà văn NT gọi bằng cái tên phiếm định
như: Người lái đò, ông đò, người lái đò Sông Đà...
Mặt khác khi gọi nhân vật của mình bằng cái tên phiếm định sức khái quát của hình
tượng rộng hơn vượt ra khỏi khuôn khổ của một con người cá nhân cụ thể.
b, Người lao động bình thường:
Mà trước hết đó là người lao động bình thường trên sông nước.
Ông đã ngoài 70 tuổi và có mấy chục năm làm nghề chở đò dọc ( Chở đò
ngang là chở từ bờ bên này sang bờ bên kia => quãng sông ngắn; chở đò dọc đi
từ đầu sông cho đến cuối sông => quãng đường dài quanh co, lắm thác nhiều
ghềnh ( chỉ riêng đoạn từ Lai Châu đến chợ Bờ có 50/73 con thác dọc dải Sông
Đà) => Công việc đầy nguy hiểm, vất vả) trên Sông Đà.
Hàng ngày chở sản vật từ miền núi về xuôi và ngược lại chở hàng hóa từ miền xuôi
lên miền ngược nhằm mục đích mưu sinh.
Vì thế mà công việc dể lại dấu ấn ở ngoại hình người lái đò Sông Đà. Bằng hệ thống
ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, đầy chất tạo hình, bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm,
NT đã làm sống dậy trước mắt người đọc hình ảnh ông lái đò có ngoại hình đặc biệt
ấn tượng.
+ Người ta nói rằng làm nghề lái đò trên sông hiểm ác lắm thác nhiều ghềnh
này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của NT đã cải chính một cách hùng hồn
cái điều ấy bằng bằng hình ảnh một con người đã gần 70 tuổi ( thất thập cổ
lai hi –xưa nay hiếm) , “cái đầu bạc nhưng còn quắc thước lắm”, “ đặt trên
một thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng chất mun” ông “giơ đôi tay
còn trẻ tráng quá” làm cho “nhiều người lầm tưởng là mình đang đứng trước
một chàng trai”.
“Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như
kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng nói của ông ào ào như tiếng nước
trước mặt ghềnh sông” “Nhỡn giới cao vời vợi như trông về một cái bến nước
xa nào đó”. Đặc biệt những năm tháng làm nghề chở đò đã để lại trên ngực ông
một vết chai bằng củ nâu mà NT gọi là “thứ huân chương siêu hạng” giành cho
người lao động.
Những dòng này được NT viết ra có lẽ ko chỉ để giới thiệu ngoại hình ở một con
người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quí nghề ở chính người đó vì NT là nhà văn
luôn nén câu chữ trong những điều muốn nói, hàm lượng thông tin ở đó ko bao giờ
chỉ một tầng hiển ngôn.
Hình ảnh NLĐSĐ giúp ta thấy được sự chuyển biến tích cực trong pcnt của NT sau
CMT8. Nếu trước đó nhà văn đi tìm cái đẹp ở những con người đặc tuyển, đặc chủng,
ở những con người của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng thì bay giờ NT đi tìm
cái đẹp ở trong những con người lao động bình thường ngay trong hiện tại.Giọng văn
đầy hồn hậu, tin yêu.
4, Cái “tôi” của NT qua tùy bút NLĐSĐ:
Khái niệm về cái tôi: Khi nói đến cái tôi trong sáng tác của một người nghệ sĩ là nói
đến những đặc điểm riêng của nhà văn đó trong sáng tác. Tùy bút là thể văn xuôi
tương đối tự do phóng túng, cùng với sự xuất hiện của sự vật hiện tượng được nhà văn
tái hiện trong tác phẩm còn là hình ảnh cái tôi của chính nhà văn đó.
Qua tùy bút NLĐSĐ người đọc nhận ra cái tôi của nhà văn NT:
+ Cái tôi thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở qua sự miêu tả vẻ đẹp của
Sông Đà ( hung bạo hùng vĩ dữ dội, thơ mộng trữ tình) => biểu hiện của lòng
yêu nước và tinh thần dân tộc ở con người nhà văn NT.
+ Trân trọng con người nói chung và con người lao động trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng.
+ Con người trên trang văn của NT mang vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ: NLĐSĐ: lao
động bình thường, nghệ sĩ trong nghệ thuật chèo đò vượt thác.
+ Cái tôi tài hoa uyên bác: Khám sự vật hiện tượng con người dưới góc độ văn
hóa thẩm mĩ; có sự am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực khác nhau cả trong và
ngoài nghệ thuật, đặc biệt Nguyễn Tuân còn có khả năng vận dụng những kiến
thức đó trong sáng tác văn chương.