You are on page 1of 14

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN

BT:
Dạng 1: Cảm nhận hình tượng Sông Đà từ đó anh /chị có nhận xét gì về
(phong cách nghệ thuật) con người nhà văn NT ( Một đoạn văn, 2 đoạn văn,
kết hợp đoạn văn miêu tả Sông Đà hung bạo hùng vĩ dữ dội và Sông Đà thơ
mộng trữ tình)
Hình tượng Sông Đà kết tinh những nét đặc sắc trong văn phong của NT: tài hoa uyên
bác, bậc thầy ngôn ngữ...từ đó ta thấy được con người nhà văn NT.
Dạng 2: Cảm nhận về hình tượng Người lái đò Sông Đà, từ đó anh/chị có
nhận xét gì về phong cách nghệ thuật của NT.
Nhận xét về phong cách: khám phá sự vật hiện tượng con người dưới góc độ văn hóa
thẩm mĩ, ...; từ đó ta thấy được con người nhà văn NT.
Dạng 3: Cái tôi – xét đến cùng là sự thể hiện con người nhà văn trong tác phẩm
của nhà văn NT qua tùy bút NLĐSĐ.
MỞ BÀI:
Có ai đó từng nhận xét về Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân là nhà văn cả đời đi tìm cái thực
và cái đẹp”. Đúng vậy! Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn thiết tha với những
giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc, một nhà văn cực kì tài hoa, uyên bác. Người lái đò
Sông Đà là tuỳ bút xuất sắc của nhà văn Nguyễn Tuân được in trong tập tuỳ bút “Sông
Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và 1 bài thơ ở dạng phác thảo. Đó là kết quả của chuyến
đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi
thực tế năm 1958. Mục đích của chuyến đi này là tìm kiếm" chất vàng mười" trong tâm
hồn những người lao động miến Tây Bắc đã qua thử lửa chiến tranh.
II, Người lái đò Sông Đà.
2, Phân tích:
Lời đề từ:
Lời đề từ là phần nằm ngoài văn bản nhưng là chìa khóa để mở ra thế giới nghệ
thuật có trong tác phẩm.
+ “ Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” . Câu thơ hướng tới khẳng định vẻ
đẹp của những con người lao động trên các dòng sông. Qua đó người đọc còn
cảm nhận được cảm xúc mãnh liệt của nhà văn NT khi đến với thiên nhiên và
con người Tây Bắc. => Con người
+ “ Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” Mượn lời của tống đốc
Đà Giang, Nguyễn Quang Bích, NT đã khẳng định vẻ đẹp độc đáo khác thường
của con sông Đà. Phải chăng chính sự đặc biệt ấy đã hấp dẫn, mê giục NT xê
dịch lên miền Tây Bắc của Tổ Quốc ca ngợi vẻ đẹp của con sông. => vẻ đẹp
con sông.
Như vậy với lời đề từ thứ 2 NT đã ca ngợi vẻ đẹp của SĐ- cũng chính là biểu
tượng của thiên nhiên Tây Bắc.

2.2. Hình tượng Sông Đà:


a, Ngọn nguồn lai lịch của Sông Đà:
Sông Đà với dòng chảy độc đáo, đặc biệt khác thường của mình, dưới ngòi bút của
NT ko còn là sự vật vô tri giác mà là một sinh thể có linh hồn tính cách – dòng sông
vừa hung bạo, hùng vĩ dữ dội vừa rất đỗi thơ mộng trữ tình. Sông Đà được nhà văn
viết hoa trong toàn bộ tác phẩm là vì lẽ đó.
Khái niệm hình tượng: Hình tượng chính là hình ảnh về sự vật hiện tượng
được cảm nhận bằng trí tưởng tượng của nhà văn, do đó hình tượng nghệ thuật
ko chỉ là hình ảnh khách quan về sự vật hiện tượng mà ít nhiều đã thể hiện thái
độ, cách nhìn nhận đánh giá cũng như cảm nhận của nhà văn về sự vật hiện
tượng. Hình tượng trong tác phẩm vô cùng phong phú, tuy nhiên hình tượng
nghệ thuật có sức hấp dẫn với người đọc hay ko lại phụ thuộc vào tài năng
nghệ thuật của nhà văn
. Dưới ngòi bút của nhà văn Sông Đà chính là một hình tượng nghệ thuật
đẹp, nó ko còn là vật thể vô tri giác mà là một sinh thể có những nét tính
cách trái ngược nhau.
a, Sông Đà hung bạo hùng vĩ dữ dội: ( Khám phá ở nhiều phương diện, nhiều
yếu tố khác nhau: Đá bờ sông, quãng ghềnh Hát Loong, hút nước ở Tà Mường
Vát, Tiếng nước thác, Thạch trận trên sông)
Bằng sự quan sát tỉ mỉ, bằng sự hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực khác
nhau, Nguyễn Tuân đã huy động chữ nghĩa bắt Sông Đà kẻ thù số một của
người dân Tây Bắc phải hiện hình trên trang viết
Mà trước hết sự hùng vĩ dữ dội của Sông Đà là ở quãng lòng sông hẹp: Cái hẹp của
Sông Đà được miêu tả bằng nhiều cách với những liên tưởng, tưởng tượng vô cùng
phong phú, độc đáo.
+ Đó là quãng mà “đá dựng thành vách” – đá dựng thành những vách thẳng
đứng như bức tường. Đó là quãng mà nước sông chảy rất xiết. Không những
dựng thành vách mà đá còn chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đây là
hình ảnh so sánh vô cùng độc đáo mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đã lấy bộ phận hẹp nhất trên cơ thể con người để
gợi tả cái hẹp của Sông Đà. Chính điều đó đã tăng sức gợi hình, gợi cảm cho
con sông đồng thời dòng sông vì thế mà cũng trở nên sinh động hơn.
+ Chưa hết những quãng sông ấy còn hẹp đến nỗi có lần con nai,con hổ vọt từ
bờ bên này sang bờ bên kia, hay chỉ cần nhẹ tay ném hòn đá bên này bờ đã qua
bên kia vách.
Bởi thế ở quãng sông này chỉ lúc đúng ngọ mới có ánh sáng mặt trời và đi qua
đó nhà văn liên tưởng: “Ngồi trên khoang đò qua quãng ấy giữa mùa hè mà
cũng cảm thấy lạnh” vì tối và sâu. Chưa hết để diễn tả điều đó NT còn sử dụng
hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng táo bạo giữa chốn thiên nhiên hoang sơ mà
NT lại hình dung “như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện”. Với người
lái đò Sông Đà đây chính là một trong những thử thách đầu tiên mà họ phải
vượt qua.
Sự dữ dội của Sông Đà còn được thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Lóong: ( Ghềnh:
chỗ lòng dòng chảy của con sông có chướng ngại vật nhô cao lên trên mặt nước hay
nằm lơ lửng trong nước ngăn cản dòng chảy gây hiện tượng dòng chảy bị nhiễu loạn,
nước chảy xiết tạo nên các xoáy nước làm cản trở và nguy hiểm cho người và và các
phương tiện giao thông qua lại) “dài hàng cây số” ( độ dài ấy cũng là thử thách đối
với các tay đò lão luyện) có sự phối hợp giữa: nước, đá, sóng, gió tạo thành khúc sông
vô cùng nguy hiểm “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào túm được khi qua đó”. Bằng
những câu văn với nhịp dài ngắn đan xen, đặc biệt là kiểu câu văn móc xích trùng
điệp cùng với nghệ thuật so sánh và nhân hóa, sử dụng từ láy đắc địa “gùn ghè”, NT
như vẽ ra trước mắt người đọc một quãng sông mà mặt nước vô cùng dữ dội với sóng
với nước, với đá. Sóng nước đá phối hợp với nhau để đục thủng con thuyền. Chỉ cần
người lái đò khinh suất là sẽ “ lật ngửa bụng thuyền ra”. Chưa hết sóng nước Sông Đà
qua cái nhìn của NT còn mang bộ mặt dữ tợn, gớm ghiếc của những kẻ suốt đời đi đòi
nợ thuê. Có nợ mà đòi đã đành, đằng này ko có nợ mà vẫn đòi. Hình ảnh nhân hóa ko
chỉ dừng lại ở miêu tả vẻ ngoài của con sông mà còn đem đến cho người đọc những
cảm nhận rất riêng về sự ngạo mạn ngang ngược phách lối dữ dằn của Sông Đà.
Quãng Tà Mường Vát: Ở quãng sông này sự dữ dội của Sông Đà là ở những cái
hút nước. Dưới ngòi bút của NT, những cái hút nước Sông Đà chẳng khác nào những
cạm bẫy vô cùng nguy hiểm chết người. Để miêu tả những cái hút nước ấy NT dã vận
dụng kiến thức của nhiều ngành khác nhau.
+ Giao thông – xây dựng: Chẳng khác nào những cái giếng bê tông khổng lồ
người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây “thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc, ặc ặc như rót dầu sôi vào”.
+ Ngành cơ khí ô tô: khi vượt qua những cái hút nước ấy, “thuyền nào cũng
chèo thật nhanh y như là ô tô sang số nhấn ga để vượt qua một quãng đường
mượn cạp ra ngoài bờ vực” . Bởi chỉ cần khinh suất, thuyền lập tức trồng ngay
cây chuối ngược, bị hút xuống dưới đáy đi ngầm dưới lòng sông, mươi phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông phía dưới.
+ Ngành điện ảnh: Bằng sự am hiểu về điện ảnh, NT hình dung, tưởng tượng,
một anh quay phim táo tợn nào đó muốn truyền đến cho người đọc cảm giác
mạnh đã ngồi lên một chiếc thuyền thúng, rồi cho cả thuyền, cả mình, cả máy
quay xuống dưới đáy cái hút Sông Đà và “từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách
thành chênh nhau một cột nước cao đến vài sải, rồi thu ảnh, cái thuyền xoay tít,
những thước phim màu cũng quay tít, lia ngược lên măt giếng, thành giếng xây
bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày. Khối pha lê xanh như
sắp vỡ tan ụp vào cả máy, cả người quay phim và cả người đang xem”. Thước
phim truyền lại cho người xem cảm giác như thấy mình đang lấy gân ngồi giữ
chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng vừa rút lên cây gậy đánh phèn.
Bằng cách kết hợp nhiều biện pháp nghệ thuật tu từ, với trí liên tưởng, tưởng tượng
phong phú, vận dụng kiến thức của nhiều ngành khác nhau cả trong và ngoài nghệ
thuật, những trang viết này của NT ko chỉ cung cấp cho người đọc những hiểu biết về
Sông Đà mà qua đó còn thấy được sự uyên bác trí tuệ của con người nhà văn NT.
· Sự dữ dằn của Sông Đà còn ở tiếng nước thác: “ còn xa lắm mới tới cái thác
phía dưới những tiếng nước thác đã gầm réo mãi lên...” Bằng nghệ thuật đối lập,
nhân hóa, so sánh; bằng trí liên tưởng, tưởng tượng táo bạo dưới ngòi bút của NT
tiếng nước thác Sông Đà chẳng khác nào một bản đại hòa âm của những âm thanh
khủng khiếp có thể hù dọa những người lái đò non gan, yêu bóng vía.
+ Từ xa “tiếng nước thác đã gầm réo mãi lên có lúc nghe như là oán trách, rồi
lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo” âm thanh
của tiếng nước thác được nhà văn NT miêu tả bằng nhiều tính từ chỉ cung bậc
cảm xúc khác nhau.
+ Đỉnh điểm ở đoạn cao trào “ Có lúc nó rống lên như tiếng của hàng ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đàn trâu đang phá
tuông rừng lửa, còn rừng lửa hòa cùng đàn trâu da cháy bùng bùng...” lấy lửa
để tả nước, lấy rừng để tả sông, NT quả thực đã chơi ngông lắm trong nghệ
thuật.
Không chỉ dừng lại ở đó, qua cách miêu tả của nhà văn NT, tiếng nước thác
Sông Đà hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng của một loài động
vật hung dữ, đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, kết hợp với âm thanh của rừng
vầu, rừng tre nứa dữ dội trong lửa, cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá
không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, ko chỉ hình dung qua trí tưởng
tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc biệt sống động của thị giác,
xúc giác.
Nhưng hung bạo,dữ dội nhất của Sông Đà chính là ở thác đá.
+ Người ta thường nói “trơ như đá” – đá vốn là vật vô tri. Nghĩa là đá vốn là
vật vô hồn, vô cảm, nhưng bằng tài năng nghệ thuật của mình, NT đã thổi hồn
vào từng thớ đá Sông Đà, đá ko chỉ được khắc họa ở diện mạo mà còn có tính
cách và mang tâm địa của con người “ hòn thì nhăn nhúm”; “hòn thì méo mó”
“hòn nhìn nghiêng y như là đang hất hàm hỏi con thuyền phải xưng tên tuổi
trước khi giao chiến”, khi thua trận những viên tướng đá “bộ mặt tiu nghỉu
xanh lè vì thất vọng...”...
+ Qua cảm nhận của NT, có cả một chân trời đá “ đá ngàn năm như vẫn mai
phục hết lòng sông” với những hòn đứng, hòn nằm, hòn ngồi tùy sở thích
nhưng kì thực Sông Đà đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn để làm thành một trận
đồ bát quái để “ăn chết tươi” một con thuyền đơn độc ko có chỗ lùi.
+ Đá bày ra ba cửa trận, mỗi cửa trận lại có một binh pháp khác nhau.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất: Sông Đà bày ra 5 cửa, trong đó có 4 cửa tử
một cửa sinh; cửa sinh được bố trí lệch sang phía bờ tả ngạn; ở trùng vi thạch
trận đầu tiên này còn có sự hỗ trợ của tiếng nước thác – tiếng nước thác hò reo
làm thanh viện.
Ở trùng vi thạch trận thứ 2: Sông Đà thay đổi binh pháp, bày ra nhiều cửa tử
hơn, cửa sinh được bố trí lệch sang phía bờ hữu ngạn
Xong cửa trận thứ ba mới thật sự là thử thách khốc liệt nhất với người lái đồ
Sông Đà. Bởi lúc này bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sinh được bố
trí ở chính giữa ngay chỗ bọn đá hậu vệ của con thác, chưa hết cửa sinh được
canh giữ bởi cổng đá cảnh mở cánh khép. Phía sau lại có sự hỗ trợ của những
boong ke đá chìm và những pháo đài đá nổi.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn NT lại miêu tả sự hung bạo hùng vĩ dữ dội của
Sông Đà như vậy, mục đích của ông qua thiên nhiên để tôn vinh vẻ đẹp của con
người: Sông Đà càng hung bạo, hùng vĩ dữ dội bao nhiêu thì vẻ đẹp của người lái đò
Sông Đà lại càng được tôn vinh bấy nhiêu.
Quả thực dưới ngòi bút của NT ở góc độ này Sông Đà đúng là một ác quỉ- kẻ thù số
một của con người Tây Bắc ( mụ dì ghẻ, tên chúa đất), mà sự dữ dằn ấy của con Sông
đã được lưu lại trong câu đồng dao thần thoại:
“ Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Phải chăng chính quãng sông với đá dựng thành vách, đá chẹt lòng Sông Đà
như một cái yết hầu hay khúc sông với “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm, những cái hút nước chết người với
tiếng nước thác kêu như cửa cống cái bị sặc, ặc ặc như rót dầu sôi vào, hay
tiếng nước thác như một bản hòa âm của những âm thanh khủng khiếp, là sự
ghê rợn với “sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá...tất cả đã tạo thành một
tập hợp hoành tráng của những sức mạnh thiên nhiên hung dữ, một cảnh trí có
sức hấp dẫn kì lạ bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê. Thậm chí khi miêu tả Sông
Đà ở khúc hạ lưu êm ả câu văn của NT vẫn bâng khuâng trong cảm giác “dòng
sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi bỏ lại trên
thượng nguồn Tây Bắc”. Từ láy “xa xôi”gợi nỗi nuối tiếc, nhớ nhung của chính
nhà văn với khúc thượng nguồn, với những sức mạnh hoang dại, với những
cuồn cuộn thét gào sóng gió, với vẻ đẹp dữ dội hào hùng. Cái tài của NT, hay
chính những trải nghiệm của mình mà NT k chỉ nhìn thấy sự dữ dội của con
sông mà ẩn giấu là “nguồn than trắng vô biên” nhà văn tưởng tượng một ngày
ko xa mặt sông rung tít lên với những chiếc tuyec bin thủy điện nơi đáy hầm
đập. Những dự cảm ấy của Nguyễn Tuân đã trở thành sự thật khi hơn 20 năm
sau công trình thủy điện Hòa Bình chính thức được xây dựng và vận hành đã
đem lại nguồn năng lượng vô biên cho công cuộc xây dựng đất nước.
b, Sông Đà –nàng thơ ( thơ mộng trữ tình)
Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự
tương phản.Làm nên dòng Sông Đà thực sự ko chỉ có sự hung bạo, ko thể nhắc
đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Vẫn dòng sông ấy những sau khi vặn mình
vào một cái bến cát, khi chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn
tan xèo xèo tan trên cát, ngòi bút tài hoa của NT bất ngờ dẫn người đọc đến với
một Sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích. Hay
nói cách khác, qua cảm nhận của NT đó ko chỉ là con sông quanh năm ngày
tháng làm mình, làm mẩy với con người Tây Bắc mà cũng có lúc con sông thật
hiền biết bao – nó như một nàng thơ kiều diễm. Để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp
này NT đã ko ít lần đến với Sông Đà. Từ trên máy bay nhìn xuống nhà văn có
cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp của dòng sông một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất.
Hình dáng: TỪ trên cao nhìn xuống NT vô cùng say mê với từng nét sông tãi ra trên
màu xanh bao la của Tổ quốc. Có lúc ông thấy “Sông Đà ngoằn ngoèo như một sợi
dây thừng...” – nghệ thuật so sánh như gợi ra trước mắt người đọc sự quanh co, uốn
lượn của dòng sông. Lại có lúc dòng sông mang vẻ đẹp của một áng tóc mun huyền
ảo “ con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đàu tóc chân tóc ẩn hiện
trên mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mù khói núi
mèo đốt nương xuân...” Bằng những câu văn như biết co duỗi nhịp nhàng với âm điệu
uyển chuyển, nghệ thuật điệp từ kết hợp với so sánh NT đã gợi ra vẻ đẹp đầy gợi cảm
của dòng sông. Nó chẳng khác nào một áng tóc mun huyền ảo của người con gái đẹp
vùng Tây Bắc. Áng tóc trữ tình ấy lại được tô điểm bởi màu trắng, màu tím của hoa
ban, màu đỏ của hoa gạo và màu lam của khói núi mèo đốt nương xuân. . ( SSMR:
Không phải ngẫu nhiên NT lại so sánh hình dáng của Sông Đà như một áng tóc mun
huyền ảo.Phải chăng bởi NT là nhà văn thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền.
Với ông những mái tóc dài luôn gợi một cảm giác đặc biệt. Trước đó ông từng viết
“Tóc chị Hoài”. Để rồi từ hình dáng của con sông mà người đọc ko chỉ cảm nhận
được tấm lòng thiết tha của ông với cảnh đẹp của quê hương Đất nước, hơn thế còn là
tâm tình của một nhà văn tha thiết với những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc).
Màu sắc nước Sông Đà: Làm nên một Sông Đà nàng thơ còn là màu sắc nước thay
đổi đầy biến ảo theo mùa:
+ Mùa xuân: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, vẫn là nghệ thuất so sánh
nhung bằng cách ẩn đi từ so sánh, hình ảnh dòng xanh ngọc bích của sắc nước
Sông Đà vào mùa xuân có một vẻ đẹp kì lạ vừa trong vừa xanh như ngọc bích,
hay chính vẻ đẹp ngọc bích là sắc nước Sông Đà vào mùa xuân. Màu xanh này
khác hẳn với “màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô”. HÌnh ảnh so sánh
một lần nữa giúp ta cảm nhận được biểu hiện khá quen thuộc của một nhà văn
thị tài, thích khoe tài hoa, khoe uyên bác, nhưng hơn thế ta còn cảm nhận được
dường như có một sự ưu ái đặc biệt mà NT dành cho Sông Đà.
+ Mùa thu: “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ” – những từ ngữ tượng hình
đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm, và chậm rãi của con sông đầy nặng
phù sa thượng nguồn. HÌnh ảnh so sánh nước Sông Đà “như da mặt người bầm
đi vì rượu bữa lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ
thu về” đã ko chỉ làm hiện lên màu sắc nước Sông Đà rất đặc trưng vào mùa
thu mà còn thể hiện được sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa những đe dọa của một
dòng sông vẫn “năm năm báo oán đời đời đánh ghen với con người”. Và như
vậy ngay cả khi miêu tả nét thơ mộng trữ tình của dòng sông, hình ảnh con
Sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm
nhận của nhà văn luôn say mê những cảm giác mạnh. (SSMR: Cũng là miêu tả
sắc nước của dòng sông nhưng quả thực ở góc độ này, sắc nước Sông Đà khác
hẳn với sắc nước của sông Hương – dòng sông thơ mộng của xứ Huế - con
sông với màu nước thay đổi theo từng thời điểm trong ngày “sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím” như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng miêu tả trong bài
bút kí nổi tiếng “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Bằng những cảm nhận tinh tế mà sâu sắc, bằng tấm lòng của một nhà văn thiết
tha yêu quê hương đất nước, NT còn phủ định bọn thực dân ngu dốt nhưng
muốn cưỡng bức về văn hóa “ Chưa bao giờ tôi thấy Sông Đà là “đen” như
TDP đã đè ngửa con sông ta ra, đổ mực đổ mực Tây vào và gọi bằng một cái
tên Tây láo lếu rồi cứ thế mà phết lên bản đồ lai chữ”.
Cảm giác: Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông được gợi ra qua cảm giác. Với NT
có lúc Sông Đà gợi cảm giác của một cố nhân “đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân”
– một người bạn cũ, một người tri âm, tri kỉ lâu ngày gặp lại. Trong cảm nhận của NT
Sông Đà ko còn là vật thể vô tri giác mà là con người – đó là người tri kỉ. Khi đi rừng
lâu ngày gặp lại Sông Đà thì “chao ôi, trông con sông như thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô
thể, chỉ có thể nhìn mà ko thể nắm bắt. Còn “giòn tan” lại là tính từ để chỉ những vật
mỏng manh dễ vỡ. “Nắng giòn tan quả thực là một ẩn dụ đẹp để gợi ra cái nắng thật
trong, thật sáng, thật mỏng, thật nhẹ, nó vừa mong manh vừa quí giá nó hoàn toàn
tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời ngày mưa dầm. Với cách so sánh ấy
NT đã giúp cho người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến, nâng niu cũng như
niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại con sông. Sông Đà càng quí giá
hơn với nhà văn khi ông so sánh “ vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” – một việc
gần như ko thể có trong đời người. Và sự nối lại giấc mơ càng hi hữu hiếm quí bao
nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng thú vị bấy nhiêu. NT đã nhiều lần tới Sông
Đà nhưng quả thực mỗi lần đến với dòng sông ông lại cảm thấy như gặp lại cố
nhân,với sự tươi mới kì diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, như thể lần nào gặp
cũng như đó là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất.
Với NT Sông Đà còn gợi cảm giác thi vị, khi nhìn dòng sông “thấy loang loáng
như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy” mà NT liên tưởng
“Cái miếng sáng lóe lên màu nắng tháng 3 đường Thi”. Hình ảnh so sánh này
đã đem đến cho Sông Đà vẻ đẹp lãng mạn của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ
của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong câu thơ được coi là
“thiên cổ lệ cú” của Lí Bạch “Yên hoa tam nguyệt há Dương châu”. Vẻ đẹp
làm xao xuyến những tâm hồn yêu nhớ phong vị Đường thi cổ điển. Để rồi nỗi
xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến Sông Đà ko chỉ
chảy trong ko gian mà còn trôi chảy trong dòng thời gian miên viễn xa xăm
của thế giới Đường thi.

Cảnh sắc hai bên bờ sông: Nếu ở hình dáng và màu sắc NT chủ yếu tả khái quát thì
cảnh sắc hai bên bờ Sông Đà lại được NT miêu tả khá tỉ mỉ chi tiết. Có thể nói đây là
một trong những đoạn văn hay nhất của thiên tùy bút này khi NT miêu tả vẻ đẹp thiên
nhiên – in đậm dấu ấn pcnt của NT không chỉ ở những liên tưởng phong phú mà còn
là những cảm nhận vô cùng tinh tế.
Cảnh sắc hai bên bờ sông được bắt đầu bằng hình ảnh “thuyền tôi trôi ...thuyền
tôi trôi...”Một câu văn êm ru trong thanh bằng như đưa con thuyền, nhà văn, và
người đọc đến với một cõi mơ êm đềm yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như
chưa từng có dấu vết của con người. Mở ra trước mắt người đọc là hình ảnh
“cảnh ven sông lặng tờ như từ thời Trần, thời Lê Sông Đà cũng lặng tờ đến thế
mà thôi” – hình ảnh so sánh khiến cho sự êm đềm tĩnh lặng của dòng sông dày
thêm ko chỉ vì cái yên ả trong ko gian mà còn vì cái thăm thẳm xa xăm của
thời gian. Và đặc biệt tính chất ước lệ của cụm từ “Từ thời Trần, thời Lê Sông
Đà cũng lặng tờ đến thế mà thôi” đã đưa đến cho người đọc cảm giác cuộc
sống như ngưng lại nơi đây trong ko gian nguyên sơ, thuần khiết, an lành...một
ko gian nằm ngoài sự trôi chảy vận động của cuộc sống văn minh. Chưa hết
trong cảm nhận của NT “ Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên
như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” cách so sánh của NT ko hề làm rõ, làm hiện hữu
hình ảnh của bờ sông, nhưng lại gợi tả ko gian vắng lặng đến nao lòng, hồn
nhiên đến ngây thơ trong trẻo
.
Qua sự quan sát của NT cảnh vật hai bên bờ sông thơ mộng đầy sức sống đó
là “mấy nương ngô đang nhú ra những lá ngô non đầu mùa” hay “cỏ gianh đồi
núi đang ra những nõn búp” – những hình ảnh đầy sức gợi của sự sống mới bắt
đầu với màu xanh bạt ngàn – màu xanh non mỡ màng, đầy sức sống.
Miêu tả cảnh sắc hai bên bờ sông NT ko chỉ gợi ra những hình ảnh thị giác
mà còn bằng cảm giác và thính giác.Vẻ đẹp nên thơ trữ tình của Sông Đà còn
có trong “Đàn cá dầm xanh, cá anh vũ quẫy vọt tung lên khỏi mặt nước rơi
xuống trắng như bạc rơi thoi”. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã giúp cho NT ko
chỉ gợi ra được một ko gian huyền diệu mơ hồ, có lẽ ko có sự miêu tả trực tiếp
nào lại khiến sự lặng tờ của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế.
Trong khung cảnh yên bình NT thèm một âm thanh rộn rã “ tiếng còi xúp lê
của xe lửa...” cũng là thèm về một ánh sáng của thời đại chiếu rọi đôi bờ Đà
giang, đưa ông cùng với người đọc bay lên với “ Ngọn gió ngày mai thổi tới”.
Để rồi đắm mình trong vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông, hòa mình vào
vẻ đẹp của dòng sông mà NT như nhận thấy “Dòng sông quãng này như nhớ
thương những đá thác xa xôi...”Dù về đến quãng trung lưu, hạ lưu nhưng sự dữ
dội, hung bạo của Sông Đà ở thượng nguồn vẫn thấp thoáng ẩn hiện đâu đó
trong cái lững lờ dòng nước êm trôi đã bỏ lại trên thượng nguồn. Dòng sông
như đang lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi. Quả thực nếu cái dữ dội,
hùng vĩ của Sông Đà đã được đẩy lên đến mức tột cùng trở thành ác quỉ - kẻ
thù số 1 của con người Tây Bắc thì vẻ thơ mộng trữ tình của con sông cũng
được đẩy lên mức tuyệt đỉnh trở thành một nàng thơ với vẻ đẹp kiều diễm lộng
lẫy, để rồi từ ấy đến nay có biết bao người làm thơ, vẽ, kể chuyện về dòng sông
thì có lẽ vẫn chưa có ai vượt hơn được NT trong việc “biến vùng sông nước ấy
thành một gợi cảm mênh mang”. (Đỗ Kim Hồi)
2, Hình tượng Người lái đò Sông Đà:
Lai lịch, hoàn cảnh xuất thân của người lái đò
Đặc điểm ngoại hình
Người lao động bình thường trên sông nước
Người nghệ sĩ trên sông nước – trong nghệ thuật chèo đò vượt thác.
Song có lẽ đẹp nhất chính là hình tượng “ người lái đò nghệ sĩ” trong tác
phẩm “Người lái đò Sông Đà”. Ông lái đò đã trở thành biểu tượng đẹp cho
người lao động trong thời kì mới khi Đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
a, Lai lịch, nguồn gốc xuất thân:
Xuất hiện trong tác phẩm này NLĐSĐ được nhà văn NT gọi bằng cái tên phiếm định
như: Người lái đò, ông đò, người lái đò Sông Đà...
Mặt khác khi gọi nhân vật của mình bằng cái tên phiếm định sức khái quát của hình
tượng rộng hơn vượt ra khỏi khuôn khổ của một con người cá nhân cụ thể.
b, Người lao động bình thường:
Mà trước hết đó là người lao động bình thường trên sông nước.
Ông đã ngoài 70 tuổi và có mấy chục năm làm nghề chở đò dọc ( Chở đò
ngang là chở từ bờ bên này sang bờ bên kia => quãng sông ngắn; chở đò dọc đi
từ đầu sông cho đến cuối sông => quãng đường dài quanh co, lắm thác nhiều
ghềnh ( chỉ riêng đoạn từ Lai Châu đến chợ Bờ có 50/73 con thác dọc dải Sông
Đà) => Công việc đầy nguy hiểm, vất vả) trên Sông Đà.
Hàng ngày chở sản vật từ miền núi về xuôi và ngược lại chở hàng hóa từ miền xuôi
lên miền ngược nhằm mục đích mưu sinh.
Vì thế mà công việc dể lại dấu ấn ở ngoại hình người lái đò Sông Đà. Bằng hệ thống
ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, đầy chất tạo hình, bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm,
NT đã làm sống dậy trước mắt người đọc hình ảnh ông lái đò có ngoại hình đặc biệt
ấn tượng.
+ Người ta nói rằng làm nghề lái đò trên sông hiểm ác lắm thác nhiều ghềnh
này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của NT đã cải chính một cách hùng hồn
cái điều ấy bằng bằng hình ảnh một con người đã gần 70 tuổi ( thất thập cổ
lai hi –xưa nay hiếm) , “cái đầu bạc nhưng còn quắc thước lắm”, “ đặt trên
một thân hình cao to, gọn quánh như chất sừng chất mun” ông “giơ đôi tay
còn trẻ tráng quá” làm cho “nhiều người lầm tưởng là mình đang đứng trước
một chàng trai”.
“Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như
kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng nói của ông ào ào như tiếng nước
trước mặt ghềnh sông” “Nhỡn giới cao vời vợi như trông về một cái bến nước
xa nào đó”. Đặc biệt những năm tháng làm nghề chở đò đã để lại trên ngực ông
một vết chai bằng củ nâu mà NT gọi là “thứ huân chương siêu hạng” giành cho
người lao động.
Những dòng này được NT viết ra có lẽ ko chỉ để giới thiệu ngoại hình ở một con
người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quí nghề ở chính người đó vì NT là nhà văn
luôn nén câu chữ trong những điều muốn nói, hàm lượng thông tin ở đó ko bao giờ
chỉ một tầng hiển ngôn.

c, Người lái đò nghệ sĩ:


Tuy nhiên trên trang văn NT, ông luôn khám phá con người ở góc độ tài hoa
nghệ sĩ. Xuất hiện trong tác phẩm này tư chất tài hoa nghệ sĩ của người lái đò
Sông Đà được thể hiện qua sự am hiểu sâu sắc tường tận về dòng sông. Ông
quen mặt từng viên tướng đá, quân đá; ông thuộc lòng qui luật phục kích của lũ
đá nơi cửa ải, ông thuộc lòng từng luồng nước lạch nước...Ở đây quả thực NT
đã rất có lí khi ví Sông Đà nhưu một bản trường ca mà ông đò thuộc từng dấu
chấm, dấu phảy, thậm chí dấu ngắt xuống dòng...Có thể nói đây là hình ảnh so
sánh vô cùng độc đáo mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của NT vì vậy
mà đã mấy chục năm làm nghề chở đò trên sông nước ông đò chưa bao giờ bất
ngờ hay lúng túng trước binh pháp mà thần sông thần đá đã giăng ra, lần nào
ông cũng đưa con thuyền cập bến an toàn.
Tư chất tài hoa nghệ sĩ ấy đặc biệt thăng hoa trong cuộc vượt thác Sông Đà – trong
trận chiến với những trùng vi thạch trận ở trên sông.
+ Để thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp các nhân vật của nhà văn NT thường được đặt ở
giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Khoảnh khắc sinh tử ấy là khoảnh khắc
mà nhân vật thường phô bày trọn vẹn vẻ đẹp của mình. Ta từng bắt gặp vẻ đẹp
của Huấn Cao trong Chữ người tử tù tỏa sáng tại nhà giam tỉnh Sơn ngay trước
khi phải vào kinh chịu án tử hình; đó là anh bộ đội trên trận địa pháo cao xạ
trong Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, ánh mắt hướng về vẻ đẹp của cành đào Nhật
Tân ngày Tết.
Vẻ đẹp của người lái đò thể hiện rõ nhất qua trận thủy chiến giữa một bên là
trùng vi thạch trận của đá thác, nước thác, sóng gió...( kẻ thù số 1 của con
người Tây Bắc) với một bên là chiếc thuyền đuôi én mong manh và những
người lái đò nhỏ bé đơn độc. Đó là một cuộc chiến ko hề cân sức giữa một bên
là thiên nhiên với sức mạnh khủng khiếp và một bên là con người. Quả thực
ko phải ngẫu nhiên mà nhà văn NT lại tô đậm sự hung bạo, hùng vĩ dữ dội của
con sông, phải chăng Sông Đà càng hung bạo, hùng vĩ dữ dội bao nhiêu thì vẻ
đẹp của người lái đò Sông Đà lại càng được tôn vinh bấy nhiêu? Hay nói cách
khác đây chính là tình huống thử thách để người lái đò bộc lộ sự tài hoa, trí
dũng của người lái đò bản lĩnh, dày dạn kinh nghiệm.. Thạch trận trên Sông Đà
cách xa Nguyễn Tuân, cách xa chúng ta.
Trước hết ở cửa trận thứ nhất:
Thần sông dàn ra năm cửa đá thì có tới 4 cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm ở phía
tả ngạn, huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng
sóng hung tợn “như thể quân liều mạng” vào sát nách mà đá trái, thúc gối vào
bụng vào hông con thuyền. Thậm chí còn đánh đòn tỉa đòn âm, đòn hồi lùng.
Nhưng người lái đò vẫn giữ chắc mái chèo để cho con thuyền ko bị hất tung
lên khỏi sóng trận địa đang phóng thẳng vào mình”.
Khi sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả luồng nước vô sở bất chí ùa
vào bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Lúc này ông đò “mặt méo bệch đi” - câu
văn cho thấy cách dùng từ độc đáo của nhà văn NT, ông đã gợi ra khuôn mặt
biến dạng, trắng bệch vì đau đớn của người lái đò. Sự đau đớn này còn được
nhà văn NT miêu tả gián tiếp trong cảm nhận của thị giác và xúc giác “mặt
sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm
lửa vào đầu sóng” - một cảm giác đau đớn tóe đom đóm và rát bỏng như lửa
cháy. Trong tận cùng đau đớn những người lái đò vẫn cố nén vết thương, bình
tĩnh chỉ huy đưa con thuyền vượt trùng vi thạch trận thứ nhất. Qua sự miêu tả
tiếng chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người lái đò mà người đọc nhận ra sự cảm
phục ngưỡng mộ của nhà văn NT trước bản lĩnh kiên cường sự dũng mãnh,
bình thản của người lái đò.
Ở trùng vi thạch trận thứ 2:
Lúc này Sông Đà thay đổi chiến thuật: Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa
con thuyền vào, cửa sinh được bố trí lệch sang phía bờ hữu ngạn, lại thêm “bốn
năm bọn thủy quân xô ra níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Với người lái đò
chưa một phút nghỉ tay,ngừng chèo ông đã phải thay đổi chiến thuật để vượt
qua trùng vi thạch trận thứ 2. Lúc này “cưỡi lên thác đá Sông Đà như cưỡi lên
lưng hổ” khi đã nắm được cái bờm sóng đúng luồng ông đò cho con thuyền
phóng thẳng vào cửa sinh trên đường đi vì ông nhớ mặt của từng đứa trong bốn
năm bọn thủy quân cửa ải nên khi thì ông lái miết một đường chéo, khi thì ông
tránh mà rảo tay bơi chèo, khi lại đè sấn, chặt đôi mở đường tiến...Ở cửa trận
này ta lại nhận ra vẻ đẹp của người lái đò ko chỉ có sự dũng cảm, can trường,
mà ta còn nhận ra những biến pháp kì kiệu của một tay lái đã ra hoa – trí tuệ và
tài hoa của con người đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.
Trùng vi thạch trận thứ 3:
Cửa trận nguy hiểm nhất, thật sự là thách thức với người lái đò vì lúc này Sông
Đà một lần nữa thay đổi chiến thuật. Ở trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên phải,
bên trái đều là luồng chết, cửa sinh được bố trí ở chính giữa và được canh giữ
bởi bọn đá hậu vệ và cổng đá cánh mở cánh khép. Nhiệm vụ của ông đò là phải
phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa sinh duy nhất “Vút! Vút! Cửa ngoài cửa
trong lại cửa trong cùng...thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua làn hơi
nước vừa bơi vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác”. Bằng những
câu văn ngắn, kết hợp với nghệ thuật so sánh “thuyền như một mũi tên tre”, sự
kết hợp các động từ và danh từ nối tiếp: Vút, vút, cửa ngoài, ...đã thể hiện sự
điêu luyện, khéo léo và sức mạnh của người lái đò Sông Đà. Qua cách miêu tả
của NT “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua làn hơi nước vừa bơi
vừa tự động lái được lượn đc” dường như con thuyền ko bơi trên mặt nước mà
đang lướt đi trong không trung. Con thuyền lúc này chẳng khác nào một con
tuấn mã hiểu ý chủ, còn người lái đò Sông Đà như một vị dũng tướng tả xung
hữu đột để vượt qua cửa trận nguy hiểm cuối cùng.
Có thể nói đây là trường đoạn hào hùng nhất khi NT thể hiện trình độ vượt thác leo
ghềnh. Ông đò ko còn là một người lao động bình thường mà đã trở thành một người
nghệ sĩ trên sông nước. Mỗi một đường chèo của ông chẳng khác nào một nét cọ trên
bức tranh sông nước tuyệt đẹp. Công việc chèo đò vượt thác được nâng lên thành một
thứ nghệ thuật cao cường mà người lái đò là một người nghệ sĩ - một tay lái đã ra hoa.
d, Người lái đò tài hoa:
Phẩm chất này được thể hiện sau khi kết thúc cuộc chiến với thác đá trên sông.
Lẽ thường sau trận chiến người ta có xu hướng đề cao hoặc kể lại những chiến
công mà mình đã đạt được, nhưng ở đây sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò
lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “ đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang
đá, nướng ống cơm lam bàn về cá dầm xanh, cá anh vũ mà tuyệt ko một lời nào
bàn đến trận chiến vừa qua”. Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc
lớn lao của nhũng người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi họ
coi việc chiến đấu và chiến thắng Sông Đà dữ dội hiểm ác, giành lấy sự sống từ
tay những cái thác chỉ là chuyện thường ngày.
Ông lái đò là hình tượng đẹp về người lao động mới , người anh hùng ko chỉ có trong
chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày đó chính là thứ “vàng
mười” đã qua thử lửa. Ông lái đò đã thực sự trở thành một nghệ sĩ tài hoa trên sông
nước, đây cũng là quan niệm mới về chủ nghĩa anh hùng: đó là những người anh hùng
có trong những con người bình thường, giản dị của cuộc sống lao động thường ngày.
. Nhưng chính cái chất nghệ sĩ trong ông là yêu đời, yêu nghề, say mê khám
phá sự huyền diệu cứ bay lên với đôi cánh lãng mạn.
Miêu tả ông lái đò Lai Châu, Nguyễn Tuân muốn gửi đến thông điệp gì?
Phải chăng cuộc sống không phải lúc nào cũng như khúc sông phẳng lặng mà
có nhiều lúc thác ghềnh. Sống là phải biết chấp nhận, phải bơi lội, chèo lái để
vượt qua thác, băng qua ghềnh chứ không phải là kéo thuyền lên bờ để ngắm,
để nhìn, để chờ đợi. Những đoạn văn Nguyễn Tuân miêu tả ghềnh thác ở Sông
Đà làm cho người đọc vừa sợ lại vừa yêu vừa muốn lánh xa lại vùa muốn lăn
vào. Đây là “ghềnh Hát Loong dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng...”và
đây nữa “ Còn xa lắm mới đến cái thác phía dưới, tiếng nước thác đã gầm réo
mãi lên...” ‘ Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất ...mặt sông trong
tích tắc sáng lòe lên như một cửa bể đom đóm rừng”. Ông đò đã năm chắc binh
pháp của thần sông thần đá, thuộc lòng qui luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước. Nguyễn Tuân vừa biết dùng người, viết câu hay, tả cảnh hợp, tả tình sâu
nên cuốn hút người đọc và tôn vinh vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên. Văn
của Nguyễn Tuân đúng là như thế vừa “chân nhân” vừa “chân trí” – một thứ
văn ngang dọc. Tai nghe tiếng nước, mắt ngắm xoáy sâu. Câu văn đã dứt mà
âm thanh vẫn còn vang vọng, khí văn vẫn còn phảng phất như khói mây. Vượt
qua 73 thác ghềnh, ông đò Lai Châu vẫn đĩnh ngộ thông tuệ, không để lụy tâm,
ko làm tổn trí. Đi thuyền ko sợ thác ghềnh vừa là dũng lược, vừa là mưu lược
của Nguyễn Tuân và ông đò Lai Châu. Dường như Nguyễn Tuân đang quan sát
ông đò chèo con thuyền then vuốt đuôi én, giống như thầy trò Khổng Tử xem
người đàn ông bơi ở Lã Lương.

Hình ảnh NLĐSĐ giúp ta thấy được sự chuyển biến tích cực trong pcnt của NT sau
CMT8. Nếu trước đó nhà văn đi tìm cái đẹp ở những con người đặc tuyển, đặc chủng,
ở những con người của một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng thì bay giờ NT đi tìm
cái đẹp ở trong những con người lao động bình thường ngay trong hiện tại.Giọng văn
đầy hồn hậu, tin yêu.
4, Cái “tôi” của NT qua tùy bút NLĐSĐ:
Khái niệm về cái tôi: Khi nói đến cái tôi trong sáng tác của một người nghệ sĩ là nói
đến những đặc điểm riêng của nhà văn đó trong sáng tác. Tùy bút là thể văn xuôi
tương đối tự do phóng túng, cùng với sự xuất hiện của sự vật hiện tượng được nhà văn
tái hiện trong tác phẩm còn là hình ảnh cái tôi của chính nhà văn đó.
Qua tùy bút NLĐSĐ người đọc nhận ra cái tôi của nhà văn NT:
+ Cái tôi thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở qua sự miêu tả vẻ đẹp của
Sông Đà ( hung bạo hùng vĩ dữ dội, thơ mộng trữ tình) => biểu hiện của lòng
yêu nước và tinh thần dân tộc ở con người nhà văn NT.
+ Trân trọng con người nói chung và con người lao động trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng.
+ Con người trên trang văn của NT mang vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ: NLĐSĐ: lao
động bình thường, nghệ sĩ trong nghệ thuật chèo đò vượt thác.
+ Cái tôi tài hoa uyên bác: Khám sự vật hiện tượng con người dưới góc độ văn
hóa thẩm mĩ; có sự am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực khác nhau cả trong và
ngoài nghệ thuật, đặc biệt Nguyễn Tuân còn có khả năng vận dụng những kiến
thức đó trong sáng tác văn chương.

You might also like