You are on page 1of 21

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – Nguyễn Tuân

I> Hình tượng con SĐ: Hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở

Mở Bài:

Nguyễn Tuân là nhà văn, nhà văn hóa lớn có đóng góp quan trọng trong nền văn học
nước nhà. Là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, mỗi trang văn của Nguyễn Tuân đều
thể hiện sự độc đáo, uyên bác, tài hoa. Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân
của Nguyễn Tuân đã đi khắp mảnh đất hình chữ S này, nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi
cho ra đời “đứa con tinh thần” của mình vì chỉ có nơi đây mới thỏa mãn thực đơn cho nhãn
quan sáng tác của ông. “Người lái đò Sđa” là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc, là tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân . Nhà văn đã tái hiện dòng sông
Đà không chỉ là một cảnh trí thiên nhiên mà là một sinh thể sống động diện mạo, có cá tính,
có tâm trạng khá phức tạp.
- TGNT: +“người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”
+ độc đáo, uyên bác, tài hoa.
- TP: NLDSD:
+ Kết quả thực tế TB
+ Tập tùy bút SĐ
+ ND ca ngợi: HTSĐ- chất vàng mười TN TB, SĐ 2
tính cách
- VDNL: + SĐ HB
- Phạm vi nghị luận: Thác và đá SĐ: Từ “....” đến “...”. Qua đó,
người đọc thấy được PC Tài hoa uyên bác của NT
1. Hình tượng con SĐ
a. Tính cách hung bạo
Nguyễn Tuân vốn là con người của sự độc đáo, không ưa những cái tầm thường tẻ nhạt,
luôn tìm kiếm những gì dữ dội, mãnh liệt, phi thường. Vì thế, mà dòng chảy của Đà giang
đã cuốn hút Nguyễn Tuân, dòng chảy vĩ đại của núi rừng Tây Bắc. Dòng sông vốn nổi tiếng
lắm thác, nhiều ghềnh, từ xưa đến nay vẫn làm mình làm mẩy với con người, đã để lại ấn
tượng mạnh mẽ với Nguyễn Tuân. Bởi vậy, khi miêu tả dòng sông này ngòi bút của Nguyễn
Tuân đã được thăng hoa biến con sông vô tri vô giác thành một sinh thể sống có linh hồn, có
tính cách.
Ở lời đề từ Nguyễn Tuân đã dẫn thơ của Nguyễn Quang Bich: “ Chúng thủy giai đông
tẩu/ Đà giang độc bắc lưu ( Mọi dòng sông đều chảy theo hướng đông chỉ SĐ chảy theo
hướng bắc). Sông Đà là con sông duy nhất chảy theo hướng Bắc, có hướng chảy độc đáo,
ngang ngược, không giống với các con sông khác.
1.Nguyễn Tuân đã khám phá Sông Đà ở nhiều điểm nhìn khác nhau để phát hiện ra
những vẻ đẹp độc đáo bất ngờ kì thú của con sông.
a1 Đầu tiên, Sự hung bạo, hiểm trở của dòng sông thể hiện ở cảnh hai bên đá dựng
vách thành.
+ Nguyễn Tuân miêu tả “bờ sông đá dựng vách thành, khiến cho mặt sông chỗ ấy
đúng chính ngọ mới thấy mặt trời”. Vách là vách đá, thành là thành quách. Hai bên bờ sông
có những vách đá dựng đứng, lớp lớp kế tiếp nhau, sừng sững, kiên cố như những bức tường
thành. Hai bên đá dựng đứng chắn hết, chúng không cho 1 tia nắng nào dọi xuống trừ lúc
12 h trưa. Vì thế, ở khúc sông này vô cùng lạnh lẽo, âm u, thiếu ánh sáng.. Nguyễn Tuân đã
cho người đọc hình dung ra độ cao hun hút của vách đá đến lạnh cả sống lưng con người.
+ Không những vậy, có chỗ của lòng Sông Đà còn hẹp, thắt lại “vách đá thành
chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” . Với nghệ thuật so sánh lòng sông Đà giống như bộ
phận nhỏ hẹp nơi cổ họng của con người. Khiến người đọc liên tướng SĐ không chỉ ấn
tượng như 1 trang nam nhi cường tráng, khỏe mạnh mà còn làm ấn tượng về sự nhỏ hẹp của
dòng chảy....
+ Nhất là, đôi bờ sông Đà xích lại gần nhau hẹp đến mức,“đứng ở bên này nhẹ tay
ném hòn đá sang bên kia vách,” thậm chí, con hươu con nai có thể nhảy từ bờ bên này sang
bờ bên kia”. Cách miêu tả này làm cho người đọc ai cũng dễ hình dung ra được lòng sông
càng hẹp thì lưu tốc dòng chảy ở đây sẽ càng lớn, nhất là vào mùa lũ. Nếu như đi vào những
khúc sông như thế không thể không cảm nhận được biết bao nguy hiểm đang rình rập con
người.
+ Nhà văn không chỉ cho chúng ta cảm nhận SĐ qua thị giác mà người đọc còn ấn
tượng qua các giác quan khác nhau. Phép liên tưởng, so sánh “ ngồi khoang đò vào quãng đó
mùa hè vẫn cảm thấy lạnh” và “như ai đó đang đứng ở hè một cái ngõ ngóng vọng lên một
khung của sổ nhà cao tầng vừa tắt phụt đèn điện”, cho thấy sự liên tưởng thật gần gũi. Vì
nếu ai đó chưa một lần đặt chân đến SĐà, chỉ quen tiếp xúc với chốn thị thành hiện đại thì
qua cách miêu tả của nhà văn cũng đều tưởng tượng được hiện thực, cảm nhận được cái
lạnh, sự tối tăm và nguy hiểm của đá dựng vách thành ở SĐ.
=>Như vậy, bằng nhiều giác quan khác nhau, nhưng chủ yếu là thị giác và xúc giác, cùng với
sự tưởng tượng phong phú sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tạo được ấn tượng mạnh cho người đọc
về dòng SĐ hiểm trở, độc đáo và cũng rất thú vị này.
a2.Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn cho người đọc bất ngờ của SĐ ở cái dữ dội,
hiểm trở nơi mặt ghềnh thác đá. Hình ảnh đặc trưng nhất của Sông Đà là 73 cái thác từ
biên giới Việt Trung về đến thác Bờ. Thác ở đây dữ tợn tạo thành những mặt ghềnh cuộn
sóng. Nguyễn Tuân đặc tả ở mặt ghềnh Hát loong. Dài hàng cây số “ nước xô đá, đá xô
sóng. Sóng xô gió cuồn cuộn gùn ghè” như muốn đòi nợ xuýt con người. Câu văn dài, kết
cấu trùng điệp, ngắt thành nhiều vế ngắn tạo nên âm hưởng đặc biệt, biến sông Đà thành 1
bản hợp xướng âm thanh cộng hưởng của 4 yếu tố nước, đá, sóng, gió. Trong trạng thái khẩn
trương gấp gáp, như sự vận chuyển của sóng to gió lớn đang ầm ập, sầm sập lao xuống, xô
đẩy của sóng, của gió, của đá SĐ khiến cho ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, trở
thành mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào qua đây.
Đặc biệt các từ láy giàu sức gợi hình gợi cảm “ cuồn cuộn,” gùn ghè” và nghệ thuật
nhân hóa “ đòi nợ xuýt” cho người đọc thấy SĐ hiện lên giống như một loài thủy quái khổng
lồ hung hãn dữ tợn, thậm chí nó như 1 kẻ côn đồ lưu manh chuyên đi gây gổ, đòi nợ.
Như vậy, bằng nghệ thuật tả cảnh hấp dẫn qua những hình ảnh so sánh, liên tưởng nhân hóa
độc đáo khiến sông Đà hiện lên vô cùng sống động, nó tấn công vào mọi giác quan của người
đọc.
a3.Đặc biệt, khủng khiếp và tàn độc của sông Đà còn thể hiện ở những cái hút nước.
Bằng nghệ thuật nhân hóa kết hợp so sánh, vừa kể vừa tả, sự liên tưởng tưởng tượng độc đáo
bất ngờ, đoạn văn nói về cảnh ở Tà Mường vát những cái hút nước ở lòng sông Đà hiện lên
như một thước phim gợi cảm giác mạnh. Nguyễn Tuân nhìn từ góc độ bên ngoài và cả góc
nhìn bên trong SĐ hiện lên với diện mạo, hình thù, âm thanh ghê sợ đến rợn người.
Đầu tiên từ điểm nhìn bên ngoài, Cái hút nước hiện lên qua “diện mạo” . những
cài hút nước mang hình thù giống như cái giếng bê tông người ta thả xuống làm móng cầu.
Nó vừa sâu vừa xoáy tít xuống tận đáy tạo nên cảm giác rợn ngợp. Hút nước sông Đà tuy
không làm bằng bê tông sắt thép, cát, sỏi... mà chất liệu của nó là nước nhưng trạng thái xoáy
tít, độ vững chãi và sức phá hủy của nó không kém gì bê tông. Câu văn còn khiến người đọc
liên tưởng cài hút nước giống như một con quái vật với cái miệng to, há hốc sẵn sàng ngoặm
bất cứ cái gì trước mặt nó, đòi ăn tươi nuốt sống những ai qua đó.
Hút nước còn biểu hiện qua Âm thanh. Nước ở đây thở và kêu ằng ặc như người ta
giót dầu sôi vào. Đặc biệt qua từ láy “ ằng ặc” Làm cho cái hút nước giống như con quái vật
ấy đang bị bóp cổ. Thứ âm thanh quái lạ ấy nghe cũng đã sởn da gà.
Không những thế, Nguyễn Tuân còn miêu tả sức mạnh của cái hút nước : “Trên
mặt cái hút nước xoáy tít đáy cũng đang lừ lừ như cánh quạ đàn. Thuyền bè đều khiếp sợ cái
giếng hút ấy vì chỉ cần sơ ý là nó sẵn sàng lôi tuột xuống thuyền trồng cây chuối, rồi đánh
tan từng mảnh ở khuỷu sông”. Chiếc bè gỗ cấu tạo chắc chắn, chở nặng gỗ, lại ngâm nước
nên sẽ vững như bàn thạch, ấy vậy mà khi vô tình lọt vào hút nước SĐ, ngay lập tức cái hút
nước đó sẽ lôi tuột xuống và mươi phút chúng “ ngấu nghiến” chiến lợi phẩm và cái bè bị tan
xác ở khuỷu sông dưới.
Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn nhìn qua góc nhìn bên trong.Thay vì kể nỗi
sợ hãi, Nguyễn Tuân bắt người đọc chiêm nghiệm mình, tự trải qua nỗi sợ hãi khi nhà văn
nhấn mạnh cái dữ dội qua góc nhìn điện ảnh. Ông hình dung nhà quay phim dùng máy quay
xoay theo đà xoay của giếng hút trong cảm giác của 1 chiếc lá rừng bị ném vào 1 cốc pha lê
khổng lồ mà người ta vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
Đúng là “Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới thể hiện
Sông Đà sống động dữ dội và hung bạo đến như thế! Có thể nói, sức mạnh của cái hút nước
cũng là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
ĐỀ 2:
a4 Thác nước và đá Sông Đà:
Chuyển ý: Tác giả tập trung khắc họa vẻ hung bạo, hiểm ác của Sông Đà không chỉ qua
những vách đá, vực xoáy, …mà ngòi bút tài hoa của tác giả còn tập trung miêu tả sinh
động những thác nước và đá Sông Đà.( thác đá SĐ)
-ý 1: Thứ nhất là thác SĐ được nv cảm nhận khi ở xa, qua thính giác: âm thanh nước
thác, qua đó làm hiện lên vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội của sông Đà: Nguyễn Tuân như một nhạc
trưởng, đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió, thác , sóng,
đá.
Từ xa “còn xa lắm mới đến cái thác dưới”, tuy chưa được nhìn nhưng đã nghe
thấy: SĐ với muôn vàn giọng điệu: ban đầu“nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”. Có thể nói không như cách
miêu tả âm thanh thông thường của thiên nhiên ầm ầm, rào rào ... mà nhà văn còn sử dụng
nhân hóa những từ chỉ trạng thái, thái độ của con người để gán lên âm thanh của tiếng thác
nước: oán trách ....đang chứa trong mình mình nhiều tức giận, hận thù, .... Nhà văn đem đến
cho người đọc cảm giác đang đón đợi con thuyền là một đối thủ rất hung hăng hiểm ác.
Thác đá khi lại gần thì âm thanh được phóng to hết cỡ, khủng khiếp chưa từng thấy,
các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn
phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa như đổ lửa,…đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Phép nhân hóa, so sánh, những câu văn trùng
điệp, liên hoàn, nhịp văn ngắn, tạo giọng văn dồn dập, gấp gáp căng thẳng, những từ ngữ
cực tả trạng thái dữ dội gợi ấn tượng hãi hùng rùng rợn về sức hủy diệt khủng khiếp kết
hợp với sự liên tưởng vô cùng phong phú. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông
Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa mạng sống con người
ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Hệ thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung
bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung
bạo của dòng sông.
Tiếng thác nước SĐ như tiếng rống của 1000 con trâu mộng đang hoảng sợ, cộng
hưởng với những tiếng nổ lớn của rừng vầu tre nứa cháy , tiếng xèo xèo của da trâu cháy
bùng bùng. Bằng những động từ mạnh liên tiếp “ rống; nổ lửa; phá tuông; gầm thét; cháy
bùng bùng” đập vào giác quan người đọc, âm thanh của thác nước SĐ gợi không khí quay
cuồng, bỏng rát của một trận động rừng, động đất hay phun trào núi lửa thời tiền sử. Tiếng
rống là âm thanh lớn, âm vực cao, nhưng không phải một mà là hàng ngàn. Sự cộng hưởng
đông đảo đó làm cho âm thanh phá tan cả không gian. Đặc biệt là bước chân của những con
trâu mộng đang hoảng sợ, giẫm đạp, phá tuông, hoảng loạn. Ta có thể hình dung ra khung
cảnh hỗn loạn đó, với thân hình to lớn đồ sộ lại đông đảo cùng chạy ra khỏi rừng lửa. Những
bước chân trâu chạy không chỉ gợi âm thanh mà còn cho ta thấy sức mạnh như rung trời,
chuyển đất.
Tuy chưa được chứng kiến trực tiếp, chỉ qua việc tả âm thanh, người đọc cũng đã cảm
nhận được sự kì vĩ, hiểm trở của thác đá SĐ. Nhất là bằng nghệ thuật miêu tả độc đáo là lấy
lửa để tả nước, dùng rừng tả sông, lấy hình sắc để vẽ âm thanh, đem những yếu tố vốn
tương khắc, giờ lại hòa hợp để tương sinh, tạo hiệu quả nghệ thuật bất ngờ cho việc khắc họa
hình tượng SĐ. Qua đây, ta thấy sức mạnh của ngòi bút tài hoa, trí tưởng tượng tuyệt vời
của một bản lĩnh hiếm có Nguyễn Tuân.
- Ý 2: Khi chạm mặt với Thác nước là đá SĐ
Câu văn ngắn “Tới cái thác rồi” – giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú. Tới thác
là đá .
Thứ 1: Đá ở đây rất nhiều: Chỉ bằng 1 câu văn: “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá”. Tính từ trắng xóa lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió về bọt nước trào
sôi mãnh liệt. Để sóng bọt tung trắng xóa cả không gian, trước hết, thác phải rất cao, thứ hai,
lòng sông phải toàn đá. Có như vậy, độ va đập khi nước chạm lòng sông mới làm văng lên
những bọt nước, mới trắng xóa che lấp cả tầm nhìn gần. Nhưng ấn tượng là cụm từ “chân
trời đá” cụm từ này nói lên sự hùng vĩ tới choáng ngợp, lổm ngổm, ngổn ngang toàn đá là
đá. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng, gió kết hợp với nhau cùng tấn công uy hiếp con
người.
-Thứ 2, Đá sông Đà mang diện mạo như một lũ tướng dữ quân tợn. Thạch trận
không chỉ hung hãn mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo quyệt: “mặt hòn đá nào cũng
ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó... Một hòn trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi con
thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến, một hòn khác lại lùi lại 1 chút thách thức con
thuyền có giỏi thì tiến vào. Chúng giống như lũ du côn hiếu chiến. Và khi thua trận thì “ Cái
mặt tiu nghỉu xanh lè”.
Tiếp theo, Đá ở đây không nằm ngồi theo sở thích mà đang dàn bày thạch trận,
mỗi hòn đá có nhiệm vụ riêng : Sông Đà “bày thạch trận trên sông”. Sông Đà còn lắm
mưu nhiều kế, bày bao nhiêu mưu ma chước quỷ và sự nham hiểm để sẵn sàng ăn chết con
người, để chực nuốt chìm những con thuyền non tay lái.
+ Thạch trận SĐ là một trận đồ bát quái. Dù không đủ 8 cửa nhưng vẫn có cửa sinh,
của tử. Chia thành 2 tuyến tiền vệ , hậu vệ dàn hàng ngang để chặn những con thuyền muốn
vượt. Vòng đầu nó mở ra 5 cửa trận, có 4 của tử 1 của sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn.
Vòng 2 này lại tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền và của sinh lại bố trí lệch qua
bờ hữu ngạn. Vòng thứ 3 nữa vòng này ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết
cả. Luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ ở con thác chỉ trực để nuốt chửng, nhấn chìm bất
cứ vật nào chẳng may đi qua.
Đá sông Đà từ ngàn năm vẫn mai phục lòng sông kiên nhẫn và bền bỉ, cứ con thuyền
nào đi qua là nó hung hãn gây sự “ nhổm dậy vồ lấy thuyền”. Đá SĐ đã bày thạch trận trên
sông như một trận đồ bát quái dìm bắt bất cứ con thuyền nào qua đó: những tảng đá ngầm
dưới lòng sông luôn chờ chực tiêu diệt người lái đò …mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền”. Sử dụng thuật ngữ của
quân sự, trên cơ sở những quan sát thực tế, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái bí ẩn, hiểm ác của
đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi “ngàn năm vẫn mai phục”, khi dữ dằn,
đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để “nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền”.
+ Bằng thủ pháp nhân hóa, Những hòn đá vô tri nhưng qua cái nhìn của NT chúng mang vẻ
du côn, thiên nhiên hoang dại hung dữ với trùng vi thạch trận nhằm tước đoạt và hủy diệt
đến cùng sự sống của con người: chúng giở mọi thủ đoạn, mưu ma chước quỷ để dẫn dụ,
phục kích...Đó là thứ “ binh pháp” sâu hiểm của thần sông thần đá
+ Sự kết hợp giữa sóng nước SĐ với trùng vi thạch trận tạo nên chân dung loài thủy quái
khổng lồ với những mưu ma chước quỷ để lừa người lái đò vào thế trận đã bày sẵn. Nhà văn
đã miêu tả sinh động sự độc ác, xảo quyệt và hết sức nguy hiểm của những con thác đá. Khi
thì nó mai phục để đột nhiên nhổm cả dậy, vồ lấy con thuyền rơi chỗ ngoặt sông. Khi nó tỏ
ra sơ hở để dụ con thuyền vào sâu hơn để bất ngờ đánh khuýp vu hồi, Khi đã giáp lá cà thì
nó liều mạng đánh đòn hiểm ác đòn âm, đòn tỉa, thúc gối, đá trái, đá phải vào bụng vào
hông thuyền. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò, lật ngửa bụng
thuyền, bóp chặt hạ bộ người laí đò, vừa đánh vừa hò la vang trời để áp đảo tinh thần đối
phương. . Trong con mắt của nhà văn, khúc sông này tựa như một khu căn cứ quân sự
kiên cố được cài đặt trong đó là những boongke chìm, pháo đài nổi và dưới sự chỉ huy
của vị tổng tư lệnh Sông Đà .

->Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá bằng
sự phối hợp giữa các tri thức của các ngành nghề khác nhau như: võ thuật, quân sự, hội họa,
điêu khắc …, kết hợp với thủ pháp nhân hóa, liên tưởng, so sánh, ví von những câu văn dài
ngắn, đan xen đầy tính tạo hình, góc cạnh, gân guốc. Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy
tạo bề dày uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng.
*Nhận xét:
Tóm lại, bằng những câu văn giàu góc cạnh, tạo hình với những động từ mạnh,
lối ví von, những liên tưởng tưởng tượng chính xác, bất ngờ, thú vị Nguyễn Tuân như
truyền hồn vía vào cảnh vật đã làm cho thiên nhiên sống động hấp dẫn đã xây dựng
hình tượng con sông Đà vừa hung bạo, tàn ác vừa khôn ngoan, mưu trí mang “diện mạo và
tâm địa kẻ thù số một”. Sông Đà đúng như một con ngựa bất kham, 1 mụ dì ghẻ, một thằng
chúa đất độc ác, là biểu tượng cho sức mạnh sự hùng vĩ của thiên nhiên. C ũng chính từ hình
ảnh con sông Đà đã tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và vô cùng uyên bác của một
ngòi bút số một về thể loại tùy bút – Nguyễn Tuân.

Nhận xét PCNT/ Cái Tôi NT: DĐ, TH,UB


- Không thích cái tầm thường tẻ nhạt, Thích cái mạnh mẽ, phi thường
- Cảm nhận SV phương diện VHTM, con ng pd THNS
- SĐ hiện lên sống động : DM, TC,TH như con người
- Ngôn ngữ giàu sức tạo hình biến hóa linh hoạt-> Thầy phù thủy ngôn từ
- Vận dụng nhiều tri thức hiểu biết các lĩnh vực liên ngành....
- SD nhiều biện pháp tu tư: SS, NH, LTTT bất ngờ thú vị
KL:
Đây là đoạn văn.......p/c nhà văn
Tp ca ngợi vẻ đẹp..........tình yêu qhđn
“Nhà văn là người dẫn ng đọc đến thiên đường của cacis đẹp”......NT đã giúp cho
ng đọc thấy được vẻ đẹp của....từ đó thêm yêu.....
Bụi thời gian..........NLĐSĐ xứng đáng là TP tùy bút hay nhất của NT.....

SĐHB SĐTT NLĐ


- Không thích cái tầm SĐ TT thơ mộng: SĐ Đẹp - NLĐ đời thường
thường tẻ nhạt, Thích như mĩ nhân: Thiếu nữ TB - Tài hoa nghệ sĩ: Tài
cái mạnh mẽ, phi - Câu văn nhiều thanh năng siêu phàm trong
thường bằng êm ái du dương nghề nghiệp
- SĐ hiện lên như 1 tên như bài thơ bằng tùy - T/ c dũng cảm kiên
chúa đất mụ dì ghẻ, bút cường như ng anh
kẻ thù số 1 con - Dùng nhiều tính từ, hùng
người... liên tưởng , ss bất ngờ - -> QN mới mẻ về
- SD nhiều động từ thú vị CNAH
mạnh, liên tưởng - VD tri thức hội họa, - Ca ngợi ng lao động
tưởng tượng bất ngờ thơ ca, trong công cuộc xd
thú vị - Ng đọc như ngắm đất nước” ‘ chất vàng
- Vận dụng tri thức nhìn bức tranh sơn mười qua thử lửa”
Địa lí, lịch sử, TT, mài ->Ca ngọi vẻ đẹp
VT... ds thêm yêu ĐN
- Câu văn giàu góc
cạnh, nhịp ngắn , dồn
dập sức mạnh SĐ

………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………

Đầu tiên, Nguyễn Tuân miêu tả Sông Đà ở Đá 2 bờ sông dựng vách thành
…….……………………………………………………………………………………………+
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………+
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
+…….…….
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………….

Tiếp theo nhà văn miêu tả SĐ dữ dội, hiểm trở ở mặt ghênh Hát Loong
…………………………………………………………………………………………
…..………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
a3.Đặc biệt, ………………………………………………………………………….
+về “diện mạo”
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
+Âm thanh
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………….
+ sức mạnh
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
+ qua góc nhìn điện ảnh.
Chuyển ý:
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
thác nước và đá Sông Đà.( thác đá SĐ)
-ý 1: Thứ nhất là thác đá khi ở xa, qua cảm nhận của thính giác:
Từ xa
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………
lại gần
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………….
…………………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
- khi chạm mặt
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………

dàn bày thạch trận :


…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Vòng1………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………..

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………….
*Nhận xét:
bTính cách trữ tình thơ mộng của sông Đà
Mở Bài:

………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……
Đoạn cổ
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………

Đầu tiên, Nguyễn Tuân miêu tả SĐ từ trên cao nhìn xuống


…………………………………………………………………………….. .....……………….
………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….. ……………......
……………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………….
Nghệ thuật …………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
b2, Từ trong rừng đi ra Sông Đà lại mang vẻ đẹp.............................................. đẹp.....
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………
Đặc biệt, khi ngồi trên thuyền xuôi SĐ SĐ,…….
……………………………………………………………………………………………+
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………+
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
+…….…….
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………………
…..………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
*Nhận xét: Kết Bài:
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………

lại gần
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………….
…………………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………….
- khi chạm mặt
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………

dàn bày thạch trận :


…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Vòng1………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………… b. Tính cách
trữ tình thơ mộng của sông Đà:
Mở bài: ….
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………Đặc biệt là đoạn văn từ “….’” đến “ … “ NT đã
tập trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng sông
Thân bài
LD1: Vẻ đẹp TMTT của SĐ đc NT giới thiệu qua lời đề từ trong TP. Lời đề từ: Đẹp
vậy…………………..Đây là câu thơ của …………………..
LĐ 2: Vẻ đep TMTT của SĐ đc nv miêu tả quan sát từ nhiều góc độ:
chuyển ý:
Nếu trên……………………, Sông Đà hung hãn và cuồng nộ bao nhiêu thì đến
……………SĐ lại trở nên dịu dàng và thơ mộng bấy nhiêu. Dòng sông hung hãn đã thay
tâm đổi tính trở thành dòng sông thơ mộng, hiền hòa, dòng sông thiếu nữ.
b1. Dòng sông thơ mộng, hiền hòa mang vẻ đẹp yêu kiều duyên dáng của thiếu nữ Tây
Bắc:
Trước hêt, nhìn từ…………………, Sông Đà mang dáng dấp ngoằn ngoèo như
……………………….. Từ trên máy bay nhìn xuống “…..................................
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………..”
Đây là 1 câu văn ………..co duỗi nhịp nhàng, kết hợp với điệp từ …………….âm điệu
uyển chuyển. Vừa gợi tả sinh động độ dài bất tận của ………..vừa khiến ng đọc liên tưởng
dòng sông như một mái tóc óng ả của một thiếu nữ. Phải chăng đó là thiếu nữ Tây Bắc hay
một cô gái Thái?. Nhà văn đã có sự nối tiếp truyền thống trong ca dao và trong vh viết:
Cầu cong như ………………
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ
Ở đây, Nguyễn Tuân còn có sự bổ sung sáng tạo hình ảnh so sánh đã khiến cho
người đọc Một sông Đà thật đẹp như 1 thiếu nữ TB với mái tóc dài mượt mà ấy lại được
cài bởi màu trắng của bông hoa Ban, màu đỏ của hoa Gạo và ẩn hiện trong mây trời sương
khói của Tây Bắc. Nghĩa là Sông Đà cài lên mây trời Tây Bắc cả sắc màu Tây Bắc, những
đặc trưng của linh hồn Tây Bắc mà hơn một lần Tố Hữu đã ngợi ca “ Mường Thanh, Hồng
Cúm, Him Lam/ hoa Mơ lại trắng vườn cam lại vàng”.Nguyễn Tuân cho thấy:Sông Đà trở
thành 1 tác phẩm tuyệt mĩ mà tạo hóa ban tặng cho thiên nhiên Tây Bắc..
Như vậy, Đà giang và mây trời Tây Bắc đã mang đến cho tâm hồn người đọc những
rung động tinh vi, những cảm xúc nhẹ nhàng. Hình ảnh dòng sông dữ dội như mờ phai
trong kí ức, giờ chỉ còn dòng sông “ lững lờ như thương nhớ những hòn đá thác xa xôi nơi
thượng nguồn Tây Bắc.
Cùng với hình dáng dòng sông mềm mại thướt tha, Nguyễn tuân còn phát hiện ra vẻ
đẹp khác của Sông Đà. Đó là sắc màu nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa
xuân……………………………………………………………………………….
. Có nghĩa là nước sông Đà mang một màu xanh ………………………................
…………………………………………………………………………………………
Mùa thu nước sông Đà ……………………………………………..sắc nước mùa lũ đỏ bởi lớp
phù sa cuộn xoáy trong lòng sông. Màu sắc sông Đà giống da mặt người uống rượu bữa,
cách so sánh thật gần gũi và thú vị. Nó không chỉ hiện lên màu nước rất đặc trưng của
nước SĐ vào mùa thu mà còn hé lộ cho ta thấy tính cách của dòng SĐ , một con sông trái
tính trái nết “ thoắt hiền lành ngay đấy rồi bỗng chốc lại gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Bên cạnh vẻ đạp của sắc nước SĐ , NT còn khảng định
…………………………………………………………………………………….
………………………………………………………. Qua cách nói của nhà văn ta thấy
tác giả đã tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông và bày tỏ tình cảm yêu mên tự hào với con sông
xứ sở.
b2. Tiếp đến nhìn từ trong rừng đi ra, sông Đà mang vẻ đẹp vô cùng gợi cảm:
Dẫn : Nguyễn Tuân viết SĐ bằng ngòi bút dạt dào cảm xúc và ông thấy nó là một con
sông thật gợi cảm.Sông Đà là một nàng thơ
Thứ 1: Sông Đà “gợi cảm” như một “…………….”. Hai chữ “…………….” vừa là
hình ảnh ……………….dòng sông như một người bạn cũ xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui
khôn xiết, vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn, cổ kính, xưa cũ của Đường thi.
Đặc biệt là niềm vui còn được nhà văn sử dụng những câu văn tràn ngập những cấu
trúc so sánh đặc sắc. Để bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng
sông thấy “loang loáng như………………………………………” là cái nhìn của một người
chưa ra tới cửa rừng, mới chỉ nhìn thấy dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa
những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát…
+Khi liên tưởng mặt sông giống như “cái miếng sáng lóe lên một màu
nắn……………………..”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho Sông Đà vẻ lãng mạn của hoa khói,
sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân, tỏa ra từ câu thơ vời vợi nhớ nhung được coi là “thiên cổ
lệ cú” của Lý Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn đã làm
xao xuyến những tâm hồn chưa hề nguôi nỗi tiếc nuối nhớ nhung với những phong vị Đường
thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà
không chỉ chảy trong không gian, mà như còn tha thiết trong dòng thời gian miên viễn xa
xăm của Đường thi. Đây là màu thứ 3 trong sắc nước của Sông Đà: màu nước này nảy sinh
trong ý định sáng tạo của chủ thể: “màu nắng tháng 3 Đường thi”-sắc màu không tồn tại
trong hội họa mà hiện lên trong cảm hứng thăng hoa của người nghệ sĩ, là sự liên tưởng độc
đáo khiến nắng SĐ như ngậm thơ, ngậm họa –màu nước ấy khiến NT muốn đề thơ vào sông
nước. Đó là chất lãng tử, nghệ sĩ NT.
Cảnh vật ở bờ bãi cũng trở nên gợi cảm, say đắm lòng người. “Bờ sông Đà, bãi sông
Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”. Nguyễn Tuân như đắm mình vào ngày hội
xuân của Chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng giòn tan trên sông. Hai chữ “sông Đà” điệp
lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những
khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang, tạo cảm giác như nhà văn đang hân
hoan ngợp giữa không gian Sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian
ấy, không kịp bình tĩnh quan sát bằng lý trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều
bị cuốn đi, dồn dập, gấp gáp theo nỗi khát khao.
Cảm xúc gặp lại sông Đà còn được nhà văn cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ
thú vị: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng”. Nắng tuy hữu hình nhưng lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể
nắm bắt, “giòn tan” là chính từ thường chỉ đặc điểm sắc thái của những vật thể mỏng manh
dễ vỡ. Nắng “giòn tan” là một ẩn dụ đẹp gợi tả cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và
thật nhẹ; nó vừa mong manh, vừa quý giá, nó tương phản hoàn toàn với cái u ám trĩu nặng
của bầu trời những ngày “mưa dầm”, giúp người đọc dễ dàng hình dung cảm giác trìu mến,
nâng niu của nhà văn khi gặp lại con sông. Và sự nối lại giấc mơ càng hy hữu hiếm quý bao
nhiêu, càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu. Nhà văn của những khát khao đã
nhiều lần tới sông Đà và bất cứ lúc nào nếu muốn, ông cũng có thể đến với người cố nhân
của mình, vậy mà qua so sánh “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng” có thể thấy cảm giác
khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới kỳ diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, lần
nào cũng như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần nào cũng như lần đầu
tiên, cuối cùng và duy nhất.
Và cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, nó “đằm đằm
ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, một tri âm với
bao kỷ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại, bao chung thủy trong
tương lai đến, một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp dẫn đến lạ kỳ.
*Nhận xét:Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và
bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự
hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm
có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt
b3. Không những vậy, ngồi trên thuyền đi Sđa, đôi bờ sông thật ấn tượng, người đọc
như lạc vào thế giới cổ tích, thời tiền sử.
- Trong đó có câu mở đầu: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn thanh
…………………………………Tạo tâm thế 1 cuộc du ngoạn, gợi hình ảnh con đò đang
lặng lẽ trôi. Nó đưa người đọc vào thế giới cổ tích yên ắng lặng tờ của thời tiền sử.
- Sông Đà còn đẹp trong sự lặng tờ. +Khi thác ghềnh đã lùi lại phía sau chỉ còn trong trí
nhớ. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ thời Lí Trần, Lê quãng sông này cũng
lặng tờ đến thế mà thôi.” 2 câu văn ngắn mà Nguyễn Tuân nhắc đến 2 lần “ lặng tờ” nhấn
mạnh nét riêng của khung cảnh cái không khí yên ắng, tĩnh lặng khác thường của dòng
sông nơi đây. Quãng sông này khiến ta liên tưởng đến ……………………………………..
+“Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Người ta thường hay so sánh với những cái cụ thể, Nguyễn Tuân lại so sánh với những cái
trừu tượng để người đọc chìm sâu hơn nữa trong ảo giác. Ta càng hiểu vì sao con người lại
thèm nghe 1 tiếng còi xúp lê. Đó là sự thèm khát nghe 1 âm thanh để thoát khỏi cái lặng tờ
của cảnh vật. Thế nhưng chính cái âm thanh mà con người muốn nghe ấy dường như lại
tạo ra cái cớ để cảnh và người ở trong không khí đượm màu cổ tích.
+Trong không khí đượm màu cổ tích ấy, người ta thấy vẻ đẹp của sự sống non tơ trải dọc
đôi bờ, cỏ non ra nõn búp ngon lành 1 con hươu thơ ngộ ngẩng đầu khỏi áng cỏ sương,
những nương ngô xanh biếc, những sự sống tươi nonthay theescho những bãi bờ hoang
vắng.
- Cảnh nên thơ, con người như sống trong giấc mơ, cõi mộng. Tác giả như sực tỉnh
trong giấc mơ ban ngày giữa mênh mông trời nước để đến với cảnh tượng cũng đẹp như
một giấc mơ:
+Đó là lúc nhà văn được nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên mặt nước bụng trắng như bạc
rơi thoi.
+ Tiếng cá đập nước làm đàn hươu vụt biến. Đủ thấy sự yên ắng lặng tờ đến mức tuyệt đối.
- Sông Đà ở hạ lưu êm đềm lững lờ trôi. Điều này các nhà tự nhiên học rất dễ giải thích.
Còn Nguyễn Tuân lại giải thích bằng sự cảm nhận của người nghệ sĩ. Nhà văn cho rằng:
Sông Đà lững lờ trôi như thế vì nó thương nhớ thác đá thượng nguồn. Hay là nó đang lắng
lại để nghe giọng nói êm ái của người dưới xuôi và tưởng như nhà văn đang lắng lại bồi
hồi giữa cảnh sắc quê hương đất nước.
Đánh giá: Đây là ………………………………………………………
…………………………..Nguyễn Tuân muốn đề thơ vào sông nước. ông đã viết bài thơ
bằng văn xuôi về dòng sông TM trữ tình với khám phá độc đáo khác thường. NT là nhà
văn theo CN ………….dấu chân ……………………………………… thoa mãn thực đơn
……………………………Say mê ……………………..ca ngợi vẻ đẹp áy trong mối qh
với NLĐ
Kết Bài:
Tóm lại, chúng ta thấy Nguyễn Tuân giống như 1 nhạc trưởng tài hoa trong việc điều
khiển ngôn từ, cách dùng từ mới mẻ vốn ngôn ngữ giàu có, lối nhân hóa, ví von bất ngờ
giàu cảm xúc và đặc biệt vận dụng hiểu biết về các tri thức liên ngành, Nguyễn Tuân đã
cung cấp cho người đọc những kiến thức vô cùng phong phú về 1 dòng sông nổi tiếng của
mảnh đất Tây Bắc. Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân đã khẳng định chắc chắn trong
lịch sử văn học với một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác, một tâm hồn tràn ngập
yêu thương. Nguyễn Tuân đã đem đến cho độc giả tình yêu và lòng tự hào tha thiết với
quê hương đất nước mình. Vì thế mà mỗi trang văn của NT như những tờ hoa, trang hoa
đẹp đẽ. Sông Đà nói riêng và tùy bút “Người lái đò SĐ” chính là áng thơ trữ tình bằng văn
xuôi ca ngợi tổ quốc giàu đẹp, thể hiện niềm tin yêu về cuộc sống mới đang diễn ra trên đất
nước ta.
1. Hình tượng ông lái đò:
Mở bài :
Nguyễn Tuân là một “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, là nhà văn, nhà văn hóa
lớn có đóng góp quan trọng trong nền văn học nước nhà. Mỗi trang văn của Nguyễn Tuân
đều thể hiện sự độc đáo, uyên bác, tài hoa. Đặc biệt ông luôn tiếp cận con người ở góc độ tài
hoa nghệ sĩ. Cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi
trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc
sắc trong đó có tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Người đọc không chỉ thấy được thiên nhiên
Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng mà còn biết đến vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc qua hình
ảnh người lái đò trên sông Đà,
Thân bài:
“Người lái đò Sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc, là tác phẩm tiêu
biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ tái hiện dòng sông
Đà là một cảnh trí thiên nhiên mà ông còn đi tìm “cái thứ vàng mười đã qua thử lửa”.
“Vàng” ở đây không hiểu theo nghĩa đen mà nhà văn muốn nói đến vẻ đẹp quý giá trong
phẩm chất của con người Tây Bắc. Những vẻ đẹp ấy không dễ gì tìm thấy, nó đang náu mình
trong mảnh đất xa xôi. Nhà văn phải là người tìm kiếm sàng lọc để phát hiện ra vẻ đẹp ấy.
Tất nhiên trong tuỳ bút, Nguyễn Tuân không thể nói hết “chất vàng mười” của con người
Tây Bắc trong cuộc sống lao động, nhưng ông cũng đã tái hiện và khẳng định được vẻ đẹp
của những con người miền đất này thật quý giá, thật lạ thường qua nhân vật người lái đò.
Thật vậy, có thể nói Nguyễn Tuân đã viết về người lái đò với những lời lẽ đẹp nhất.
Hình ảnh người lái đò trên sông chính là đối tượng của cái đẹp, lấp lánh ánh sáng của
người tài hoa nghệ sĩ, Người lái đò – người nghệ sĩ. Bởi lẽ ở đây chở đò lái đò là cả một
nghệ thuật cao cường đầy tài hoa. Nghệ thuật ấy vừa thể hiện ở cả phương diện chân dung
và tính cách của ông lái.
+ Đầu tiên, Nguyễn Tuân đã từng miêu tả lai lịch, ngoại hình ông lái đò. ông sinh ra
và lớn lên ngay bên bờ sông Đà “quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh Lai Châu”. Phần
lớn cuộc đời ông dành cho nghề lái đò dọc trên sông Đà, một nghề đầy gian khổ và nguy
hiểm.

Ngoại hình của ông cũng khá đặc biệt. Là một ông già gần 70 tuổi, nhưng thân hình
dường như vẫn cường tráng lắm. “Cái đầu quắc thước đặt trên một thân hình cao to gọn
quánh như chất sừng mun. Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào khuỳnh gò lại
như kẹp lấy cái cuống lái trong tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt
ghềnh...Đặc điểm ngoại hình của ông đò tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động.
Dấu ấn của công việc như in hằn lên ngoại hình của ông
Trước khi vào đoạn trích trong sgk, Nguyễn Tuân đã dành những trang văn ca ngợi
ông lái đò.
Ông là một người từng trải, thông minh, rất thành thạo trong nghề lái đò.
+Ông am hiểu tường tận dòng sông Đà như thuộc lòng một bản trường ca mà “ông đã
thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Ông nhớ tỉ mỉ như
đóng đanh vào những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Nắm chắc những
cửa tử cửa sinh trên thạch trận Sông Đà. TRÌNH BÀY CÁC TRÙNG VI THẠCH TRẬN
+Hiểu được quy luật phục kích của lũ đá nơi cửa ải hiểm trở. Ông là người như được sinh
ra từ sông nước và cũng là người chế ngự được sông nước.
+Bởi ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích của lũ đá
nơi cửa ải.
Đặc biệt, ông lái đò là người lao động vô cùng dũng cảm và tài trí. Điều này thể
hiện qua cuộc vượt thác sông Đà của ông lái đò, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào tình
huống thử thách phải chiến đấu với dòng sông Đà hung dữ, Nguyễn Tuân đã tái hiện cảnh
đá dựng vách thành, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn gùn ghè, những cái
hút nước thì như cái giếng bê tông để làm móng cầu, Nước thở, kêu như của cống cái bị
sặc... Đặc biệt là thác nước hung dữ ở xa nghe như oán trách như van xin giọng gằn và chế
nhạo. Lại gần thì trắng xóa cả một chân trời đá, đá mai phục hàng năm để sẵn sàng vồ
được con thuyền nào qua. Hình thù của chúng thật khủng khiếp “ mặt thằng nào trông cũng
ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó.
Ông lái đò phải vượt qua 3 trùng vi thạch trận trên sông. Ông lái đò giao chiến như
một dũng sĩ.
+ Đầu tiên, ở trùng vi thạch trận thứ nhất, người lái đò hiện lên là người rất dũng
cảm, bản lĩnh cao cường trong nghề vượt thác. Ông tỏ ra rất bình tĩnh ung dung.
Thần sông dàn ra 5 cửa đá, pháo đài đá thì có đến 4 của tử, của sinh duy nhất nằm lập lờ
sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng sóng
hung tợn thi nhau đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đòn âm “ liều mạng vào sát nách mà đá
trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền” đòi lật ngửa bụng thuyền. Thậm chí còn nhằm
vào người cầm lái mà đánh đòn tỉa đòn âm... đánh cả những đòn hiểm độc luồng nước bóp
chặt hạ bộ của ông lái đò, làm ông đò bị thương. Mặt nước thì hò la vang dậy ùa vào mà
đòi bẻ gãy cán chèo, bẻ vũ khí của ông đò. Ông đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con
thuyền khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa đang phóng thẳng vào mình Cảnh này khiến ta
liên tưởng đến tiếng trống cổ vũ tinh thần chiến đấu của những trận đánh xưa. Tình thế của
ông đò thật là ngặt nghèo. Vậy mà ông đò không nản trí không đầu hàng, ngay cả lúc trúng
đòn hiểm mặt méo bệch vì đau đớn ông vẫn nén đau 2 chân kẹp chặt cuống lái, tỉnh táo chỉ
huy các bạn chèo đưa con thuyền lướt vào đúng của sinh.
Với lòng dũng cảm phi thường, người lái đò đã phá xong trùng vi thạch trận thứ 1. Ngay lập
tức bước sang trùng vi thứ 2.
+ Tiếp đến, Ở trùng vi thứ 2 ông đò hiện lên không chỉ là người dũng cảm mà ta còn có
cả sự thông minh, tài ba trong việc xử lí tình huống nguy hiểm một cách tài tình linh
hoạt. Ở trùng vi thạch trận thứ 2 này dòng sông thay đổi cả sơ đồ phục kích và đổi cả chiến
thuật. Dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử và của sinh lại bố trí lệch ở phía hữu ngạn. Nhưng
ông đò đã thuộc lòng và nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Nên lập tức nhận ra
cạm bẫy của bọn thủy quân nơi ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên
sóng thác. Ông nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng rồi ghì cương lái phóng nhanh vào cửa
sinh mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy. Ông đò chẳng khác gì một dũng tướng
có gan cưỡi hổ phải cưỡi đến tận cùng. Ông đã điều khiển con thuyền giống như điều khiển
một con ngựa bất kham. Trên đường đi, người lái đò đã tả xung hữu đột như một chiến tướng
dày dặn kinh nghiệm trận mạc và có thừa lòng quả cảm: Ông đò đã nhớ mặt bọn đá ở nơi cửa
ải nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi để mở ra
đường tiến... Cuối cùng ông đã đưa được con đò vượt qua cả một tập đoàn cửa tử khiến cho
những mặt thằng đá hung hăng, dữ tợn phải “ xanh lè thất vọng”.
+Chưa phải đã hết nguy hiểm, đặc biệt, Ông đò lại phải đương đầu với trùng vây thứ 3.
Thạch trận ít cửa hơn nhưng cả hai bên đều là luồng chêt. Cửa sinh lại nằm ở giữa lòng sông
và có cả bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không lúc nào bất ngờ trước những mưu mô
hiểm ác của chúng. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông, con thuyền đã thành con Tuấn
mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3
tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian “ vút vút, cửa ngoài
rồi cửa trong, rồi cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái, lượn...” để cuối cùng những hòn đá ngỗ ngược kia cũng chỉ biết
tiu ngửu cái mặt xanh lè thất vọng nhìn con thuyền đi qua cửa sinh.
Như vậy, Nguyễn Tuân đã tái hiện một quang cảnh dữ dội ở đó diễn ra cuộc chiến đấu giữa
con người với đá nước SĐ. Đây là cuộc chiến không cân sức. Một bên là thần sông, thần đá
với lực lượng hùng hậu của sóng, thác, đá. Ông lái đò chỉ có 1 chiếc thuyền mong manh với
cán chèo là vũ khí, người nhỏ bé giữa những luồng thác dữ. Ba trùng vi thạch trận đầy cửa ải
đã không ăn chết 1 con thuyền đơn độc. Với kinh nghiệm đò giang sông nước, với trí tuệ của
người lao động nên dù chỉ có trong tay 1 mái chèo, ông lái đò vẫn có thể phá thành vượt ải
như một chiến tướng bách chiến bách. Trong trận chiến gian lao trên chiến trường sông Đà
thì ông lái đò chính là một người anh hùng tài hoa và trí dũng tuyệt vời. Không phải là anh
hùng trong chiến đấu chống kẻ thù xâm lược mà là anh hùng trong lao động, anh hùng trong
nghệ thuật vượt thác ghềnh. -> Quan sát trận thủy chiến mới thấy Nguyễn Tuân chú tâm
miêu tả cái hung bạo, dữ dội của Đà Giang để tạo nên một “ địch thủ” tương xứng có khả
năng tôn vinh con người.
Không chỉ vậy, miêu tả người lái đò vượt sông, NT không chỉ cảm nhận được cái
dũng cảm của người anh hùng mà còn cảm nhận được chất tài hoa nghệ sĩ. Với cá tính
sáng tạo của mình, Nguyễn Tuân luôn nhìn các nhân vật của mình trên phương diện tài hoa
nghệ sĩ. Ông lái đò chính là một nghệ sĩ tài hoa trên lĩnh vực chèo đò, vượt thác. Qua 3 trùng
vi thạch trận ta thấy ông lái đò luôn mắt luôn tay luôn chân và luôn tim nhanh nhẹn khéo léo
như một nghệ sĩ xiếc thực thụ. Với tay lái ra hoa, ông đã đưa những con đò vượt thác và cập
bến bình yên không biết bao nhiêu lần. Cuộc sống của người lái đò là ngày nào cũng chiến
đấu, cũng giành lấy sự sống nên rất đỗi tự hào vậy mà ông đò chỉ coi đó là công việc rất đỗi
bình thường. Vì thế, khi phá xong trùng vi thứ 3, sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Trong
câu chuyện của nhà đò không ai còn nhắc đến cuộc vượt thác dữ dội, hiểm nguy nơi cửa ải
mà bình thản đốt lửa trong hang đá, ngồi nướng cơm Lam và chỉ bàn về cá Anh vũ cá Dầm
xanh.
Đánh giá: Có thể nói, ông đò xứng đáng là thứ vàng 10 của mảnh đất Tây Bắc. Nhà
văn nhìn cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp. Bài viết đã sử dụng những tri thức
uyên bác của các ngành như hội họa, điện ảnh, võ thuật, quân sự ...đặc biệt là lối viết phóng
túng, tài hoa, vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện rất độc đáo sáng tạo. Người lái đò là một
hình ảnh tuyệt đẹp về người anh hùng lao động bình thường nhưng tài hoa trí dũng trong
nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Nhà văn đã giành cho nhân vật những tình cảm đẹp đẽ, đằm
thắm. Từ đó nhà văn cũng ngụ ý rằng: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có trong chiến trường
mà ngay cả trong cs thường ngày. Trí dũng, tài ba không phải tìm ở đâu mà ở ngay những
người dân lao động bình thường. Người lái đò là biểu tượng của con người lao động chiến
thắng trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.

KẾT BÀI:
Nghệ thuật là một thế giới đầy ắp sự độc đáo. Người nghệ sĩ khi bước vào thế giới ấy luôn
phải trau dồi cho mình cá tính sáng tạo, phải biết hoàn thiện và đổi mới cách khám phá hiện
thực. Có như vậy những trang văn viết ra mới thực sự trở thành những trang hoa, mới được
bạn đọc đón nhận. Có thể nói, cuộc đời cầm bút của Nguyễn Tuân là cuộc hành trình làm
việc nghiêm túc, không biết mệt mỏi để khám phá, diễn tả cái đẹp của TN và con người. Bụi
thời gian có thể xóa nhòa mọi thứ nhưng những tác phẩm nghệ thuật có giá trị sẽ nằm ngoài
quy luật của sự băng hoại. Độc giả VN sẽ không thể nào quên hình ảnh sông núi Tây Bắc
với dòng Đà giang hung bạo, trữ tình và con người lao động tài hoa trí dũng trong Tùy bút
NLĐSĐ.

You might also like