You are on page 1of 9

1.

Hình tượng sông Đà: biểu tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, là “chất
vàng” của thiên nhiên đất nước.
a. Lai lịch
- Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc.
- Sông Đà có nhiều tên gọi: Đà giang, Li Tiên , Bả Biên Giang,…
- Sông Đà có nhiều ghềnh thác, luồng sóng nguy hiểm, nhưng cũng có những khúc sông ở hạ nguồn rất
trữ tình.
- Trong thời chiến, sông Đà gắn với lịch sử đấu tranh của nhân dân Tây Bắc.
- Sang thời bình, con người Tây Bắc nỗ lực chinh phục thiên nhiên, bắt con sông phục vụ cuộc sống, góp
phần kiến thiết đất nước.
b. Đặc điểm tính cách: Với nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Tuân xây dựng con sông Đà như một sinh
thể sống động có hành động, tâm trạng, tính cách đặc biệt, nổi bật hai nét tính cách đối lập: tính hung
bạo và tính trữ tình “chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng, thác lũ ngay đấy”. Các từ
“chốc”, “chốc” đi liền nhau thể hiện sự thay đổi trạng thái đột ngột, liên tục. Các cụm từ đối lập “dịu
dàng”, “bẳn tính”, “gắt gỏng”, “thác lũ” đã khắc họa nổi bật hai trạng thái của sông Đà. Khi thì êm
đềm, tĩnh lặng, lúc lại cuồng nộ, dữ dội, gây bao khó khăn cho con người.
b.1. Tính hung bạo: Là một nhà văn tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân luôn lựa chọn nhiều cách
thức thể hiện để tô đậm đối tượng được miêu tả, tạo cảm giác mãnh liệt. Do vậy, sự hung bạo của
sông Đà được thể hiện ở nhiều yếu tố trong đoạn trích được học.
- Ngay từ câu đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu” (Mọi dòng sông đều chảy về
hướng đông - chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc), Nguyễn Tuân đã tạo ấn tượng về nét phá cách, ngỗ
ngược của sông Đà.
- Với Nguyễn Tuân, sông Đà là “kẻ thù số một”, “hay làm mình làm mẩy”, “phản ứng giận dỗi vô tội
vạ” với người lái đò ở Tây Bắc.
- Trên trang viết của Nguyễn Tuân, sông Đà thật dữ dội, đầy đe dọa. Những gì thuộc về sông Đà đều
gây nguy hiểm cho con người.
 Sông đà hung bạo bởi những vách đá: có những đoạn, đá ở hai bên bờ dựng thành vách cao, chẹt
chặt lòng sông, rất nguy hiểm
 Nhà văn đã quan sát con sông ở nhiều góc độ: từ dưới nhìn lên bờ vách đá, từ trên nhìn xuống
mặt sông, từ bờ này nhìn sang bờ kia và từ trong khoang đò nhìn ra. Tác giả giúp người đọc cảm
nhận độ cao của vách đá, độ hẹp, tăm tối của lòng sông bằng nhiều cách:
- Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “vách thành” đã thể hiện được sự hùng vĩ , chứa đựng những bí ẩn,
đầy đe dọa của vách đá sông Đà.
- Tác giả dùng động từ “chẹt” cùng biện pháp so sánh“vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết
hầu” gợi ra khoảng thắt lại đầy nguy hiểm của một khúc sông.
- Nhà văn còn gợi liên tưởng đến độ cao của vách đá qua hình ảnh“mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới thấy mặt trời” .
- Hành động “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” của con người, cũng như hành
động “nhảy vọt từ bờ này sang bờ kia” của con nai, con hổ đã miêu tả rất cụ thể, sinh động độ hẹp của
lòng sông.
1
- Đặc sắc hơn cả là Nguyễn Tuân đã gợi liên tưởng nơi người đọc bằng cảm giác, lấy hè phố tả mặt
sông, lấy nhà cao gợi ra vách đá “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng
nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện..” tô đậm khung cảnh tối tăm, lạnh lẽo, ghê rợn của một lòng
sông hẹp, vắng lặng khi con thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông có đá dựng vách thành.
-> Sự uyên bác của Nguyễn Tuân thể hiện ở khả năng tưởng tượng và vốn từ phong phú.
 Sông Đà dữ dội bởi những mặt ghềnh gió rít dữ dội, sóng nước cuồn cuộn:
- Kết cấu câu trùng điệp “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”
- chân trời và sóng bọt tung trắng xóa:“Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
gió gùn ghè suốt năm...”
- Đoạn văn ngắt nhịp ngắn, nhanh và dồn dập; điệp từ, điệp cấu trúc nối tiếp với các hình ảnh luân
chuyển, thế chỗ nhau…đã tái hiện một cách sinh động quần thể sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất với
nước, sóng, gió và đá Sông Đà.
- Động từ xô được điệp lại trong ba vế câu => tạo ấn tượng về những chuyển động vĩnh hằng và sức
mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, của ghềnh thác.
- Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” như mô phỏng hình ảnh những
con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống,
cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh.
- Từ láy “gùn ghè” mang đậm sắc thái nhân hóa cùng hình ảnh so sánh “lúc nào cũng như đòi nợ xuýt bất
cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy” => thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo
của dòng sông đang ngày đêm hăm dọa và uy hiếp con người.
 +Dòng sông như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng của những ai đi qua đây, bởi “quãng
này nếu khinh suất không thận trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra” không giống như
dòng sông hiền hòa trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến đất nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

 Sông Đà hung bạo bởi nước thác đáng sợ: Nguyễn Tuân thể hiện rõ sự uyên bác khi:
- Dùng nhiều hình ảnh thị giác, thính giác tác động đến các giác quan nhằm gợi khả năng liên
tưởng nơi người đọc
 Khi còn xa mới tới thác:
“Còn xa lắm mới đến cái thác nước. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên ... Thế rồi
nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa...”

+ Nhiều động từ mạnh, đặt trong câu có nhịp điệu nhanh miêu tả rõ hình ảnh những “hút nước xoáy
tít đáy” cùng một con thuyền vô ý khi đi ngang, ngay lập tức bị cái hút nước “hút xuống”, thuyền
“trồng ngay cây chuối ngược”, “vụt biến đi”, “bị dìm đi”, “đi ngầm dưới lòng sông”, rồi mươi phút
sau thấy “tan xác” ở khuỷnh sông dưới giúp người đọc hình dung được sự dữ dội, đầy chết chóc của
một quãng sông Đà.
+Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước thác bằng một hệ thống những từ ngữ gợi tả âm thanh
theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng : “khi oán trách... van xin, khi khiêu
2
khích, giọng gằn mà chế nhạo... khi rống lên...” Nghệ thuật nhân hoá đã khiến thác nước sông Đà thực
sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, đe doạ con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.

+ Âm thanh của thác nước sông Đà được miêu tả ấn tượng qua nghệ thuật nhân hóa, so sánh, phối hợp
với từ láy, khi thì “nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, khi lại “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào”, lúc lại nhiều cung bậc“tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
+Đặc sắc nhất là những phép so sánh trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với hàng
“ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa ... rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng” nhà văn lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, khi đặt những hình ảnh tương phản trong
một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị: lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông...
Qua so sánh, tiếng thác đá sông Đà được hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng của một
loài động vật hung dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, lại kết hợp với âm thanh của những thân cây
vầu, tre khô, rỗng, nổ dữ dội trong lửa  âm thanh của thác đá đã được tác giả hấp thụ trọn vẹn bằng
thính giác, thị giác, xúc giác từ đó
 Khi thác hiện ra:
+Tác giả đã sử dụng câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: “Tới cái thác rồi.”
+Nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh: “sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời
đá”. Tính từ trắng xoá gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt cùng với hình ảnh
chân trời đá đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngày trong những ấn tượng
đầu tiên khi vừa gặp mặt.
+ Bằng thủ pháp nhân hóa, sông Đà không chỉ giống như thủy quái, hung thần nơi sông nước mà nó còn
khôn ngoan, hiểm ác nên thành ra có “diện mạo và tâm địa như 1 thứ kẻ thù số 1 của con người”: “Đá ở
đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng
âm âm mà hiu quạnh này thì một số hòn bên nhổm dậy để vồ lấy thuyền”.
+Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thở đá: “Cả một chân trời
đá...mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mỏ”...
Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên
nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vị thạch trận.

- Nhà văn dùng kiến thức nhiều lĩnh vực để miêu tả đối tượng
+ Nguyễn Tuân dùng kiến thức ở lĩnh vực xây dựng khi so sánh hút nước sông Đà như “cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”.
+ Kỹ năng vượt qua những hút nước nguy hiểm ấy được tác giả đúc kết bằng kỹ thuật lái xe “thuyền
nào qua cũng chèo nhanh y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn
cạp ra ngoài bờ vực”.
+ Nhà văn còn sử dụng kiến thức điện ảnh khi liên hệ một anh quay phim táo tợn ngồi vào chiếc
thuyền thúng tròn vành để quay những cái hút nước xoáy của sông Đà. Cái “xoay tít” của con thuyền,
của những thước phim màu cùng với hành động “lấy gân ngổi giữ chặt ghế” của người quay phim quả
thật để lại ấn tượng sâu đậm nơi độc giả,
3
- Nguyễn Tuân còn có sự sáng tạo trong bút pháp miêu tả: để tô đậm sự dữ dội của tiếng nước thác
sông Đà, nhà văn đã dùng lửa của rừng tre nứa cháy bùng bùng cùng tiếng rống của đàn trâu mộng bị
đốt cháy.
-> Trên trang viết, nước thác sông Đà hiện lên như một bầy thủy quái hung tợn, xảo quyệt.
 Sóng –thác- nước phối hợp khi cố tiêu diệt ông đò, làm cho sông Đà càng hung bạo: mặt nước “hò
la”, “ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái”, “thúc gối” vào “bụng và hông thuyền”, nước
“bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò”, sóng thác đánh nhiều kiểu “đánh khuýp quật vu
hồi, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm”. Vớ i vố n từ thể thao, quâ n sự , nhà vă n đã khắ c họ a
số ng độ ng sự nguy hiểm củ a con sô ng.
 Sông Đà hung bạo bởi thạch trận (trận đồ bằng đá) trên sông:
- Đá trên dòng sông Đà dường như đã được bày sẵn từ hàng ngàn năm trước thành một thạch trận trên
sông.
- Thạch trận vô cùng nguy hiểm với “đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông” gồm
hàng đá tiền vệ, sóng nước tuyến giữa và hàng đá hậu vệ. Mỗi hàng đều được phân công nhiệm vụ cụ
thể, hàng tiền vệ thì “dụ cái thuyền vào”, sóng nước tuyến giữa tung ra nhiều đòn tấn công hiểm độc,
tuyến cuối với “những boong-ke chìm và pháo đài nổi” phải “đánh tan con thuyền”, “tiêu diệt tất cả
thuyền trưởng, thủy thủ”.
- Mỗi vòng vây thạch trận có rất nhiều cửa tử, chỉ có một cửa sinh. Sông Đà bố trí cửa tử, cửa sinh,
luồng sống, luồng chết rất tinh vi, khi thì ở tả ngạn, khi ở hữu ngạn, khi ở chính giữa, rất khó lường,
gây rất nhiều khó khăn cho con người.
- Qua nghệ thuật nhân hóa độc đáo và hệ thống ngôn từ gợi hình, điêu luyện, Nguyễn Tuân đã truyền
hồn sống vào những thớ đá vô tri. Đá trên sông Đà có:
+ Tư thế “bệ vệ oai phong lẫm liệt”, vẻ mặt xấc xược “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược” .
+ Tâm địa độc ác “đòi ăn chết cái thuyền”, quyết tiêu diệt con thuyền cùng tất cả thuyền trưởng và
thủy thủ.
+ Hành động hung hăng, ngang tàng: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”, mỗi
lần nhìn thấy con thuyền là “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”. Chúng dàn hàng“chặn ngang trên sông”, có
hành động khiêu khích, thách thức người lái đò“một hòn ấy trông nghiêng thì y như là hất hàm hỏi cái
thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền
có giỏi thì tiến gần vào”.
-> Đá trên sông Đà như một đạo quân thiện chiến, hiếu chiến.
 Sự dữ dội của sông Đà còn được Nguyễn Tuân cảm nhận ở góc độ văn chương , gắn với câu đồng
dao thần thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh : “ Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”
═> Từ quan sát trực tiếp, với trí tưởng tượng phong phú, kiến thức đa dạng của nhiều lĩnh vực
nghệ thuật quân sự, bóng đá, võ thuật, xây dựng, địa lí, văn chương…, kết hợp thủ pháp nhân
hóa, so sánh độc đáo, từ ngữ gợi hình, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công một sông Đà hung
bạo, dữ dội, hùng vĩ.
b.2 Tính trữ tình: Bên cạnh sự hung bạo, sông Đà còn hiện lên với những nét nên thơ, trữ tình:
 Vóc dáng:
4
-Từ trên cao nhìn xuống, tác giả hình dung con sông Đà quyến rũ như một thiếu nữ với mái tóc buông
dài hòa vào vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người Tây Bắc“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
- Câu văn êm đềm với nhiều thanh bằng, giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa.
- Hai chữ “ẩn hiện” càng làm cho con sông trở nên bí hiểm.
- Lối điệp ngữ “tuôn dài” tạo sự nhịp nhàng theo dòng chảy uốn lượn của con sông theo địa hình Tây
Bắc. Qua cái nhìn của người nghệ sĩ tài hoa, con sông không còn là sợi dây thừng “ngoằn nghoèo”
nữa. - Hình ảnh áng tóc trữ tình được nhà văn dùng so sánh với sông Đà đem đến cho người đọc sự liên
tưởng thú vị -> Dáng sông như suối tóc mềm mại của người con gái, vẻ đẹp dịu dàng đầy nữ tính ấy ấy
lại hòa với sắc mây màu trời, sắc hoa ban, hoa gạo, được bao phủ trong sương khói huyền ảo càng trở
nên kiều diễm, quyến rũ, khơi lên bao rung động, để lại bao say mê, vấn vương, thương nhớ nơi con
người.
- Sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực
rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt
hương xuân.
 Đến đây ta có thể thấy, trong phòng cách của Nguyễn Tuân có sự thay đổi so với giai đoạn trước
CMT8. Vẫn là sự tìm kiếm và khám phá những cái đẹp độc đáo, nhưng không còn là cái đẹp vang bóng
một thời cô đơn và lạc lõng nữa mà là cái đẹp ấm áp và gần gũi giữa cuộc đời bình dị. Cái đẹp ấy gắn bó
với cuộc sống con người và làm say đắm trái tim của biết bao người.

 Màu sắc:
-Nguyễn Tuân đã có sự quan sát thật tỉ mỉ, ngắm con sông ở nhiều thời điểm để phát hiện sự thay đổi
của sắc nước, tạo nên nét đẹp đặc trưng của nước sông Đà:
+ Mùa xuân dòng sông mang sắc xanh trẻ trung “dòng xanh ngọc bích”, không xanh canh hến như
sông Gâm, sông Lô.
+ Mùa thu, nước sông Đà đổi sang “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Cách nhân hóa và so sánh này đã
không chỉ làm hiện lên màu sắc đặc trưng của nước Sông Đà vào mùa thu mà còn giúp cho người đọc
vừa thấy được dòng chảy chậm rãi, nặng nề của một con sông đang chở nặng phù sa về bồi đắp cho
vùng đồng bằng xứ sở; lại vừa thấy được sức mạnh tiềm tàng và dữ dội của một dòng sông “năm năm
báo oán, đời đời đánh ghen”.

-Tác giả còn bày tỏ thái độ không đồng tình khi thực dân Pháp gọi con sông ấy là sông đen.
=> Phải có sự am hiểu sâu sắc và tình yêu tha thiết với đất nước, với dòng sông Tây Bắc, Nguyễn Tuân
mới có những nhận xét, liên tưởng tinnh tế như vậy!
 Bờ sông:
- Từ rừng núi đi ra, trong niềm yêu nhớ, Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà gợi cảm như một cố nhân.
 Cách gọi “cố nhân”:
“Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như
một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh

5
liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng
như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng loé lên một màu
nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.”
-Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Sự nhân
hóa đó làm cho con sông gần gũi hơn. Tản Đà cũng đã từng viết:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
-+ “Cố nhân” là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ, đầy nhung nhớ; lại vừa đưa đến
cho dòng sông nét đẹp cổ kính, xưa cũ của Đường thi.
+ Trong đoạn văn này tác giả đã miêu tả dòng Sông Đà gợi cảm thông qua việc bộc lộ cảm xúc của con
người khi gặp lại dòng sông:
 Đó là cái háo hức, bồn chồn vội vàng đầy khao khát khi mới chỉ thấy từng mảng sáng lấp lóa
nắng của dòng sông ẩn hiện sau những vạt lá cây rừng như trẻ con nghịch chiếu gương vào
mắt mình rồi bỏ chạy.
 Đó là vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của sắc xuân cùng nỗi bâng
khuâng vời vợi nhớ nhung qua màu nắng tháng ba Đường thi:“Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”.
+ Khung cảnh ven bờ Đà giang thật yên bình, đem đến cảm giác khoan khoái, gần gũi, dễ chịu “chao
ôi, trông con sông như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Việc
dùng thán từ “chao ôi” cùng nghệ thuật so sánh “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng” cho thấy hình ảnh sông Đà gợi cảm vô cùng trong tâm hồn nhà văn.
+ Cảm xúc gặp lại Sông Đà được cụ thể hóa trong những so sánh bất ngờ: “Chao ôi! Trông con sông vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Cách so sánh ấy giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác trìu mến nâng niu cùng niềm vui lâng
lâng sảng khoái khi gặp lại dòng sông. Sông Đà thực sự trở thành một người bạn cũ, người tri âm với biết
bao nhiêu kỉ niệm gắn bó trong quá khứ, bao thương nhớ trong hiện tại – một cố nhân , một tình nhân.
 Nét đẹp hoang sơ của đôi bờ tiền sử:
- Nét thi vị và trữ tình nhất của Sông Đà được thể hiện qua đoạn văn cuối, khi nhà văn xuôi thuyền trên
sông:"Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm... Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa".
- Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà đã đưa người
đọc vào một cõi mơ, êm đềm, yên ả và hoang sơ vắng lặng như chưa từng có dấu vết của con người”.
- Từ trong khoang thuyền nhìn ra, tác giả nhận thấy:
+ Sông Đà có những đoạn vắng vẻ, tĩnh lặng “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí Trần
đời Lê, quáng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi” .
*Tính từ lặng tờ được lặp lại hai lần càng tô đậm ấn tượng về sự êm đềm và tĩnh lặng của dòng
sông.
* Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên
sơ, tĩnh lặng của dòng sông: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi”
+ Có những khúc sông đôi bờ thơ mộng với “chuồn chuồn bươm bướm trên sông”, “những nương
ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”,“một đàn hươu cúi

6
đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương”… Các hình ảnh gần gũi, nên thơ cùng kết hợp để tôn lên vẻ đẹp
yên ả, thi vị của dòng sông gợi bao nhớ thương cho con người -> tạo ấn tượng về một không gian trong
lành, nguyên sơ, thuần khiết. Nhà văn như đang lạc vào một cõi thuần hậu, không có thực.
+ Có những đoạn bờ sông hoang sơ, cổ kính như thuở xa xưa của lịch sử “bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Cách so sánh của Nguyễn Tuân thật
độc đáo. Từ dòng sông của thực tại, nhà văn đã đưa người đọc về với cõi hồng hoang xa xưa, về thế
giới cổ tích để cảm nhận được sự hoang sơ, vẻ đẹp trong sáng, êm đềm của dòng sông.
-> Ở đoạn văn này, nhà văn nhìn con sông với con mắt của một nghệ sĩ, dùng nhiều hình ảnh êm
đềm, trong sáng, gợi cảm, câu văn đầy chất thơ, nhịp điệu câu văn thay đổi linh hoạt, lúc mau lẹ,
lúc chậm rãi để diễn tả vẻ thơ mộng, trữ tình của sông Đà. Từ đó, ta nhận thấy được tình yêu,
niềm tự hào của tác giả về cảnh đẹp của đất nước.
=> Sông Đà hiện ra như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, quả là “chất vàng” của Tây Bắc, thể
hiện văn phong tài hoa, uyên bác và tình yêu thiên nhiên, đất nước của Nguyễn Tuân.
- Bằng thủ pháp đối lập, Nguyễn Tuân đã khắc họa trận thủy chiến căng thẳng giữa một bên là Sông Đà
dữ dội, hiểm độc với sự phối hợp của sóng, nước, thác, đá với một bên là người lái đò nhỏ bé trên con
thuyền mỏng manh, đơn độc, vũ khí trên tay chỉ là chiếc cán chèo, chiến đấu bằng kinh nghiệm, bằng
lòng dũng cảm, bản lĩnh. Từ đó, nhà văn khắc họa nổi bật vẻ đẹp của người lái đò.
* Diễn biến trận thủy chiến: căng thẳng, kịch tính.
- Trước khi bước vào cuộc chiến: Sông Đà tỏ ra rất hung bạo:
+ Âm thanh ầm ầm của “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi” đầy đe dọa, và trở nên đáng sợ như
báo trước một tai ương ghê gớm “oán trách”,”van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”, “rống” lên khủng
khiếp như trâu rừng chạy lửa.
+ Sóng tung bọt “trắng xóa”.
+ Đá trên dòng sông Đà dường như đã được bày sẵn từ hàng ngàn năm trước thành một thạch trận với
“đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông” gồm hàng đá tiền vệ, sóng nước tuyến
giữa và hàng đá hậu vệ. Mỗi vòng vây bố trí cửa tử, cửa sinh, luồng sống, luồng chết rất tinh vi, khi thì
ở tả ngạn, khi ở hữu ngạn, khi ở chính giữa, rất khó lường. Mỗi hàng đều được phân công nhiệm vụ cụ
thể, hàng tiền vệ thì “ dụ cái thuyền vào”, sóng nước tuyến giữa tung ra nhiều đòn tấn công hiểm độc,
tuyến cuối với “những boong-ke chìm và pháo đài nổi” phải “ đánh tan con thuyền”, “tiêu diệt tất cả
thuyền trưởng, thủy thủ”.
- Bước vào trận chiến: qua ba vòng trùng vi thạch trận , người lái đò chiến đấu với một tư thế đẹp:
Tư thế một vị tướng mưu trí, dũng cảm, hiên ngang, quyết đoán, điềm tĩnh đối mặt với ba vòng
vây của thạch trận sông Đà.
Trùng vi thạch trận thứ nhất mở ra đầy căng thẳng với thạch trận bố trí năm cửa tinh vi, gồm bốn cửa
tử, một cửa sinh nằm ở phía tả ngạn. Hòn đá nào cũng có tư thế “oai phong bệ vệ”, vẻ mặt xấc xược
“mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược”, hành động hung hăng, ngang tàng “một hòn ấy trông
nghiêng thì y như là hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi
lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Mặt nước “hò la vang dậy, ùa vào mà
bẻ gãy cán chèo” của ông đò. Sóng nước cũng chi viện, hỗ trợ “đá trái”, “thúc gối” vào thuyền , “bám
lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò”, “sóng nước đánh miếng đòn hiểm độc nhất”, luồng sóng
7
tấn công ông lái đò bằng nhiều lối đánh “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm”. -> khiến thác đá
sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên
nhiên. Sự ác liệt còn được tô đậm hơn bởi những âm thanh cuồng loạn của một “trận nước vang trời
thanh la não bạt”.

-> Với nghệ thuật nhân hóa, so sánh, vốn từ ngữ điêu luyện, kết hợp vốn từ thể thao, quân sự, Nguyễn
Tuân đã khắc dựng hình ảnh một quãng Đà giang thật dữ dội, hiểm ác, sẵn sàng tiêu diệt người lái đò.
+ Ông đò “hai tay giữ chặt mái chèo” đón nhận luồng sóng tấn công trực diện, hiểm độc. Ông đò “cố
nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”,”mặt méo bệch đi”,“chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo”.
Bằng những từ gợi hình, nhà văn khắc họa hình ảnh ông lái đò Lai Châu bình tĩnh bước vào trận chiến.
Dù bị thương nhưng ông vẫn cố nén đau đớn, dung cảm, kiên cường, lèo lái con thuyền vượt qua trùng
vi thạch trận thứ nhất.
Trùng vi thạch trận thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuộp quật vu hồi
chiếc thuyền”.
- Sông Đà tỏ ra nham hiểm, xảo quyệt khi tăng thêm nhiều cửa tử hơn, cửa sinh vẫn chỉ có một, lại
nằm lệch sang bờ hữu ngạn. Dòng thác “hùm beo hồng hộc tế mạnh”, những luồng nước liên tục tấn
công con thuyền.
+ Dùng nghệ thuật so sánh, nhân hóa, cường điệu, đối lập, tô đậm hình tượng, tạo cảm giác mãnh liệt.
+ Sử dụng từ ngữ điêu luyện, vốn từ phong phú.
+ Câu văn giàu hình ảnh, nhạc điệu.
Thác đá đã được động vật hoá để tăng thêm sự hung hãn hoang dại như trong hình ảnh: “dòng thác
hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh
quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
Trùng vi thạch trận thứ ba:
Nguyễn Tuân đã mượn thuật ngữ của quân sự và các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên
hàng loạt so sánh liên tưởng kì lạ, bất ngờ nhưng đây lại là những cái so sánh chân thực nhất về cái
chiến trường lắm gian truân nơi mặt sông bờ hồ: “Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái
luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm
và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng
quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài,
cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự
động lái được lượn được. Thế là hết thác.”

 Sự thống nhất và thay đổi trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước và sau
Cách mạng tháng Tám.
Sự thống nhất
- Viết văn để khẳng định cái Tôi tài hoa, độc đáo.
- Tiếp cận thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

8
- Quan niệm cái đẹp phải là những hiện tượng tác động mạnh vào giác quan nghệ sĩ.
- Sử dụng thể tùy bút tự do phóng túng, thể hiện cái tôi của mình.
- Văn phong tài hoa, uyên bác.
Sự thay đổi
• Trước Cách mạng tháng Tám:
- Khẳng định cái tôi ngông nghênh, dựa trên sự tự ý thức về tài hoa, uyên bác hơn đời, giọng văn lạnh
lùng, kiêu bạc.
- Tìm cái đẹp trong quá khứ, đối lập với hiện tại, chỉ nhìn thấy nét tài hoa nghệ sĩ ở những con người
đặc tuyển, xuất chúng.
- Tìm cảm giác mạnh trong quá khứ, trong chủ nghĩa xê dịch, trong đời sống trụy lạc.
- Sử dụng thể loại tùy bút giàu chất trữ tình và đậm chất chủ quan.
• Sau Cách mạng tháng Tám:
- Cái tôi tuy vẫn độc đáo nhưng không đối lập với xã hội, giọng văn đôn hậu.
- Tìm thấy cái đẹp trong cả hiện tại và tương lai, không đối lập quá khứ với hiện tại,nhìn thấy nét tài
hoa ở quần chúng nhân dân.
- Tìm cảm giác mạnh trong thiên nhiên mĩ lệ và hùng vĩ của đất nước, trong những thành tích chiến đấu
và xây dựng của nhân dân.
- Tùy bút giàu chất kí hơn.
 Sự độc đáo
 - Tiếp cận thiên nhiên ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, tiếp cận con người ở phương diện tài
hoa, nghệ sĩ.
- Khả năng tưởng tượng phong phú.
- Sử dụng kiến thức nhiều lĩnh vực (văn chương, địa lí, lịch sử, điện ảnh, xây dựng, võ thuật, thể thao,
quân sựu,..)
- Xây dựng nhiều hình ảnh nhân hóa, so sánh độc đáo, gợi nhiều liên tưởng.
- Vốn từ ngữ phong phú, giàu giá trị gợi hình.
- Câu văn giàu nhạc điệu, tiết tấu linh hoạt.
- Chủ nghĩa anh hùng không chỉ có ở chiến trường mà còn hiện diện trong cuộc sống lao động hàng
ngày.

You might also like