You are on page 1of 15

Đề 1: Phân tích tượng con sông Đà trong tùy bút bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn

Tuân

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc


Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật muôn đời. Đặc biệt trong những năm
miền Bắc đang tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội Nhiều nhà thơ nhà văn đã đến với nơi đây Để
tìm cho mình Những nguồn cảm hứng mới trong đó có Nguyễn tuân. Ông đã thăng hoa trên
chính mảnh đất này với tập "Tùy bút Sông Đà"với linh hồn là bút chì người lái đò Sông Đà. Bài
văn Được dệt nên bằng thứ ngôn ngữ điêu luyện, Những đoạn tả đèo cao vực sâu, thác nước dữ
dội hòa quyện kết hợp cùng về đẹp thiên nhiên hùng vĩ thơ mộng trữ tình. Và lấp lánh giữa bao
vẻ đẹp đó chính là hình ảnh con Sông Đà mang nét hung bạo, dữ dội mà hùng vĩ, đầy cá tính.

Vẻ đẹp sông Đà trước tiên được thể hiện ở dòng chảy của con Sông Đà. Như lời đề từ ngay phần
mở đầu bài văn "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc Bắc lưu". Mọi con sông đều chảy về
hướng Đông, chỉ riêng con sông Đà là theo hướng Bắc mà chảy. Chính đặc điểm thú vị này đã
tạo nên nét cá tính rất riêng, rất ngang ngược và đầy độc đáo cho Đà giang.

Vẻ hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà còn biểu hiện ở những vách đá đầy hiểm trở và đáng sợ đối
với con người. Tác giả miêu tả cụ thể, sống động với nhiều chi tiết đặc sắc những vách đá hẹp và
cao chót vót "dựng vách thành, chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"gợi cảm giác âm u, lạnh lẽo đến
mức "đang mùa hè mà cũng thấy lạnh".

Qua cách miêu tả của tác giả người đọc Được truyền một cảm giác chân thực Đến mức như đang
đứng ở ngay trước mặt con Sông Đà ấy, Dường như chính họ cũng cảm thấy sờn sợn và sợ hãi
khi phải qua quãng ấy: "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu"rồi "cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào.. vừa tắt phụt đèn
điện". Bằng nghệ thuật miêu tả cùng các biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh liên tưởng tưởng
tượng, Nguyễn tuân Đã khiến người đọc cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự nguy hiểm của vách đá
Sông Đà

Con Sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ được gợi lên qua những nét miêu tả ở quãng mặt ghềnh Hát
Loóng dài hàng cây số nước xô đá đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm". Câu văn dài, nhiều về các vế móc xích nối lên nhau đặc biệt nhịp thơ nhanh mạnh kết hợp
với các từ động từ mạnh, Từ láy, Nghệ thuật điệp "xô ", "cuồn cuộn “, "gùn ghè"đã đặc tả bức
tranh sông nước quả thật vô cùng chân thực gợi lên một cuộc truy đuổi dữ dội, quyết liệt của
sóng nước Sông Đà hòng cướp đi sinh mạng của bao con người Sông Đà đã phát huy hết sức
mạnh của mình nhằm tấn công con người.

Đặc biệt nét hung bạo dữ dội của con Sông Đà được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ở hình ảnh
những cái hút nước xoáy tít cả đáy với biện pháp so sánh kết hợp với trí tưởng tượng phong phú
của mình, Nguyễn Tuân Đã có những phát hiện vô cùng thú vị khi miêu tả những cái hút nước ở
quãng Tà Mường Vát.
Đó là "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông", Âm thanh của nước thì được nhân hoá
Lên thành "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Đặc biệt cách dùng từ độc đáo "xoáy tít đáy"đã
gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và nguy hiểm, mặt sông có những vòng
xoáy nhanh và mạnh. Cái cảm giác đầy gay cấn, hồi hộp khi trèo qua quãng sông ấy "y như là ô
tô sang số ấn ga cho nhanh"xuất phát từ những liên tưởng thật độc đáo và thú vị. Tác giả đặt
mình vào vị trí của con người trên thuyền khi đi qua quãng ấy, sự nguy hiểm còn được Minh họa
bằng những dẫn chứng rất sinh động có những thuyền đã bị cái hút đổ xuống thuyền trồng ngay
cây chuối ngược … tan xác ở khuỷnh sông dưới.

Để có được những góc nhìn Đầy đủ và đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh để chuyển
lại cho người đọc những cảm nhận Vô cùng chân thực về con Sông Đà, nguyễn tuân hình dung
về một anh quay phim nào dám ngồi vào một thuyền "rồi cho cả thuyền cả mình cầm máy quay
xuống đây cái hồ Sông Đà "rồi nhìn ngược lên"làm cho hình ảnh về những cái hút hiện lên rõ nét
như miệng con thuỷ quái khổng lồ cố nuốt chửng bất cứ thứ gì đi qua đó. Hình ảnh những cái hút
nước được miêu tả cụ thể, tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh, sự vận động dữ dội. Bằng vốn
sống phong phú và trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tô đậm mức độ khủng khiếp của
những cái hút qua hàng loạt các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo vừa giúp người đọc hình
dung về những cái hút như những hung thần tàn bạo vừa khiến họ cảm thấy ghê sợ, khó bứt thoát
khỏi những ghê người mà ma lực ngôn từ Nguyễn Tuân đã truyền đến cho họ.

Nét hoang sơ của con sông Đà đã được Nguyễn Tuân khắc họa qua những nét đặc tả về thác đá.
Âm thanh thác nước được cảm nhận từ xa tới gần với thủ pháp nhân hoá "oán trách", "van xin",
"khiêu khích", "giọng găng mà chế nhạo"kết hợp với phép so sánh "rống lên như tiếng 1 ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa… gầm thét với đàn trâu da cháy
bùm bùm". Dòng thác dường như đã mở hết âm lượng, tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng,
phấn khích, mạnh mẽ và man dại. Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được
tính cách hung dữ y như 1 con thuỷ quái khổng lồ với những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.

Đặc biệt tác giả sử dụng phép so sánh với những hình ảnh ở thế hoàn toàn đối lập. Lấy lửa để tả
nước, lấy rừng để tả sông, lấy trâu mộng để tả thác nước như réo, oán trách, van xin… Cách
miêu tả của tác giả rất độc đáo nhờ thủ pháp so sánh kết hợp với lối viết riêng đã gợi ra nhiều
trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Nhờ đó, ta thấy được, Nguyễn Tuân quả là 1 nhà văn
có tầm.

Qua thủ pháp nhân hoá, Nguyễn Tuân đã thổi hồn cho đá, biến chúng thành những gương mặt
với hành động rất “tướng"với chân dung, diện mạo "ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo
mó", hình dáng, phong thái thì "bệ vệ oai phong lẫm liệt"rồi còn "hất hàm", "thách thức", mỗi
lần xuất hiện bóng dáng cái thuyền nào là chúng bèn "nhổm cả dậy", "vồ", "chặn ngang", “đánh
tan","tiêu diệt"cho bằng được cái thuyền. Thủ pháp nhân hóa đã phát huy tính độ tác dụng để
làm nổi bật tính cách đầy hung bạo độc ác yêu chiến. Hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi
hòn với nhiệm vụ tiêu diệt con người. Những hòn đảo ấy trong cảm nhận của Nguyễn tuân là
những tên chiến binh với nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con chuyển vào để tiêu diệt. Chỉ vài
dòng đặc tả thôi cũng đủ khiến nơi đây trở thành nỗi sợ khủng khiếp đối với những kẻ yếu bóng
vía.
Đá kết hợp với nước bày binh bố trận thành 3 tuyến tấn công: hàng tiền vệ, tuyến giữa, boongke
chìm và pháo đài nổi. Sóng nước hò la thanh viện Để uy hiếp tinh thần con người. Sông Đà đã
huy động sức mạnh tổng lực của mình "ùa vào mà bẻ gãy cán chèo", "Sông nước như thể quân
liều mạng", đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền", "Đội cả thuyền lên bám lấy thuyền như
đồ vật túm thắt lưng ông đò".

Qua những dòng văn miêu tả về trận thạch thuỷ sông Đà, Nguyễn Tuân lại một lần nữa làm
người đọc rùng mình trước tâm địa hiểm độc, đáng sợ của con sông Đà.

Binh pháp thần sông thần đá đầy bí hiểm, thạch trận được bố trí thành ba trùng vi. Ở các trùng vi
nhiều cửa tử mà chỉ có một cửa sinh và đặc biệt vị trí của sinh thường xuyên thay đổi. Đọc đến
đây, ta nghĩ ngay đến trận đồ bát quái của Khổng Minh khi xưa chỉ có điều trận địa nay đã
chuyển xuống mặt nước Sông Đà.

Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như binh pháp, pháo đài, cửa sinh cửa tử,
đánh khuýp quật vu hồi, mai phục, trùng vi thạch trận, hậu vệ, boong-ke chìm, pháo đài nổi….
tạo không khí căng thẳng, kịch tính như 1 trận chiến thực sự giữa con người và thiên nhiên đã
diễn ra hàng bao thế kỷ.

Con Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hung bạo dữ dằn kẻ thù số một của con người mà con sông
ấy còn hiện lên với một bức chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ tương phản cùng tồn tại
trong một chỉnh thể, chính vì vậy mà nét đẹp của nó càng trở nên độc đáo ấn tượng, hấp dẫn. Vẻ
đẹp trữ tình của con Sông Đà hiện lên dưới nhiều khía cạnh được Nguyễn Tuân cảm nhận theo
những góc nhìn khác nhau.

Con Sông Đà từ trên cao nhìn xuống với hình dáng thướt tha và màu sắc biến đổi vô cùng phong
phú. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống, trông con Sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo… tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Điệp từ tuôn dài
cùng với Nhịp thơ nhẹ nhàng như ru như ngân tạo nên về được Lững lờ thướt tha,đầy chất thơ
cho con Sông Đà. Phép so sánh con sông như một áng tóc trữ tình là một nét nghệ thuật độc đáo
mới mẻ. Chính lối so sánh giàu chất thơ, chất hoạ này vừa giúp phô ra vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm
kiều diễm kiêu sa vừa bộc lộ được chất phong tình hào hoa của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Qua
phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của 1 người thiếu nữ đầy xuân sắc đang buông hờ mái tóc
làm duyên giữa cánh rừng hoa bồng bềnh màu khói. Bao nhiêu vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng của
đất trời bỗng ùa về thức dậy trong những câu văn của Nguyễn Tuân.

Đà Giang hiện lên với đủ màu sắc biến hoá theo từng mùa. Mùa xuân sông xanh ngọc bích mùa
thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Tác giả còn so sánh màu xanh
ngọc bích của Sông Đà Với màu xanh cánh hiện của sông Gâm sông lô. Đồng thời, nhà văn còn
đặt sông Đà trong dòng chảy lịch sử, ông bày tỏ sự bất bình trước cách gọi tên đầy lếu láo của
bọn thực dân gọi Sông Đà là sông đen. Đoạn văn không chỉ thể hiện những cảm nhận tinh tế của
1 ngòi bút tài hoa mà còn bộc lộ được 1 cái tôi đầy uyên bác của nhà văn.

Con sông Đà dưới cái nhìn của 1 người rừng lâu ngày trở nên đầy mới mẻ và gợi cảm. Với
Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như 1 “cố nhân". 2 chữ “cố nhân"vang lên cùng biết bao tình
cảm trìu mến, niềm xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy mối quan hệ gắn bó vô
cùng sâu nặng, tâm tình, tri kỉ.

Khoảnh khắc mà tác giả phát hiện vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt sông loang loáng như trẻ
con nghịch chiếu gương vào mắt, sáng lóe lên 1 màu nắng tháng 3 Đường thi “Yên hoa tam
nguyệt há Dương Châu"( Lý Bạch ). Dòng sông như đang chảy về từ quá khứ xa xưa mang vẻ
đẹp cổ kính như những câu thơ của tiền nhân. Bờ bãi sông Đà ngập tràn chuồn chuồn, bươm
bướm, dệt nên 1 bức tranh rực rỡ sắc màu, tô điểm thêm cho vẻ đẹp dòng sông.

Bên cạnh việc miêu tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp giãi bày, bộc lộ niềm xúc động và hạnh
phúc của mình khi gặp lại cố nhân. Những câu văn đầy tính nhạc và cảm xúc: “Chao ôi, trông
dòng sông vui như thấy nắng giòn tan sau khi kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng".
Thán từ “chao ôi"mở đầu câu thơ thể hiện bao niềm xúc động ngỡ ngàng, trầm trồ,đầy hân hoan
mà "đằm đằm ấm ấm "của tác giả khi gặp lại người "cố nhân "ấy. Cách dùng từ và diễn đạt mới
mẻ, đầy ấn tượng "đằm đằm ấm ấm". Nguyễn tuân với góc nhìn của người ngồi trên thuyền thả
trôi trên sông đã cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp thơ mộng hoang sơ, tĩnh lặng nhưng đầy sức sống
của đà Giang. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà"là 1 câu toàn thanh bằng gợi âm điệu nhẹ
nhàng dịp trôi êm ả, khoan thai của con thuyền đồng thời gợi hình ảnh con người thoải mái
khoan khoái, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.

Điệp từ lặng từ được lập lại hai lần diễn tả sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối thậm chí là Tịnh không
một bóng người. Sự tĩnh lặng dường như đưa ta trở về quá khứ đến đời lý đời trên đời lê, Đó là
một vẻ đẹp cổ kính hoang sơ như một bờ tiền sử và hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
Đặc biệt tác giả còn sử dụng nghệ thuật lấy động tả tính, từ những âm thanh trong tâm tưởng như
tiếng còi súp lê của một chuyến xe lửa cho đến âm thanh của hiện tại tiền cả đất nước sông, tất cả
đều có phần gợi ra một không gian được bao phủ bởi một sự tĩnh lặng đến tuyệt đối.

Vẻ hoang dại, mộng mơ được thể hiện đầy ấn tượng qua hình ảnh “hoang dại như 1 bờ tiền sử",
“hồn nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa", thường người ta so sánh cái trừu tượng với cái cụ
thể, cái lạ với cái quen vậy mà ở đây, Nguyễn Tuân đã làm ngược lại. Qua cách so sánh này, tác
giả vừa vẽ nên bức tranh sông Đà hoang sơ, thơ mộng vừa thể hiện được tình cảm vô cùng trìu
mến và thân thương mà ông dành cho cô gái sông Đà. Hình ảnh con yêu thơ ngộ lần đầu nhung
khỏi ai có xương đã tô thêm nét thơ mộng cho cảnh dòng sông

Hình ảnh những nương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa rồi là cỏ gianh ra những nõn búp,
"Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi"gửi hình ảnh một con Sông
Đà thoát ra khỏi cuộc sống nhiều bề lắng đọng bâng khuâng cùng với đó tiếng còi trong tâm
tưởng của tác giả diễn tả khát khao của con người hứa hẹn về một tương lai giàu tiềm năng du
lịch của Tây Bắc

Nguyễn tuân đã miêu tả con Sông Đà vô cùng ấn tượng với những đặc điểm và tính chất đối
nghịch vừa hùng vĩ hung bạo lại kết hợp với nét thơ mộng trữ tình. Về đẹp ấy được khắc họa qua
các hình thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản các biện pháp tu từ quen thuộc đặc
biệt hình tượng con Sông Đà à được cảm nhận dưới nhiều góc nhìn khác nhau mang đến một Về
đẹp cụ thể đa chiều Cho dòng sông. Qua hình tượng con Sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình yêu sự
gắn bó sâu sắc với quê hương xứ sở và niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên Đất nước.
Đề 2: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn
Tuân.

Nguyễn Tuân chắc hẳn đã tâm đắc lắm với những vần thơ sông của nhà thơ Ba Lan nọ. Chẳng
vậy mà sông nước xứ mình đã chảy trên không biết bao nhiêu trang văn đẹp của ông, trong đó có
sông Đà, con sông đã trao tên cho một công trình văn xuôi tuyệt tác. Tôi đoán chắc rằng không
thể chỉ có nhu cầu săn tìm cảm giác hay cái máu phiêu lãng giang hồ đã xui khiến bước chân
Nguyễn Tuân tìm đến dòng chảy vĩ đại này của núi rừng Tây Bắc. Nhất định phải có một tiên
cảm, tiên giác nghệ thuật sáng suốt nào mách cho người nghệ sĩ tài hoa về nguồn cảm hứng sông
Đà hàng chục năm trước khi “dòng sông ánh sáng” đó thực sự trở thành một địa chỉ lớn của
nhạc, hoạ, sân khấu, thơ, văn. Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khắc, vẽ và kể
chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được Nguyễn
Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông.

Song để làm nên một niềm gợi cảm sông Đà có tầm cỡ, vóc dáng như của Nguyễn Tuân thì cảm
xúc và tài quan sát vẫn còn chưa đủ. Nhớ lại, Xuân Diệu từng thiết tha nói đến sự rất cần thiết
phải uyên bác ngay trong một lĩnh vực trữ tình nhất là thơ. Tôi nghĩ Nguyễn Tuân cũng có thẩm
quyền như thế, có khi còn hơn thế – dĩ nhiên trong phạm vi lãnh thổ của ông là kí, là tuỳ bút – để
chỉ ra rằng sự uyên bác ấy có thể nâng đỡ đến thế nào cho đôi cánh của hào hoa. Càng đọc văn
Nguyễn Tuân, lại càng nghiệm ra rằng, nhà văn độc đáo ấy luôn luôn độc đáo trong sự uyên bác,
rằng con người tài hoa, tài tình hiếm ai bì kịp ấy cũng đồng thời là con người luôn luôn có những
hiểu biết khôn lường, khôn sánh về những gì được nói tới ở văn minh. Trường hợp sông Đà là
vậy. Phải là Nguyễn Tuân và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới không ngại nhọc công dò đến ngọn
nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh của sông Đà, để biết chỗ phát nguyên
của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thuỷ, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa mà
âm thanh dẫu sao cũng gợi ra khá nhiều thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Và cũng không dễ có
người như Nguyễn, để có thê hạ bút viết đúng ba câu về sắc nước Đà giang đã phải mấy lần bay
ngang trên miền sông ấy. Để rồi sau đó, mới nói chắc như đinh đóng cột rằng nước sông Đà
không hề đen; trái lại, nó xanh màu ngọc bích dưới trời xuân, khác với sông Gấm sông Lô nước
“xanh canh hến” (tác giả mới kì công làm sao trong quan sát và chọn tìm từ!), còn mỗi độ thu về,
nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Cứ theo đây thì ai
dám bảo các đấng tài hoa viết văn không khó nhọc? Ai dám bảo rằng cái cốt cách phong lưu tài
tử như của Nguyễn Tuân cho phép nhà văn cứ việc thả sức rong chơi, chờ khi thần hứng đến với
mình thì chỉ cần một lần phất bút là đã đủ làm nên tấm lụa ngôn ngữ đẹp mê hồn?

Nhưng chớ nên quên Nguyễn Tuân còn là một bản ngã vãn chương không hề giống với một ai,
và cũng không thể có một ai mong bắt chước. Những trang viết trong Người lái đò Sông Đà đẹp
còn vì tác giả đã in cái bản ngã độc đáo ấy vào sông nước Đà giang, đã thêm cái vẻ đẹp rất chủ
quan của tâm hồn và tưởng tượng vào cái vẻ đẹp rất khách quan của dòng sông, để dần dần làm
cho dưới ngòi bút, tuôn chảy một con sông Đà mang dấu ấn thật riêng của nhà văn, một con sông
Đà đã được chinh phục và chi phố bởi thứ quyền năng riêng của người cầm bút mà Nguyễn Tuân
vốn có nhiêu hơn ai hết – tôi muốn nói đến thứ quyền năng của ngôn từ.

Hãy thử lấy ra đây một trong rất nhiều ví dụ. Ở đầu trích đoạn Người lái đò Sông Đà trong sách
Văn học 12 có đoạn tả “cảnh đá bờ sông đựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt
chật lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp ấy của lòng sông, tác giả đã tả nó ra theo đủ cách: Nào là “Mặt
sông lúc ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt giời”. Nào là con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ
cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ này sang bên kia vách. Những ý văn như thế kể
cũng đã thú lắm. nhưng vẫn còn chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của
Nguyễn Tuân như trong câu cuối đoạn này: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè
mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tất phụt đèn điện”. Một sức hút bình thường làm
sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Bên cạnh
những câu viết thế này, tôi chắc nhiều người sẽ nhận ra mình nghèo nàn biết bao nhiêu cả về từ
ngữ và ý tưởng. Có cảm giác cái bậc văn nhân hằng biết sợ cái cảnh “mình bỗng chốc trở thành
người cùng đường bên dòng sông chữ quạnh trắng thê lương” ấy luôn luôn lục lọi đến tận kiệt
cùng cái kho ấn tượng đầy ăn ắp để tìm cho bằng ra một cách nói có sức kinh động hồn trí con
người.

Nguyễn Tuân đang nói với ta về một sông Đà hung bạo. Một nhận xét nhu thế sẽ không có nhiều
khả năng gây sự ngạc nhiên, nếu chúng ta không tận mất thấy nhà văn dã hao tổn công phu đến
thế nào đề bát sự hung bạo kia phải nổi hẳn lên thành hình khối và gào thét lên trong muôn vạn
âm thanh.

Người đọc đã như được tác giả đặt cưỡi lên con thuyền đang vun vút phăng phăng xuống thác để
cảm thấy quanh mình nước thác hò reo bốn mặt và những hòn đá ngỗ ngược phía trước kia như
nhất tẽ “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.

Không khó khăn gì để thấy trong đoạn này, nhà văn đã sử dụng rất nhiều nhân hoá, để nhờ đó,
đọc ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Ống đã cổ dùng thật hết sức mạnh
điêu khắc của ngôn từ để truyền hồn sống vào từng thớ đá. Dễ mấy ai nhìn ra những khuôn mặt
đá kiểu thế này: “Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phai xưng
tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì
tiến gần vào”. Tồi chắc những chữ như “hất hàm”, được viết tài đến thế, thì hoặc phải xoẹt đến
trong óc nhà văn như một ánh chớp thiêng của luồng cảm hứng và lập tức định vị ngay trong câu
viết, nếu không thì phải gò lấy nó bằng cả một “từ công phu”.

Cái dáng đá hất hàm ấy trông nó xấc xược, hỗn hào, du côn một cách rất là hiện đại. Nhưng đọc
cả đoạn văn, vẫn cảm tưởng thấy tác giả Người lái đò Sông Đà cứ như muốn vừa tìm sự hoà ứng
vừa như muốn tranh đua với ca khúc thứ XII của Ô-đi-xê bất hủ, đoạn tả chiếc thuyền của Uy-lit-
xơ vượt qua khoảng giữa hai con quái thạch Karip và Xila. Hãy nghe lại âm vang hào tráng của
Hô-me-rơ từ bao nhiêu nghìn năm trước: “Chúng tôi… chèo thuyền tiến thẳng vào eo biển hiểm
nghèo một bên là Xila, một bên là Karip ùng ục ngốn nước biển. Mỗi lần nó nhả nước ra, cả biển
khơi đều chuyển động, sôi lên như nước trong chảo đặt trên một bếp lửa hồng… Rồi khi nó lại
nuốt nước mặn vào thì làm biển sùng sục cuộn lên; vách đá xung quanh kêu réo ghê sợ, và đáy
biển lộ ra với mặt cát đen thẫm… Có phải là ta đã gặp lại trong cái hung bạo của sông Đà hôm
nay rất nhiều thần thái cái hung bạo của chốn eo biển nào rất xa xôi tận thời cổ đại?

Người ta bảo trong các nhà văn thật lớn thường vẫn còn một đứa trẻ thơ, và đứa trẻ ấy giúp nhà
văn giữ được cái nhìn cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn để cằn cỗi héo tàn đi trên
đường đời khó nhọc. Trường hợp Người lái đò Sông Đà có lẽ cho phép ta được nghĩ thêm: trong
đôi mắt của nhà văn lớn hôm nay hình như vẫn lấp lánh tia mắt không chỉ của tuổi thơ đời người
mà còn của cả thòi ấu thơ nhân loại. Và của cả những giai đoạn vẫn cổ xưa nhưng có gần gũi
chúng ta hơn. Đọc những dòng viết về thạch trận Đà giang, tôi cứ cảm thấy nó phảng phất những
trận đổ trường xà, bát quái cũng có đủ cửa tử cửa sinh trong truyện cũ. Rồi lại chợt nhớ ra Gia
Cát Khổng Minh cũng đã có lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội của sông Đà được nhân mãi
lên trong trùng trùng liên tưởng.

Nhưng đoạn văn tả đá thác sông Đà bủa vây, chận bắt một chiếc thuyền xuôi đơn độc tôi thấy
không chỉ có một màu hung tợn. Còn có thể cảm nhận ở đây bóng dáng của Nguyễn Tuân như
một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô
sóng đá. Ban đầu, tác giả mới để cất lên khúc dạo đầu với những cung bậc nỉ non của một dòng
nước thác “nghe như là oán trách gì, rói lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích”. Thế rổi
bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ ,các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một
thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại, trong đó âm vang
cuồng loạn của núi rừng được đưa vào để thanh viện cho sự diễn tả con thác giận dữ âm ầm va
đập vào bờ đá. Tiếng sóng thác – nhà văn viết – “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập với lửa là dòng nước,
dám lấy rừng để tả sông. Nguyễn Tuân quả đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật. Nhưng ông chơi
ngông mà ta thì được: ta được một cái nhìn tổng quan hơn và thú vị hơn về sự tương giao sức
mạnh giữa các lực lượng tự nhiên. Cũng vậy, tôi cho rằng rất nên chiêm ngưỡng vẻ đẹp kì vĩ của
tạo hoá trong những câu viết thế này: “Ngoặt khúc sông lượn thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một
chân giời đá”. Và tôi nghĩ lòng Nguyễn Tuân chắc cũng sảng khoái hào hứng lắm khi nó rung
lên với “trận nước vang trời thanh la não bạt”.

Trên đây là hình ảnh của một thiên nhiên mà Nguyễn Tuân từng đã muốn “trông nó thành ra diện
mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng
chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người.

Thật thế, người lái đò sông Đà kia sẽ là ai, nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với “dòng
thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào
đó của một loại ông ngư, ông chài, ông lái… nhưng sẽ không thể trở thành đối tượng của một
khúc hùng ca. Trái lại, chính cái hùng vĩ của sóng của thác, của sông nước Đà giang sẽ đưa con
người dám đương đầu và chiến thắng thần đá thần sông lên hàng oai linh tối thượng.
Người xưa vẫn coi “cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lí tưởng sống
anh hùng. Thì ông lái đò sông Đà này, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người
cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đấy còn gì! Nhà văn đã dụng tâm diễn tả
cuộc chiến giữa ông lái với dòng sông theo hướng: thoạt đầu tưởng như hai bên rất không cân
sức. Nào là, quanh con người đơn độc, “mặt nước hò la vang dậy…ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”.
Nào là “sóng nước như thế quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng vào
hông thuyển”, để đội thuyền lên, để lật ngửa mình thuyền giữa vang trời thác réo. Các luồng
sóng thì thi nhau “đánh hổi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ dễ tổn thương nhất của con
người… Sẽ tốn khá giấy mực đấy, nếu muốn kể hết ra đấy cái khối lượng hùng hậu các từ ngữ
mà Nguyễn Tuân đã chở về từ bên nhà võ để hào phóng vốc tung ra trên các trang văn!

Vậy mà đối địch lại, ông đò có những gì? Một chiếc thuyền mỏng manh, trên đó, con người thật
nhỏ bé biết bao giữa luồng thác đang giận dữ, hai tay ghì níu lấy mái chèo, đôi chân kẹp chật vào
cuống lái, mặt méo bệch hẳn đi do “cố nén vết thương” (Xin được lưu ý rằng Nguyễn Tuân
không viết “méo xệch” mà viết là “méo bệch”. Ra cái đau đớn tàn bạo của dòng nước nó còn làm
cho bợt bạt cả sắc mặt người).

Thế nhưng ba lớp trùng vi của một thạch trận đầy cửa tử đã không ăn chết được một con thuyền
đơn độc hết chỗ lùi. Các dũng tướng phá trận ngày xưa, nếu vào đúng cửa sinh và đánh thốc ra
đúng cửa sinh là đối phương tan tành thế trận. Ông đò của Nguyễn Tuân cũng thế. Nhà vàn như
muốn, qua trường hợp ông đò, cùng mỗi chúng ta nghiền ngẩm điều triết lí: giữa cái thế giới của
độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh mạn dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ
khả năng tìm thấy luồng sinh. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu. Ông đâu có
đôi cánh tay Hecquyn nào để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông “đã nắm chắc
binh pháp của thần sông, thần đá”. Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống
ghềnh, không, phải nói là cái trí tuệ của người lao động ấy đã khiến cho ông lái, dù trong tay chỉ
có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác!) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến
tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến
ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận
đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Có quá lời, có
đáng ngạc nhiên chăng, nhất là ở một nhà văn văn có tiếng là kiêu bạc? Tôi không cho là như
thế. Theo tôi, đừng nghĩ Nguyễn Tuân chỉ ca ngợi một người. Ông ca ngợi Lao Động, ca ngợi
Con Người, ông theo cách của mình làm cho “hai tiếng Con Người vang lên kiêu hãnh biết
bao!”. Người lái đò sông Đà – nhà văn muốn vậy – thể hiện cái tư thế ngự trị của Con Người
trước Thiên Nhiên thần thánh.

Và khi trong thiên tùy bút của Nguyễn Tuân mái chèo của ông đò vừa ngừng chống nhau cùng
thác đá thì dòng sông Đà bỗng nhiên đổi vẻ. Lời văn của Nguyễn bây giờ cũng bềnh bồng với
bầu trời mùa xuân mùa thu, nơi tác giả từ trên tàu bay mà nhìn xuống “từng nét sông tãi ra trên
đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Để từ đó, bậc du tử tài hoa đã vẫy bút vẽ ra cả
một bức tranh thuỷ mặc chỉ trong một câu văn, cái câu sẽ còn vương vấn mãi trong hồn bao bạn
đọc: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở họa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”.
Nếu được phép tỏ bày ý thích riêng, thì quả thực, cảm tình của tôi có phần được đặt nhiều hơn
vào đoạn tả con sông Đà trữ tình này. Làm sao có thể không yêu lối viết của Nguyễn trong cái
khúc nói về cái lần nhà văn “nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Lúc đầu, chỉ là cảm giác còn mơ
hồ về một sự “thèm chỗ thoáng”, do “ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu”, thậm chí còn “quên đi mất
là mình sắp đổ ra Sông Đà”. Rồi con sông hiện ra, nhưng chỉ một chút thôi, loang loáng như
nghịch ngợm, đúng là cảm giác về cái nhìn con sông thấp thoáng, xa xa của con người còn phải
bộ hành trong rừng cây, trên đèo dốc. Chợt kịp khi nhận ra được dòng sông – người bạn cũ thì
sao mà nó sâu xa, ngơ ngẩn thế, trong cái ánh “yên hoa tam nguyệt” đọng sắc hoe hoe vàng tự
thuở Đường thi. ít nhiều còn hiểu được vì sao cái vui gặp lại sông Đà cố nhân nó giống như “nối
lại chiêm bao đứt quãng”. Nhưng thật khổng biết tại làm sao tác giả lại cảm giác được “nắng
giòn tan… ”? Chỉ biết khi ba chữ ấy đã viết ra rồi thì rõ là không thể nào đúng hơn, hay hơn,
không thể nào đổi khác. Và cứ thế, cái “đằm đằm âm ấm” của nắng mùa xuân trên dòng sông
xuân lâu ngày gặp lại nó dư sức làm thấm thía thêm niềm hạnh phúc được sống trên mặt đất này.
Nhưng kì diệu hơn nữa, theo tôi, là đoạn văn bắt đầu từ câu viết: “thuyền tôi trôi trên Sông Đà”.
Câu văn viết toàn thanh bằng, đẹp như một lời thơ. Mà đoạn văn xuôi ấy, sao tôi thấy nó thơ hơn
nhiều lắm so với bao nhiêu bài thơ tôi đã đọc. Chắc phải có người thơ nào thèm muốn tạo được
sự lặng lẽ đầy mơ mộng của một mũi đò lừ lừ trôi giữa đôi bờ hoang dại, cái lặng lẽ tuyệt đối để
ru hồn người vào cái ảo giác về bờ sổng tiền sử, vể một nỗi niềm cổ tích hay hoài niệm về thời Lí
thời Lê… Và là cái lặng lẽ mơ màng đến độ con người chờ mong một sự giật mình để rũ mình ra
khỏi giấc mơ xưa mà không được. Mùa xuân dòng Đà giang được nhà văn cho e ấp tỏ mình qua
mấy lá non nhú lên trên một nương ngô và những nõn búp cỏ gianh đồi núi. Rồi con hươu, mới
tuyệt làm sao hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”. Nhẩm lại lúc
viết Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đến bờ tuổi ngũ tuần, và kể thì hồn văn ấy đã già từ Vang bóng
một thời, từ Một chuyến đi. Nghĩ thế lại càng thấy quý cái bờ ngỡ non tơ đến tuổi năm mươi lại
nảy lộc trong nhà văn bên một dòng sông, một cuộc đời mới mẻ.

Và cảm xúc đáng quý ấy cứ du dương mãi trong tôi vói những âm thanh văn xuôi rất đáng gọi là
“nên câu tuyệt diệu”: “Hỡi ông khách Sông Đà có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi
sương?”. “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi… Dòng sông
quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây
Bắc”… Tôi cảm thấy chiếc bè thơ kết bằng những câu văn xuôi ấy đem lại cho mình một thứ nhã
thú văn chương mà phải nói rằng cũng còn hiếm gặp ở trong đời.

Nhưng tác giả Người lái đò Sông Đà cũng không phải con người duy mĩ. Ta trọng sự tinh tế của
ông trong cảm thức về cái đẹp. Nhưng qua thiên tuỳ bút, ta hiểu ràng cái còn đáng trọng hơn nữa
của ông vẫn là tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước, là sự tôn kính công sức lao động của con
người.

Đề 3: Phân tích đoạn văn sau trong bài tùy bút "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân:
"Thuyền tôi trôi trên sông Đà... nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển
trên dòng trên".

Trong tâm thức của mỗi một con người Việt Nam, dòng sông luôn được xem là bóng hình quen
thuộc và để lại nhiều dấu ấn không phai mờ. Chính vì vậy, trên mảnh đất về đề tài thiên nhiên trù
phú, địa hạt viết về dòng sông luôn xuất hiện những tác phẩm xứng tầm kiệt tác. Một trong số
những tác phẩm thể hiện rõ điều này là "Người lái đò sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân. Dưới
ngòi bút của tác giả, sông Đà hiện lên như một nhân vật với hai tính cách: Hung bạo và trữ tình.
Đoạn văn "Thuyền tôi trôi trên trên sông Đà.... trên dòng sông" đã thể hiện rõ vẻ đẹp trữ tình, thơ
mộng của dòng sông.

Sau khi miêu tả về tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà qua các chi tiết về nước, đá, sóng, ở
những quãng sông hẹp và những cái hút nước khủng khiếp, ngòi bút của tác giả đã tập trung
miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông. Nét dịu dàng đó đã được thể hiện qua dáng vẻ và
tâm hồn. Với ngòi bút tài hoa, uyên bác cùng sự quan sát tinh tế, tác giả đã ví dòng sông với vẻ
đẹp của một người thiếu nữ kiều diễm: "con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai". Vẻ đẹp đó
đã được cụ thể hóa hơn nữa thông qua những chi tiết quang cảnh ven sông. Với điểm nhìn từ con
thuyền: "Thuyền tôi trôi trên sống Đà", dòng sông đã được quan sát và miêu tả một cách chi tiết,
cụ thể. Dưới ngòi bút của tác giả, quang cảnh ven sông hiện lên với sự êm đềm, tĩnh lặng: "Cảnh
ven sông ở đây lặng như tờ". Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút lực để phác họa những nét vẽ
chi tiết về vẻ "lặng như tờ" đó hệt như một người họa sĩ tài hoa. Những hình ảnh về "một nương
ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa", "cỏ tranh đang ra những búp nõn" cho thấy cảnh vật
được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Giữa không gian thơ
mộng, tĩnh lặng đó, chỉ có duy nhất hình ảnh một đàn hươu "cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm
sương đêm" khiến cho thiên nhiên hiện lên trong mối giao hòa, gắn kết.

Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong sự tươi mới, tinh khôi đã đưa tác giả vào một không gian
mang đầy sự huyền ảo, "hoang dại như một bờ tiền sử", "hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa". Đằng sau những cảm nhận vô cùng tinh tế đó, chúng ta có thể thấy được tâm hồn của
một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã hòa mình vào thiên nhiên cùng mây trời non nước sông
Đà. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi, thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn
từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương,
chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò", rồi "hươu vểnh tai". Hình ảnh này gợi cho chúng
ta nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ của tác giả Lưu Trọng Lư:

"Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô"

Chú hươu trong những câu văn của Nguyễn Tuân hay chú nai vàng đang lắng nghe "Tiếng thu"
trong thơ Lưu Trọng Lư đều gợi lên sự tinh khôi, thuần khiết của thiên nhiên. Sau khi miêu tả
quanh cảnh ven sông, tác giả tập trung miêu tả cảnh sắc dưới lòng sông. Hàng loạt những thực
thể hiện lên với sắc màu và dáng vẻ khác nhau trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: "Đàn
cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi". Và rồi dòng sông đã được nhân
hóa với những nét tính cách của con người, trôi chậm như "nhớ thương những hòn đá thác xa xôi
để lại trên thượng nguồn Tây Bắc".

Như vậy, thông qua đoạn văn của tác giả Nguyễn Tuân, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp thơ
mộng, trữ tình của con sông Đà nói riêng và của thiên nhiên Tây Bắc nói chung. Đồng thời thấy
được tình yêu thiên nhiên cũng như những nét đặc sắc tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của
nhà văn Nguyễn Tuân.

Đề 5: Phân tích tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.

Khi lòng ta đã hóa những con tàu


Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó là khi cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây
Bắc” để có thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có biết bao nhà văn, nhà thơ
lúc này đây dường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Trong đó
không thể không nhắc đến người nghệ sĩ yêu nước Nguyễn Tuân được ví như một cây độc huyền
cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò
sông Đà” để có thể thể hiện được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của
ông.

Có thể nói khi đến với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng
tạo, bởi vì chính nhà văn là người sáng tạo lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân sợ mình của ngày
hôm nay dường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm
thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể
viết lên các tác phẩm có giá trị được.

Hình ảnh con sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa, nhưng phải đến với Nguyễn
Tuân thì con sông Đà mới hiện ra chân thực và vô cùng cảm động. Với ngòi bút Nguyễn Tuân,
con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như
còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, tất cả như cũng có thể cướp đi mạng sống
của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” không dừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như
đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Nguyễn
Tuân còn miêu tả có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”…
Thế nhưng chính cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Nhà
văn còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông ở những đoạn xuôi dòng, không những thế
thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang đậm chất thơ với đoạn
miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…

Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng trong một
cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả Nguyễn Tuân lúc này cũng
đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò
sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả, ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc
chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà dường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng
sông êm ả…

Sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự
vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng
thời con sông Đà cũng chính là một kẻ thù nhưng lại là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tác giả,
con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, thêm với đó có một sự sôi nổi bằng
những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của
ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự rõ nét và sắc sảo… Đối
với nhà văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đầu tiên đã là văn phải đẹp,
phải trau chuốt. Và đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân như đứng
trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người và sự vật lúc này đây cũng lại thông qua ngòi bút
Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.

Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính là một công trình dày công sáng tạo của
tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc, với
những câu văn miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà mới đẹp làm sao. Đó cũng chính
là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước của con sông Đà khi đến mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước sông Đà dường như cứ lừ lừ chín đỏ giống như da mặt
người bầm đi vì rượu bữa”. Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một
cảnh đẹp thiên nhiên mà nó cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết
cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân như
cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân mà phải thốt lên: “Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng”.

Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên, hình ảnh
con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con
thuyền một cách chủ động và thuần thục nhất giống như một người nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò
bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh
ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường
chèo về phía cửa đá ấy”. Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền
cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.

Có thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn
Tuân. Ở trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi tìm đề tài cho tác phẩm
bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm hiểu với một thời vang bóng đã qua.
Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân
vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ có phí phách “nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật
“vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc đến điều. Thế nhưng
sau cách mạng thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao
động hết sức bình dị, gần gũi nhất ở ngay chính trong các công việc bình thường mà họ đang
làm.

Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những
người nghệ sĩ tài hoa có một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã miêu tả hình ảnh người
đời thường lái đò, Thêm với đó là Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục
những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc tái hiện lại hình
ảnh sông núi Tây Bắc và thêm với đó là hình ảnh của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết
hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình
như: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta
sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Miêu tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã
trắng xóa cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền
thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang tận mắt
chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng kiến từng đoạn
sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình biết bao
nhiêu.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự
tài hoa và uyên bác. Vì vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa
lí, sinh học… thật lớn. Tất cả các kiến thức này cũng thường được tuôn trào dào dạt trong tác
phẩm của ông. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã
đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn
Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính uyên bác, tài hoa.

Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong phú. Cứ
mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Nguyễn Tuân
như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi
khi có vẻ thô kệch, nó dường như cũng đã dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Tác giả
không chỉ viết lên những trang văn tài hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm
hưởng trong mỗi đoạn văn.

Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê hương Tổ quốc thì nhà
văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và
thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước. Thực sự chính văn chương của ông đã mang đến
cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.

Đề 6: Phân tích hình tượng Người lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân

Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội
chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cuộc sống mới, con
người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái
đò sông Đà với hình tượng người lái đò là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca
ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất
nước.

Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi
bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó,
chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.

Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới
sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con
số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông
vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay
ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái
cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi
vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước…
đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm
duy nhất chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta
lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện
mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hoàn toàn
với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng,
dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời
vật lộn với sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con
thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác
này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách
chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh
so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca
mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày
dặn kinh nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một niềm
đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không
hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ
thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông
thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.

Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân đã sáng
tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, giữa một bên là thủy
quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường
tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng,
ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa
đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn ông lái đò vào thế yếu.
Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của
Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như
ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi
thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên
sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò
đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất
ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày
dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn
quân sóng nước, cách đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi
thạch trận khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn làm
bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, sức chịu đựng,
đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông
Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông
lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.

Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau
cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề
sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều
không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông
lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi
biết giản dị hóa bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người
lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.

Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài
hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể
hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ
được miêu tả không phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm
chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng
trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

You might also like