You are on page 1of 4

Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc

đáo của
Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa, không quản gian lao vất vả để có được
những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, sức liên tưởng phong phú đem đến cho người đọc
người nghe cảm nhận về một tâm hồn khao khát hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước
của cuộc đời.

Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải
nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông Đà (1960). Sông Đà quanh co, uốn
lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho
Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo mà trữ tình đã
làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những thành tựu to lớn
trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ông có tập “Vang bóng một thời” gồm
mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vô cùng to lớn. Hoà chung với không khí thời đại trong
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc, phong cách Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét
sáng tạo, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện
văn hoá và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên
hiện lên trong văn chương của ông cũng trở thành những công trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo.
Người lái đò sông Đà là đoạn trích được rút ra từ tập tuỳ bút Sông Đà được ông viết năm 1960,
trong một chuyến đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi thoả
mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không quên tìm kiếm “chất
vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy hiểm nhưng cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ
thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp của con người nơi đây được ông ví như “chất vàng mười
đã qua thử lửa” họ là người dân lao động có trí tuệ, có lòng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên
nhiên.

Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và hình tượng người lái
đò trên dòng sông quanh năm dữ tợn thách thức với con người. Với ngòi bút tài hoa của mình ông
đã tạo nên hình tượng Đà giang mang hai sắc thái, hai bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung
bạo những cũng cũng không kém phần trữ tình, thơ mộng.

Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa như đam mê, thích
thú. Bằng sức tưởng tưởng phong phú của mình, lối hành văn nhạy bén độc đáo của mình con
sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc với niềm đam mê hãi hùng và thích thú vô cùng.
Cái hung bạo được nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật
ẩn dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn Tuân ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và
đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ trực chờ. Nhà văn miêu tả, mặt sông lúc ấy “đúng ngọ” mới
có mặt trời, có vách đá “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con
nai nhảy từ bờ này qua bờ kia. Các liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại
chứa đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi mặt trời lên
cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu cảm xen lẫn với nghệ thuật so
sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu con nai có thể nhảy qua được. Những hình ảnh
độc đáo được tác giả khéo léo lồng vào, đã tạo cho người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp
của lòng sông. Ngồi trong khoang thuyền đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh”, tác giả
miêu tả thông qua cảm giác, mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây, chính cái khung cảnh
choáng ngợp, kỳ vĩ, chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.

Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng ngàn cây số “nước
xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Một loạt thanh sắc xuất hiện tạo cho ta cảm giác sóng gió ngày
càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô”
được lặp lại nhiều lần. Sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”,
hầm hè như một con thú hoang hung dữ, lì lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi đây.

Những cái “hút nước” khủng lồ trên quãng sông Tà Mường Vát. Xoáy nước “như những cái
giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở và kêu như một cái cống bị sặc”.
Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động,
hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến
lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.

Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc hoạ rõ nét nhất chính là ở khúc thác
sông Đà. Tác giả miêu tả con sông bằng những hình ảnh hết sức biểu cảm, bằng những âm thanh
dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới tới thác mà đã nghe thấy tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi
lên”, tiếng nước nghe như “oán trách”, như “van xin”, như là “khiêu khích”, nó rống lên từng hồi
ghê rợn như tiếng của “một ngàn con trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong lúc rừng cháy, ngọn lửa
đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.

Những hòn đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân trời đá” rộng lớn.
Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn nấy mặt trông cũng rất “ngỗ nghịch”,
“nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả dùng nhiều tính từ chỉ con người để miêu tả qua đó người
đọc cảm nhận được sự dữ tợn, sự bất cần, bướng bỉnh của hòn đá, chúng như những vật thể
sống và là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo ra. Sông Đà dường như đã giao nhiệm vụ cho từng hòn
đá để bày ra “thạch trận” tuyên chiến, thách thức với con người. Vòng thứ nhất “thạch trận” có
năm cửa trận, có “bốn cửa tử”, “một cửa sinh” nằm lập lờ nơi tả ngạn con sông. Vòng thứ hai,
thác sông Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa tử hơn
để đánh lạc hướng con thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về phía hữa ngạn.
Vòng thứ ba, vòng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà bày ít cửa hơn nhưng trái phải
đều là “luồng chết”, cửa sống duy nhất lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ đang canh gác. Qua
phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu tưởng tượng của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên
thật hung bão, dữ tợn, nó như một “loài thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm,
là kẻ thù số một của con người trong cuộc chiến không cân sức.

Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng của nó. Vẻ đẹp Đà
giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, không gian và thời gian khác nhau. Từ
trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như áng tóc của người con gái Tây Bắc
kiều diễm, xinh đẹp. Dòng sông Đà được nhà văn bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn
tượng sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Màu nước
sông Đà biến đổi theo từng mùa khác nhau, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa
xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ xinh
đẹp, mơ mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần khó hiểu, thay
đổi thất thường.

Sông Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp. Sau chuyến đi dài
ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gợi cảm, thơ mộng như “màu nắng tháng ba Đường thi”, bờ
sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm. Người cố nhân ấy giờ đây yên ả lạ thường như đang
lặng nghe âm thanh của thời gian, thưởng thức cảnh sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ
như nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những nương ngô
“nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, ngọn cỏ “đang ra những nõn búp”, xa xa là vài con hươu nhai
cỏ. Sông Đà lúc này như bờ tiền sử mang bên mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.

Dòng sông Đà được tác giả khắc hoạ rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật độc đáo: So sánh,
ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng, sáng tạo mới mẻ, ông đã viết lên
những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động. Dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, Đà giang
không còn là một con sông vô tri mà nó là một sinh thể có suy nghĩ, có tâm hồn.

Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người. Thiên nhiên càng
rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên vẻ đẹp trí tuệ tài hoa của con người
lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo ra hình tượng “ông lái đò” đây là hình ảnh biểu trưng
cho người lao động cần cù chăm chỉ nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, cam đảm khi sẵn
sàng đối đầu với thiên nhiên hung tợn trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông Đà bỗng
chốc trở thành kẻ thù số một, người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ
được sự mưu trí, tài hoa nghệ sĩ của mình.

Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác sông đà.
Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch trận” với ba vòng thách đấu như muốn
tiêu diệt những con thuyền đi qua. Những người anh hùng vẫn không chút sợ hãi, vẫn rất điềm
tĩnh bằng trí tuệ của mình ông lái đò đã lần lượt chinh phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với năm
cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh duy nhất nằm lập lờ bên bờ tả ngạn. Thuyền vừa tới,
“phối hợp với đá, nước reo hò làm thanh viện cho đá” những hòn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. Có hòn đá
nhìn nghiêng thì như “hất hàm” đòi cái thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn
thì như thách thức ông đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn “giữ lấy
mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt nước hò reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy cán thuyền, sóng
nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nước bám lấy
như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đò ra. Sóng nước đánh đến món đòn “hiểm độc nhất”,
luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Ông đò đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không
hề đầu hàng trước kẻ thù, ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng chỉ huy
của ông vẫn vang lên ngắn gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi thạch trận thứ nhất”.

Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá luôn vòng vây thứ hai, lần này ông đò đã
đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm chắc “binh phát của thần sông Đà”, “thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con sông Đà đã lộc rõ sự gian trá, độc ác của mình khi lần này
nó bày ra nhiều cửa tử hơn, cửa sinh nằm lệch sang một phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng
nghệ thuật so sánh cưỡi lên con sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nắm được cái
bờm sóng đúng luồn rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì cặt cương lái”, bám chặt lấy luồng
nước cố sức phóng nhanh vào phía cửa sinh, “lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại sau
lưng những cửa tử và những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.

Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là luồng chết”, luồng
sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con sông Đà dường như chưa từ bỏ tham vọng
của nó, sự hiếu thắng, nó muốn nuốt trọn con thuyền trong lần giao chiến quyết định cuối cùng
này. Nhưng người lái đò bao lần vượt thác ghềnh, ông đã tích luỹ biết bao kinh nghiệm, ông cho
thuyền phóng thẳng “cứ thế chọc thủng cửa giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn hoắt, cứ
thế lao nhanh “vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Cuối cùng bằng sự gan dạ, tài trí,
kinh nghiệm của mình ông đò đã vượt hết dòng thác một cách an toàn, giành chiến thắng trong
cuộc chiến không khoan nhượng với kẻ thù hung bạo.

Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc.
Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, võ thuật, thể thao, âm nhạc…, các biện
pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp điệu câu văn hài hoà sinh động. Ông đã khắc hoạ thành
công hình ảnh người lái đò sông Đà trí tuệ, tài hoa và bản lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động
Tây Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao quý.

Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyên Tuân là một bài tuỳ bút có giá trị vô cùng to lớn, tác
giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng, khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp của thiên
nhiên cùng với con người miền Tây bắc xa xôi. Đồng thời thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng,
sự gắn bó tha thiết, sâu nặng của Nguyễn Tuân đối với quê hương, đất nước, con người Việt
Nam.

You might also like