You are on page 1of 10

ĐỀ 1: VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ

Bài làm
Mở bài: Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác và độc đáo. Văn
bản “Người lái đò sông Đà” trích từ tác phẩm “Sông Đà” được ông
hoàn thành năm 1960, cho thấy sự chuyển biến trong tư tưởng và
phong cách nghệ thuật Nguyễn tuân trước và sau cách mạng tháng 8.
Văn bản không chỉ tái hiện vẻ đẹp của con sông Đà và người lái đò
trên dòng Đà Giang mà còn bộc lộ tình cảm yêu mến, thiết tha, tự hào
của tác giả với cảnh sắc thiên nhiên đất nước và vẻ đẹp con người lao
động trong cuộc sống mới.

Thân bài:
- Nêu khái quát hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, mục đích sáng tác.

a. Nhận xét khái quát về Sông Đà:

Sông Đà – biểu tượng của thiên nhiên tây Bắc hùng vĩ mà thơ
mộng in đậm trong tâm hồn Nguyễn Tuân. Ngòi bút của ông đã hòa
trộn hai vẻ đẹp: vẻ đẹp chủ quan của tâm hồn và vẻ đẹp khách quan
của dòng sông, để tái hiện một dòng sông như một sinh thể có hành
động, biết tri giác, cảm giác và có cá tính, tâm trạng. Dưới quyền
năng sáng tạo của Nguyễn Tuân, nhân vật sông Đà được hiện lên với
hai nét tính cách: hung bạo và trữ tình. Lúc hung bạo con sông là kẻ
thù số một của con người. Lúc trữ tình con sông ấy lại hết mực dịu
dàng, thân thiết với con người. Mở đầu Nguyễn Tuân dùng hai câu
thơ dẫn dắt người đọc đến với sông Đà:
“Đẹp làm sao tiếng hát trên dòng sông”.
“Chúng thủy giai đông tẩu. Đà giang độc bắc lưu”.

Từ hai câu thơ của nhà thơ Ba Lan và nhà thơ Lưu Quang Bích ta
hiểu được tư tưởng chủ đề và cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là
tình yêu quê hương, niềm tự hào đối với cảnh sắc của non sông đất
Việt.
b. Phân tích, chứng minh, bình luận vẻ đẹp hình tượng sông Đà với
hai đặc điểm nổi bật: Con sông hung bạo, dằn dữ và con sông thơ
mộng, trữ tình.

Lai lịch, nguồn gốc: Nguyễn Tuân đã không quản ngại công phu để
quan sát kĩ càng và ghi lại sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà trên
nhiều dáng vẻ. Nguyễn Tuân đã biến con sông miền Tây Bắc thành
một hình tượng sống động, đối tượng của một thẩm mĩ hoàn chỉnh.
Trước hết nhà văn đưa người đọc về với lai lịch của sông Đà. Sông
Đà khai sinh ở huyện cảnh đông tỉnh Vân Nam – Trung Quốc, lấy tên
là Ly Tiên đi qua một vùng núi ác đến nửa đường thì nhập quốc tịch
Việt Nam, trưởng thành mãi đến ngã ba Trung Hà thì nhập vào sông
Hồng. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dồn hết tâm ý để xây dựng hình
tượng sông Đà bằng những trang viết sinh động, bằng vốn kiến thức
liên ngành, đa ngành.

Sông Đà hung bạo, dằn dữ, khắc nghiệt:


+ Hùng vĩ của sông Đà trước hết thể hiện ở chi tiết “Cảnh đá bờ sông
dựng vách thành”, “Chẹt lấy dòng sông hẹp”. Chỉ với một hình ảnh
“mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt trời”, Nguyễn Tuân
đã giúp người đọc hình dung được độ cao của vách đá hai bên bờ
sông và diễn tả được cái âm u, lạnh lẽo, hun hút của những khúc sông.
Đá ở bên bờ sông đã chặn hết ánh nắng, chúng không cho bất cứ một
tia nắng nào xuống mặt sông trừ lúc giữa trưa. Bằng một loạt so sánh,
liên tưởng vừa chính xác tinh tế, vừa bất ngờ lạ lẫm nhà văn đã sáng
tạo ra những hình ảnh tác động mạnh đến trí tưởng tượng và xúc cảm
của người đọc. Từ so sánh: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một
cái yết hầu” đến liên tưởng “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy như đang đứng ở hè một cái ngõ
mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứu mấy
nào vừa tắt phụt đèn điện” đều rất độc đáo. Độc đáo bởi tác giả đã
mượn cảm giác nơi thành thị để đặc tả không gian nơi sơn giã.
+ Sự hung bạo, khắc nghiệt của sông Đà còn được thể hiện ở quãng
mặt ghềnh Hát Lóong. Chỉ với hai câu văn nhưng bằng sự kết hợp của
nhiều biện pháp nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã cực tả sức mạnh của
sóng thác sông Đà. Nhà văn đã thổi hồn người vào dòng sông để cho
sông mang hình dáng của một kẻ đi đòi nợ xuýt: “Gùn ghè suốt năm
như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào túm được”. Thủ
pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió”, những thanh trắc được reo liên tiếp tạo âm hưởng dữ dội, dồn
dập khiến cho người đọc như sôi lên, cuộn chảy giữa dòng. Câu văn
đang đi bằng nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiến khiến cho
ảnh hưởng của sóng, gió càng trở nên mãnh liệt. Hình thái của dòng
sông được nhà văn nén vào trong một thứ văn cheo leo gây chấn động
mạnh vào thần kinh cảm thụ của người đọc.
+ Hùng vĩ của sông Đà còn được thể hiện ở quãng Tà Mường Vát
phía dưới Sơn La với những cái hút nước xoáy. Bằng so sánh, nhân
hóa kết hợp với kể và tả cùng liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ nhà
văn đã khiến cho những cái hút nước ấy hiện hình dưới nhiều góc độ
khác nhau. Đồng thời cũng giúp cho người đọc cảm nhận được tất cả
sự ghê gớm, độc ác của chúng. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
những cái hút nước sông Đà giống như những cái giếng bê tông thả
xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như
cái cống cái bị sặc. Khi thì “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.
Tự bản thân những chữ: “thở”, “kêu”, “ặc ặc”, “rót dầu sôi” đã nói lên
cường lực ghê gớm của những cái hút nước. Tuy nhiên trang văn
Nguyễn Tuân luôn muốn đưa người đọc đi đến tận cùng cảm giác
bằng trí tưởng tượng, sự sáng tạo và vốn sống phong phú. Nguyễn
Tuân đã cực tả mức độ khủng khiếp của những cái hút nước qua hàng
loạt những liên tưởng, so sánh độc đáo. Tác giả đã ví con thuyền phải
qua những vùng nước xoáy thật nhanh giống như đi ô tô sang số nhấn
ga để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Nhà văn
tưởng tượng cảnh anh bạn quay phim táo tợn muốn truyền cảm giác lạ
cho khán giả đã dũng cảm ngồi vào cái thuyền thúng tròn vành rồi
cho cả mình, cả thuyền, cả máy quay xuống tận đáy cái hút nước sông
Đà. Từ đáy cái hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông
chênh nhau cao tới vài sải. Ngoài ra, để người đọc vẫn gắn liền với
hiện thực tác giả đã kết hợp tả và kể một cách chân thực về những cái
thuyền bị hút nước hút xuống như thế nào: “Thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến đi bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến
mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
+ Hiểm ác còn ở các trận đá trên sông. Sông Đà như một loài thủy
quái khổng lồ, khôn ngoan, nham hiểm và chặn đánh tiêu diệt con
người. Thủy quái sông Đà khi ẩn lấp mai phục, khi lừa miếng đánh du
kích, khi quay vòng trở lại, khi thì như liều mạng đánh tới tấp bốn
phía, khi như khiêu khích, khi như văn xin, …Nhà văn đã đem kiến
thức quân sự và võ thuật, thể thao để xây dựng hình ảnh những tướng
đá, quân đá ở sông Đà. Bằng nghệ thuật nhân hóa nhà văn đã biến
những hòn đã vô tri mang sắc diện, thái độ, suy nghĩ của con người:
“Mặt hòn đá ấy trông nghiêng thì như là đang hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Một hòn khác lùi lại một
chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Hòn nào cũng
nhăn nhúm, méo mó, ngỗ ngược và sẵn sàng giao chiến. Mỗi hòn đá
được giao một nhiệm vụ riêng. Cả một tập hợp đá là một chuối những
nguy hiểm rình rập người lái đò. Khi thì nó mai phục rồi đột nhiên vồ
lấy con thuyền, khi thì nó tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi quay
lại đánh. Khi đánh giáp lá cà thì nó đâm thẳng vào bụng, vào hông
thuyền mà đá trái mà thúc gối. Sóng thác đã dùng đến món đòn hiểm
độc nhất, nước thác reo hò làm náo động cả một vùng sông nước
hoang vu. Nhà văn đã sử dụng ngôn từ để xây dựng hình ảnh, âm
thanh làm nên một dàn giao hưởng của sóng gió xô thác đá. Nhà văn
còn dùng lửa để tả nước để cực tả cái dữ dội, hiểm nguy của sóng thác
sông Đà: “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa đang phá tan rừng lửa, rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
+ Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, sự hùng vĩ và hung bạo
của sông Đà đã hiện ra ở nhiều dáng vẻ khác nhau. Tất cả đều toát lên
vẻ hoang dại. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với ngòi bút độc lạ
của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã cực tả sức mạnh của sông cũng là tô
đậm vẻ đẹp sức mạnh của con người.

Con sông Đà thơ mộng, trữ tình, duyên dáng


+ Con sông Đà dằn dữ, khắc nghiệt bao nhiêu thì cũng trữ tình, thơ
mộng, duyên dáng bấy nhiêu. Dường như có một sự chuyển mạch
trong câu văn của Nguyễn Tuân, từ những dòng trúc trắc gập ghềnh
chuyển sang những câu văn đẹp như những vần thơ. Mạch ý chuyển
đổi đánh dấu vào câu văn thật đẹp: “Sóng thác sèo sèo tan trong trí
nhớ”. Từ cảm giác hồi hộp, rùng mình, ghê sợ người đọc lại được
chiêm ngưỡng dòng sông ở góc nhìn thơ mộng, trữ tình. Con sông
được tạo dáng bằng sự liên tưởng bất ngờ, kì thú. Từ trên cao nhìn
xuống, nhà văn thấy dòng chảy của dòng sông như mái tóc mềm mại
của người thiếu nữ: “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ
tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương xuân.”
Qua sự cảm nhận của tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, tinh tế, sông Đà hiện
lên như một thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trẻ trung, duyên dáng, ngời
ngợi sắc xuân và sức xuân. Nhà văn cũng nhìn thấy sông Đà như một
cái dây thừng ngoằn ngoèo, như áng tóc mun dài ngàn vạn sải.
+ Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên
sông Đà. Nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa có một sắc diện
riêng. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu. Đặc biệt, tác giả khẳng đinh
chưa bao giờ con sông Đà là đen như thực dân Pháp đã: “đè ngửa con
sông ra để đổ mực Tây vào và gọi bằng một cái tên tây láo lếu: Sông
Đen”. Bằng sự khẳng định này Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ
đẹp của dòng sông mà còn bày tỏ tình cảm yêu mến với sông Đà.
+ Sông Đà đẹp, sông Đà gợi cảm, duyên dáng và đáng yêu. “Gặp lại
sông Đà như gặp lại cố nhân”. Nguyễn Tuân cảm nhận rõ nét cái chất
đằm dằm, ấm ấm, thân quen của Đà giang, nhất là chất thơ như ngấm
vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên. Màu nắng tháng ba trên sông Đà
thật đặc biệt, đó là sắc màu của Đường thi, của quá khứ.
+ Từ điểm nhìn của một người du thuyền trên mặt sông, nhà văn đã
quan sát, khắc họa vẻ đẹp nên thơ của dòng sông. Vẻ đẹp yên ả, tĩnh
lặng: “Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng
tờ đến thế mà thôi”. Đó còn là vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống như
bắt đầu một mùa nảy nở, sinh sôi. Sự sống đang cựa mình bật dậy,
tách vỏ, đâm chồi: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy
lá ngô non đầu mùa”. Những câu văn đẹp như những dòng thơ trữ
tình tạo cho người đọc ấn tượng đầy mĩ cảm – một không gian thơ
mộng, một sự sống đang trào dâng. Đó còn là vẻ đẹp của sự hoang sơ,
kì vĩ, tồn tại như một sự vĩnh hằng của tự nhiên: “Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nối niềm cổ tích tuổi
xưa”.

c. Đặc sắc nghệ thuật


Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng sông Đà, một
hình ảnh tiêu biểu của vùng núi Tây Bắc. Có người nói, Nguyễn Tuân
khi viết sông Đà như đang đề thơ vào sông nước. Văn bản “Người lái
đò sông Đà” và đặc biệt là hình tượng sông Đà đã thể hiện một cách
đặc sắc tinh hoa của bút lực Nguyễn Tuân với một thứ ngôn ngữ giàu
có, biến hóa linh hoạt, giàu hình ảnh, giàu âm điệu mà nhà văn tung ra
trên trang viết. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân mang sức mạnh biểu đạt lạ kì
làm sống dậy hơi thở sự sống, kích thích trí tưởng tượng của người
đọc. Tác phẩm cũng thể hiện sự chuyển biến trong tư tưởng và phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng. Từ một cái tôi
ngông nghênh kiêu ngạo, bi quan, bế tắc Nguyễn Tuân đã mở rộng
lòng mình để rung động trước vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên đất
nước, quê hương.

Kết bài: Với tùy bút “Người lái đò sông Đà” và xây dựng thành
công hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân đã vượt qua được quy luật
nghiệt ngã của sáng tạo nghệ thuật, vượt lên trên cái bình thường để
cho nhân vật sông Đà mãi mãi bất tử trong lòng người yêu văn.

ĐỀ 2: VẺ ĐẸP HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


Bài làm
Mở bài: Nếu trước cánh mạng ta bắt gặp một một Nguyễn Tuân
hoang mang, bế tắc, tìm cái thoát li trong rượu, đàn hát, thuốc phiện
thì sau cách mạng, với hình tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn
Tuân đã khám phá ra thứ vàng mười đã qua thử lửa ở những người lao
động Tây Bắc bình dị. Người lái đò với tay lái ra hoa ấy đã hiện lên
sừng sững, vững chãi, tự do và đẹp như một huyền thoại trong thiên
tùy bút “Người lái đò sông Đà”.

Thân bài: Vẻ đẹp của hình tượng người lái đò


- Giới thiệu vắn tắt hcst, xx, mđst

a. Cách giới thiệu nhân vật


Nhân vật người lái đò hiện diện trong tâm thức người đọc được đặt
trong mối tương quan giữa thạch thủy trận sông Đà. Cái dằn dữ khắc
nghiệt của dòng sông càng tô đậm thêm tầm vóc, vẻ đẹp của con
người lao động bình thường song cũng rất đỗi phi thường.

b. Lai lịch, nguồn gốc, nghề nghiệp


Ông đò quê ở Lai Châu, ông làm nghề lái đó đã hơn 10 năm. Đó là
một tay lái lão luyện: “Trên sông Đà ông xuôi, ông ngược trên một
trăm lần rồi, chính tay lái độ sáu chục lần…”. Ông là một con người
từng trải, hiểu biết, thành thuộc nghề lái đò trên sông. Ông am hiểu
dòng sông như hiểu chính bản thân mình với một khả năng đặc biệt:
“Bằng cách lấy mắt mà nhớ như đanh vào lòng tất cả những luồn
nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đối với ông lão ấy
như một thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc tất cả dấu chấm than,
chấm câu và những đoạn xuống dòng. Nhà văn khâm phục và ngợi ca
người lái đò bằng những liên tưởng và so sánh đầy chất văn chương.
Cuộc sống lao động của ông lái đò là một bài thơ hào hùng và lãng
mạn đến kì lạ. Hình tượng ông lái đò 70 tuổi với mái tóc bạc phơ “Cái
đầu bạc quắc thước” đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất
sừng, chất mun và hai cánh tay “trẻ tráng”, “nhỡn giới của ông cao
vời vợi”, tiếng nói ào ào như tiếng thác nước, hai chân khuỳnh
khuỳnh như lúc nào cũng đang kẹp chặt một cái cuống lái trong tưởng
tượng, tay ông dài lêu nghêu. Hình ảnh ông lái đò là biểu tượng cho
con người cưỡi gió đạp sóng, điển hình cho người anh hùng lao động
dưới đời thường. Ông lái đò được miêu tả bằng những giác quan nghệ
sĩ, bằng cảm hứng tụng ca và bằng kho ngôn từ phong phú đầy giá trị
tạo hình để người đọc có được một cảm nhận con người ấy như được
sinh ra từ sóng nước của Đà giang.

c. Ông lái đò trí dũng vô song


Ông lái đò hiện lên trên trang văn Nguyễn Tuân như một dũng
tướng. Ông xử lí các tình huống nguy hiểm một cách chính xác, thông
minh và táo bạo, tài tử đến kì diệu. Nhà văn đã dụng tâm diễn tả ông
đò trí dũng tuyệt vời tương khắc với thác nước sông Đà mưu mô xảo
quyệt. Sóng thác sông Đà như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá
trái mà thúc gối vào dụng, vào hông thuyền. Nhưng ông đò dù đã bị
thương vẫn cố giữ mái chèo, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái. Với ông
lão “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”, ông nắm
chặt lấy bờm sóng đúng luồng rồi ông ghì cương lái lái miết một
đường chéo về phía cửa đá. Với binh pháp của thần sông, thần đá ông
lão linh hoạt trong việc vận dụng chiến lược: “Rảo bơi chèo lên, đứa
thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Ông lão đã giao
chiến với tướng đá sông Đà như một tướng sĩ, như một anh hùng đời
thường làm chủ thiên nhiên và làm chủ tự do của chính mình. Con
thuyền là chiến mã, mái chèo là thanh gươm. Ông lái hiện lên vững
chãi lồng lộng giữa sóng nước dữ tợn dù đơn độc, nhỏ bé, dù: “Có lúc
chúng đổi cả thuyền lên, nước bám đầy thuyền như đô vật bám lấy
thắt lưng ông đò đòi vạt ngửa mình ra giữa trận nước vang trời”.
Qua vòng một, vòng hai, ở vòng ba ít cửa hơn nhưng bên phải, bên
trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở giữa
bọn đá hậu vệ của con thác. Ông lái đò tài tình mà nghệ thuật khi chèo
lái con thuyền “vun vút” ra cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng.
Thuyền như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước vừa xuyên vừa lái
được, lượn được. Nguyễn Tuân đã đưa ra phép so sánh độc đáo và
chính xác gợi tả hình ảnh người lái đò với người lái xe đang lao
xuống dốc đèo. Người lái xe khi nguy nan thì còn có chỗ để bám víu,
còn lái đò thì: “Cái thuyền thì lao xuống thác thì chả có cái phanh
nào”, chỉ có lao đi chứ không lùi lại. Ông lái đò giống như một chiến
tướng tả xung hữu đột trên thạch trận sông Đà, vượt qua ba trùng vi
với nhiều cửa tử, rất ít cửa sinh nhưng ông lái đò đánh thốc vào trùng
vi thạch trận tan tành. Miêu tả ông lái đò như thế Nguyễn Tuân muốn
đưa ra một triết lí: giữa thế giới độc dữ, nham hiểm và lập lờ cạm bẫy,
con người ấy vẫn dũng cảm, vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh
bằng sự trải nghiệm và trí tuệ tuyệt vời của mình.

d. Ông lái đò tài hoa nghệ sĩ


Ông lái đò, người lao động bình thường nhưng cũng là người lao
động nghệ thuật với tay lái ra hoa vừa thông minh, tự tin, anh hùng
vừa tài tử nghệ sĩ. Miêu tả hình ảnh người lái đò trên bối cảnh sóng
nước sông Đà nhà văn đã tạo ra một tình huống độc đáo để người lái
đò bộc lộ tố chất nghệ sĩ của mình. Một cuộc đọ sức giữa con người
với thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng nhưng với bản lĩnh và sức
mạnh sáng tạo con người đã chiến thắng và trở về với cuộc sống
thanh bình. Thế là hết thác, “dòng sông vặn mình vào một cái bến cát
có hang lạnh…sóng nước lại thanh bình”. Đêm đó nhà đò đốt lửa
trong hang đá nướng ống cơm lam và bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh,
về những hang cá, hầm cá mùa khô. Ông lái đò đã trải qua những phút
giây cận kề với cái chết lại trở về với trạng thái bình yên trong tâm
hồn, quên đi những khoảnh khắc đối mặt với thủy quái sông Đà. Đó là
một cao nhân nhưng đồng thời cũng là một tao nhân. Vì vậy, viết về
người lái đò Nguyễn Tuân đã thể hiện một cái nhìn tràn đầy cảm hứng
lãng mạn, cảm hứng ấy thấm sâu và lan tỏa trong từng câu văn tả
thực, giàu giá trị tạo hình, cảm hứng ấy cũng khiến tác phẩm có sức
hấp dẫn nghệ thuật mãnh liệt, trở thành một bài ca lao động, một khúc
hát khỏe khoắn về người lao động. Tác phẩm là tấm huy chương lấp
lánh trên ngực ông lái như nhà văn miêu tả: “Ông đò đã thôi làm
nghề, trên ngực vẫn còn bầm tụ một củ khoai nâu…”. Đấy là một thứ
hình ảnh quý giá của một thứ huân chương siêu hạng mà cuộc sống
lao động tặng cho người lái đò.

e. Ý nghĩa việc xây dựng hình tượng người lái đò


Với việc xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà,
Nguyễn tuân đã trân trọng và đề cao vẻ đẹp của con người lao động
mới: “Chất vàng mười đã qua thử lửa”. Hình tượng người lái đò sông
Đà cũng thể hiện sự chuyển biến trong cái nhìn và trong phong cách
nghệ thuật của nhà văn qua hai giai đoạn trước và sau cách mạng.
Nhân vật trong những trang viết của Nguyễn Tuân thời quá khứ là
những con người tài hoa xuất trúng, phi thường, là sự phóng túng hình
hài bản thân tác giả ngông nghênh, ngạo mạn, bi quan và bế tắc.
Nhưng với ông lái đò trên sông Đà ta cảm nhận được giọng văn nồng
hậu, ấm áp cái nhìn trìu mến, ngưỡng mộ dưới con người lao động
bình thường song cũng rất đỗi phi thường.

Kết bài: Nói tóm lại, hình tượng người lái đò trong “Người lái đò
sông Đà” là một thành công nghệ thuật của Nguyễn Tuân, gây ấn
tượng khó phai trong lòng nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã tìm được
người nghệ sĩ tài hoa ngay ở những công việc bình thường nhất ở ông
lái đò. Đó cũng là điều mà Nguyễn Tuân luôn tâm niệm: Khám phá
thiên nhiên ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, khám phá con người ở
phương diện tài hoa nghệ sĩ.

You might also like