You are on page 1of 5

ĐỀ 3: PHÂN TÍCH SÔNG ĐÀ TRỮ TÌNH (qua đoạn văn miêu tả hình dáng, màu nc)

I. MỞ BÀI: (tùy chọn)


 MB1:
Nguyễn Tuân là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là
một cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông thường có
cảm hứng đặc biệt trước vẻ đẹp tuyệt mỹ hoặc dữ dội của thiên nhiên, đặc biệt ông thường tiếp
cận, phát hiện, miêu tả thiên nhiên ở phương diện văn hoá thẩm mỹ. Ông có sở trường về thể
loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”, tác
phẩm rút trong tập tùy bút “Sông Đà” năm 1960. Trong tác phẩm này, bằng tài năng và phong
cách nghệ thuật độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng sông Đà
với vẻ đẹp đa dạng: vừa hung bạo, vừa trữ tình. Trong đó, vẻ đẹp trữ tình của con sông đã để lại
ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Vẻ đẹp ấy đc nhà văn tập trung khắc họa qua đoạn văn:
(Trích đoạn)
(nếu có phần liên hệ thì viết thêm phần cần liên hệ)
 MB2:
“Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông”
( hoặc chọn câu: “Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng
Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông”)
(Bế Kiến Quốc)
Vâng! Sông nước quê hương là cội nguồn mạch sống, là văn hoá tinh thần, tín ngưỡng, lễ
hội, là đời người với bao lở bồi, cung điệu nhớ thương… Từ những con sông cụ thể có mặt
trong từng phập phồng nắng mưa, phập phồng hoa trái đã được bao nghệ sĩ tài hoa thổi hồn để
trở thành những hình tượng nghệ thuật chảy mãi theo thời gian, trường tồn trong không gian.
Đã có một dòng sông Mã cuồn cuộn gầm “khúc độc hành” tiễn bạn trong thơ Quang Dũng, một
dòng sông Đuống lấp lánh “nằm nghiêng nghiêng” trong kháng chiến trường kỳ trong thơ
Hoàng Cầm, một dòng sông Hương “như cô gái Di Gan phóng khoáng và man dại” trong văn
của Hoàng Phủ Ngọc Tường…Trong khúc vĩ thanh về các dòng sông, ta không thể không nhắc
tới sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân. Tác phẩm là thành quả
nghệ thuật đẹp đẽ mà nhà văn đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới
miền Tây Bắc rộng lớn xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến những miền đất lạ cho
thỏa niềm khát khao “xê dịch”, mà chủ yếu là để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ
vàng mười” đã qua thử lửa ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi
sông hùng vĩ mà thơ mộng đó. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình
tượng sông Đà với những vẻ đẹp đa dạng: vừa hung bạo, vừa trữ tình. Trong đó, vẻ đẹp trữ tình
của con sông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Vẻ đẹp ấy đc nhà văn tập trung
khắc họa qua đoạn văn: (Trích đoạn)
(nếu có phần liên hệ thì viết thêm phần cần liên hệ)
II. THÂN BÀI
1. TỔNG: (Tùy chọn)
* Có ai đó nói rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo”. Cái độc đáo của người nghệ sĩ là
sự sáng tạo, là sự riêng biệt trong cách khám phá hiện thực và đưa hiện thực vào trang viết.
Cùng khám phá đề tài sông nước, Nguyễn Tuân đã có những phát hiện rất mới về vẻ đẹp của
sông Đà và cũng là của thiên nhiên Tây Bắc thân yêu. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của
Nguyễn Tuân, sông Đà không còn là dòng sông vô tri vô giác như trăm ngàn con sông ta đã
thấy mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng có hành động thật phong phú và phức tạp.
Sông Đà do bàn tay sáng tạo của nhà văn lấp lánh hai nét tính cách: hung bạo và trữ tình. Lúc
hung bạo, con sông như một loài thuỷ quái khổng lồ và là “kẻ thù số 1” của con người. Lúc trữ
tình, sông Đà lại tràn đầy, sóng sánh chất thơ, mang vẻ đẹp của một người cố nhân đi xa thì nhớ
thương, thương nhớ. Vẻ đẹp này được nhà văn triển khai một cách đầy tài nghệ và tỉ mỉ ở đoạn
văn nằm khoảng giữa của thiên tuỳ bút.
* Raxun Gamzatop từng nói: Qua giọng hát, người ta nhận ra người hát. Phong cách đã trở
thành máu thịt của nhà văn sẽ tạo nên một sắc điệu thẩm mỹ riêng biệt không thể trộn lẫn với
bất kì ai. Cùng uống chung một suối nguồn hiện thực song mỗi nhà văn lại là một thế giới riêng,
một tâm hồn riêng, một vũ trụ riêng để làm nên sự độc đáo. Cùng khai phá đề tài sông nước
nhưng dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của NT, sông Đà không còn là dòng sông vô tri vô giác
như trăm ngàn con sông ta đã thấy mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hành động
thật phong phú và phức tạp. Sông Đà do bàn tay sáng tạo của nhà văn lấp lánh hai nét tính cách:
hung bạo và trữ tình. Lúc hung bạo, con sông như một loài thuỷ quái khổng lồ và là “kẻ thù số
1” của con người. Lúc trữ tình, sông Đà lại tràn đầy, sóng sánh chất thơ, mang vẻ đẹp của một
người cố nhân đi xa thì nhớ thương, thương nhớ. Vẻ đẹp này được nhà văn triển khai một cách
đầy tài nghệ và tỉ mỉ ở đoạn văn nằm khoảng giữa của thiên tuỳ bút.

(tiếp theo) Nếu đoạn văn miêu tả sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã tung ra một vốn từ
ngữ phong phú, chính xác, mới lạ cùng một giọng văn mạnh mẽ, nhịp văn gấp gáp như thác
gầm, sóng réo để diễn tả cuộc chiến cam go của ông đò với với thần Sông, thần Đá thì đến đoạn
văn miêu tả vẻ trữ tình của con sông, nhịp điệu, giọng điệu đã thay đổi hẳn. Ngòi bút của
Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, uyển chuyển; giọng văn nhẹ nhàng, lâng lâng, mơ màng.
Vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm của Đà Giang ở quãng trung lưu được diễn tả đầy chất thơ, chất hoạ,
lắng sâu cảm xúc trữ tình. Sông Đà được nhà văn quan sát dưới nhiều góc độ khác nhau, soi
chiếu nó ở nhiều phương diện để rồi giúp ta nhận ra phương diện nào con sông cũng đẹp.
2. PHÂN:
a. Hình dáng:
- Khi từ trên cao nhìn xuống, sông Đà sau mùa lũ như một mỹ nhân dịu dàng và xuân sắc. Vẻ
đẹp ấy trước hết đc nhà văn miêu tả qua dáng vẻ của nó. Ngồi trên tàu bay nhìn xuống, nhà văn
đã nhận thấy Sông Đà như một cái dây thừng ngoằn ngoèo tãi ra trên một đại dương đá lờ lờ
bóng mây. Nếu như hình ảnh "đại dương đá" gợi ra vẻ đẹp dữ dội, mạnh mẽ thì đối lập với nó là
hình ảnh "sợi dây thừng ngoằn ngoèo" chứa đựng vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng của Đà giang
giữa một không gian khoáng đạt, hùng vĩ. Lối so sánh này còn giúp người đọc hình dung toàn
cảnh về độ lớn của dòng sông khi nó tãi ra, uốn lượn trải quanh gần như toàn bộ địa hình của
Tây Bắc.
- Nhưng cái đẹp đẽ nhất, mĩ lệ nhất gắn với hình dáng của dòng sông chính là hình ảnh "Con
Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Ở đây, tác giả đã sử dụng câu văn dài, mềm mại kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài”
không chỉ gợi được chiều dài của dòng sông mà còn giúp người đọc cảm nhận về hình dáng và
dòng chảy của nó. Sông Đà mềm mại, uốn lượn trong sự vận động chảy trôi, miên man, vô tận
được hình dung như mái tóc bồng bềnh của người thiếu nữ. Nhà văn không dùng từ “mái tóc”
mà là từ “áng tóc” để miêu tả dòng Sông Đà. Từ “áng” vốn là từ thường đi liền với tác phẩm
văn học lớn như “áng thơ”, “áng văn” nhưng ở đây lại đc dùng để so sánh với SĐ. Bằng cách sử
dụng từ ngữ độc đáo ấy, nhà văn khiến người đọc cảm nhận dòng Sông Đà giống như một tác
phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Mái tóc ấy lại được trang
điểm lộng lẫy với màu mây trời Tây Bắc, với màu đỏ ấm áp, nồng nàn của hoa gạo, màu trắng
tinh khôi của hoa ban và màu khói “đốt nương xuân”. Với lối so sánh, nhân hoá, liên tưởng,
tưởng tượng vừa táo bạo, vừa giàu chất lãng mạn, chất thơ, tác giả đã tạo ấn tượng cho bạn đọc
về vẻ đẹp đầy nữ tính của sông Đà. Con sông mang vẻ đẹp của người thiếu nữ Tây Bắc, vừa dịu
dàng, vừa kiều diễm, hấp dẫn, gợi cảm và tràn đầy xuân tình, xuân sắc. Qua lối so sánh độc đáo
ấy, ta nhận ra một cái tôi NT vô cùng trẻ trung, lãng mạn và cũng rất đa tình. Hình ảnh so sánh
trong văn Nguyễn Tuân gợi ta nhớ tới những dòng sông trữ tình diễm lệ đã in sâu trong những
trang văn, trang thơ dân tộc. Đó là dòng sông Hương duyên dáng, trẻ trung như “người gái đẹp
nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại” trong nét vẽ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Đó là con sông duyên dáng như áng tóc huyền dưới chân núi Dục Thuý trong ngòi bút
của Nguyễn Trãi…
b. Màu nước
- Nguyễn Tuân còn nhìn sông Đà dưới con mắt của một nhà hội hoạ. Ông ngắm nhìn sông Đà ở
nhiều thời gian, không gian khác nhau. Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bút kí “Ai đã đặt tên
cho dòng sông” nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẳm và mang một vẻ đẹp biến ảo như một
đoá phù dung: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím thì Nguyễn Tuân lại tinh tế phát hiện ra vẻ đẹp
của sắc nước Sông Đà biến đổi theo từng mùa với “từng nét sông tãi ra” trên nền xanh bao la
của Tổ quốc.
- Qua làn mây mùa xuân, Đà giang hiền hoà với màu xanh ngọc bích chứ không phải màu
xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô. Ngọc là một loại tinh thể vừa có màu vừa có ánh. Phép
so sánh tài hoa của nhà văn đã làm nổi bật màu nước sông Đà vừa có sắc xanh, lại vừa có ánh
xanh lung linh, óng ánh, diễm lệ (chứ không phải là màu xanh đục như nc s.Gâm, s.Lô). Sắc
xanh của dòng sông mà tác giả miêu tả gợi ta nhớ đến sắc xanh lấp lánh trong thơ Hàn Mặc Tử
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã biến Sông Đà thành
viên ngọc bích tỏa sáng giữa núi rừng Tây Bắc. Sắc xanh ấy hoà quyện với sắc xanh của trời
xuân, của bờ bãi sông Đà tạo nên vẻ đẹp lung linh, kì ảo của thiên nhiên Tây Bắc.
- Qua ánh nắng mùa thu, nước sông Đà chuyển màu “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Trong
cái nhìn truyền thống của các thi nhân xưa, nước mùa thu thường trong veo, trong xanh; nhưng
trong cái nhìn hiện tại của người quan sát là tác giả thì nước sông Đà mang sắc đỏ đậm đặc đến
bầm tím. Nếu như màu "xanh ngọc bích" gợi lên sự trong sáng, trẻ trung, đầy sức sống thì màu
đỏ chứa đựng sức sống tiềm tàng bên trong của hàm lượng phù sa lớn đang dâng tặng bồi đắp
cho những nương ngô “đang nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” ở đôi bờ. Sắc đỏ của dòng sông
được miêu tả không chỉ ở bề mặt, có thể cảm nhận bằng mắt mà còn ở sâu trong tâm trạng, ở sự
bất mãn, bực bội và phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu được. Phép điệp từ “lừ lừ” vừa miêu
tả cái dòng chảy chậm, nặng nề, vừa chất chứa đầy tâm trạng. Có lẽ chưa có ai miêu tả màu
nước sông mùa nước lũ mà ra được trạng thái bi phẫn, bất đắc chí được như Nguyễn Tuân. Vậy
là ngay khi nhà văn dừng lại miêu tả vẻ đẹp trữ tình thì hình ảnh dòng sông hung bạo vẫn như
ám ảnh đâu đây. Sông Đà mang vẻ đẹp của một mỹ nhân tuyệt đẹp, đỏng đảnh nhưng cũng mới
lạ, hấp dẫn.
c. Thái độ Tg:
Có thể nói, mỗi mùa sông Đà mang một vẻ đẹp riêng. Với Nguyễn Tuân, Sông Đà xanh,
Sông Đà đỏ chứ chưa bao giờ mang sắc đen như cách gọi lếu láo của bọn thực dân Pháp"Chưa
hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen... bản đồ lai chữ". Sự phản đối kịch liệt của ông được
thể hiện qua cách nói phủ định"Chưa hề bao giờ” và cách dùng từ “láo lếu”, “phiết vào” ...
qua giọng văn chì chiết thể hiện thái độ bức xúc. Nhà văn nhất quyết chứng minh rằng sông Đà
thật khác với cách nhìn của người Pháp bằng khảo cứu công phu: "Tôi đã xuyên qua đám mây
mùa thu mà nhìn xuống sông Đà... mỗi độ thu về". Hóa ra, cái gốc của sự uyên bác ở Nguyễn
Tuân chính là cái tình, là tinh thần dân tộc nên mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi trang văn của ông đều
thể hiện tinh thần trách nhiệm và thấm sâu tình yêu quê hương, đất nước.
3. HỢP
- Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái
hiện vẻ đẹp con sông Tây Bắc thật trữ tình từ dáng hình đến màu nước. Sông Đà quả là một quà
tặng vô giá của thiên nhiên, là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy Nguyễn Tuân.
- Đoạn văn hấp dẫn người đọc bởi lối liên tưởng phong phú, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, câu
văn uyển chuyển mềm mại, tầng bậc, co duỗi nhịp nhàng, ngắt nhịp chậm rãi, giọng văn nhẹ
nhàng, kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá, liên tưởng, tưởng
tượng…, vận dụng kiến thức đa ngành: địa lí, văn hóa, hội họa… Đây đúng là lối viết đặc trưng
của tùy bút Nguyễn Tuân
4. Nhận xét
- Đoạn văn cho thấy tình yêu quê hương đất nước tha thiết của Nguyễn Tuân. Đó là niềm
tự hào, ngợi ca trước vẻ đẹp của sông nước quê hương. Đó là niềm say mê khám phá ra "chất
vàng của thiên nhiên Tây Bắc" trong tiềm năng thủy điện, tiềm năng du lịch sinh thái của Sông
Đà. Đó là khao khát tôn vinh vẻ đẹp đất nước bằng sự giàu có của ngôn ngữ văn chương. Đó là
thái độ bất mãn, bực bội thực dân Pháp đã gọi song Đà là song đen…Tài và Tâm của Nguyễn
Tuân luôn hòa làm một trong hành trình kiếm tìm Cái Đẹp
- Với NLĐSĐ, Nguyễn Tuân không còn tìm Cái Đẹp trong thú vui xê dịch, cho khuây cảm
giác "thiếu quê hương" mà đã phát hiện ra vẻ đẹp ngay ở thiên nhiên đất nước mình, trong hiện
tại.
III. KẾT BÀI (lựa chọn 1 trong 2)
* Pautốpxki cho rằng: “ Nhà văn là người dẫn đường vào xứ sở cái Đẹp”. Thiên chức của nhà
văn là khơi nguồn cho cái đẹp tràn vào trang viết. Với đoạn văn trên nói riêng, tùy bút người lái
đò song Đà nói chung, NT đã làm tròn sứ mệnh của mình, của một nhà văn chân chính. Bằng sự
tài hoa và uyên bác, ông đã làm cho cái đẹp thăng hoa và dẫn đg cho người đọc thưởng thức và
cảm nhận nó. Dưới ngòi bút điêu luyện của NT, SĐ vùng hạ lưu là 1 công trình nghệ thuật đẹp
đến độ hoàn thiện, hoàn mĩ. Không chỉ thế, qua những trang văn giàu chất thơ, chất họa, NT
còn cho người đọc cảm nhận đc tài nghệ bậc thầy của mình trong công việc của một “phu chữ”.
Tất cả đều bắt nguồn từ tài năng, tâm huyết và tình yêu đất nước, niềm tự hào, hứng khởi, gắn
bó tha thiết của NT với mảnh đất và con ng TB nói riêng, với qh, đnc nói chung. Nhà văn khiến
ta them yêu, thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ, trữ tình. Có thể nói, Sông Đà
quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên, là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy
tùy bút Nguyễn Tuân.
* Dẫu chỉ là một đoạn trích ngắn trong tùy bút "NLDSD" của Nguyễn Tuân nhưng đoạn văn đã
giúp người đọc có thêm góc nhìn sâu sắc về vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà và vẻ đẹp độc đáo của
phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Chỉ ngần ấy cũng đủ để ta quý trọng tấm lòng và tài năng
của người nghệ sĩ suốt đời đi tìm Cái Đẹp.

You might also like