You are on page 1of 11

CHÚ Ý

- Học thuộc kiến thức chuẩn trong tác phẩm NLĐSĐ, nhất là yêu cầu thứ hai có ở mỗi đề

- Bám sát ngữ liệu được trích dẫn để đi sâu phân tích chứng minh. Tránh diễn xuôi và
không được thoát li khỏi đoạn trích đã nêu ở đề

- Phân tích nội dung xong phải có luận điểm nghệ thuật.

- Kết bài chốt ý NT (Đoạn trích thể hiện rõ phong cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo của
NT) và ND. Liên hệ/bài học

- Nhớ tách ý dựng đoạn để có kết cấu rõ ràng, hợp lí

- Phân bổ thời gian khoa học (15 -20-55)

- Chất lượng đi liền với số lượng (2 tờ)

- Gạch chân dưới các câu hỏi và BÀI LÀM

- Đây là những dẫn chứng cần ghi nhớ:

Ông đò Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc sông Đà đã 10 năm liền và thôi làm đò cũng đã
đôi chục năm nay. Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại
như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông nói ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông. Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù. Quê
ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh. Ông chở đò dọc, chở chè mạn, chè cối từ Mường Lay về
Hòa Bình, có khi trở về đến tận bến Nứa Hà Nội. Ông bảo: Chạy thuyền trên sông không có
thác, nó sẽ dễ dại tay chân và buồn ngủ. Cho nên ông chỉ muốn cắm thuyền ở Chợ Bờ, cái chỗ
biên giới thủy phân cuối cùng của đá thác sông Đà…

Trên dòng sông Đà, ông xuôi ngược hơn trăm lần rồi. Chính tay ông giữ lái đò độ sâu chục
lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sâu mái chèo. Trí nhớ ông được rèn luyện cao độ
bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước, những con
thác hiểm trở sông Đà, với người lái đò ấy, như thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng từ dấu
chấm, dấu phẩy, dấu chấm than, chấm xuống dòng…

Trên bả vai người lái đò bầm lên một khoanh củ nâu. Cái đồng tiền tụ máu ấy là cái hình ảnh
quý giá nhất của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò sông Đà.
ĐỀ 1

Phân tích vẻ đẹp hình tượng con Sông Đà trong đoạn trích sau:

“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa
thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa
con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản
đồ lai chữ.
Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã
thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống
một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi
bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam
nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà.
Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao
đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại
cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy,
rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình
vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu.
(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
GỢI Ý

a. Mở bài (1 đoạn văn)

- Nguyễn Tuân (1910-1987) là một trí thức yêu nước, giàu tinh thần dân tộc và là một trong
những nhà văn có vị trí đặc biệt trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có phong cách nghệ
thuật tài hoa, độc đáo. Suốt cả cuộc đời cầm bút “ông đi tìm cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình
Thi). Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm
kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Minh chứng đầy đủ nhất phải kể đến thiên tùy bút
Người lái đò sông Đà (1960), đây là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc vào năm 1958
để tìm kiếm “chất vàng” của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao
động trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng đó. Trong tác phẩm, hình tượng Sông Đà hiện
lên dưới ngòi bút của “người thợ kim hoàn về chữ nghĩa” (Tố Hữu) với hai đặc tính đối lập làm
say lòng người nhưng để lại cảm xúc ngọt ngào, sâu lắng nhất không thể không nói đến vẻ đẹp
trữ tình, thơ mộng của Đà giang. Điều này được khắc họa chân thực, sinh động qua đoạn trích
dưới đây:

- [ Trích dẫn: ghi câu đầu … câu cuối ]

b. Thân bài (5 đoạn văn trở lên)

b1. Khái quát chung


- Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và
một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Đó là kết quả của nhiều chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến
chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác
nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở
vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Vị trí, nội dung đoạn trích: Ở gần cuối văn bản, Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình
- Giới thiệu lai lịch, độ dài, số thác và sự hấp dẫn đối với nghệ sĩ của SĐ
b2. Phân tích
* Nội dung của đoạn trích: tính trữ tình, thơ mộng của SĐ
Bên cạnh tính hung bạo, Nguyễn Tuân còn rất chú trọng khắc họa tính trữ tình, thơ mộng của
dòng sông này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức
tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những lời thơ. Để khắc họa tính trữ tình, dịu
dàng của dòng sông, trước hết, Nguyễn Tuân quan sát, cảm nhận SĐ ở nhiều góc độ, thời điểm
khác nhau:
- Từ trên cao nhìn xuống: Miêu tả sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và
nhịp điệu: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bỗng nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân”. Có thể coi đây là một bức tranh tổng thể về sông Đà, lúc đầu chảy ngoằn ngoèo
giữa điệp trùng núi đá và đại ngàn Tây Bắc nhưng khi về dần đến miền trung du, Đà giang chảy
êm ả xuôi dòng.
- Tác giả ngắm nhìn sông Đà theo thời gian, không gian khác nhau: Với tình cảm trìu mến thiết
tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dòng sông biến đổi theo từng mùa.
Xuân về, Đà giang xanh ngọc bích, tức là màu xanh rất đẹp: vừa trong xanh lại vừa óng ánh, chứ
không xanh như màu xanh canh hến. Khi thu sang, nước sông Đà chuyển thành màu lừ lừ chín
đỏ... Như vậy, vào mỗi mùa, dòng sông đều có một vẻ đẹp riêng. Chính vì thế, Nguyễn Tuân bực
bội khi bọn thực dân cướp nước lại gọi một cách thô bạo sông Đà là dòng sông Đen - sông có
màu đen.
- Khi đi trên bờ và xuôi thuyền theo dòng chảy SĐ:
+ Tác giả dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sông Đà. Để tôn thêm tính trữ tình của
dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu
văn lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp (bờ sông Đà, bãi sông Đà,
chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà) để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng
tác giả; để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông này: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ...
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hình ảnh con sông như một bờ tiền sử, một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc họa được vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên
nhiên. Với cách liên tưởng và ví von ấy, dường như sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông
bền bỉ chạy qua tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc (Liên hệ: Sông
Hương).
+ Với một tình yêu thiên nhiên Tây Bắc tha thiết, tác giả nhìn sông Đà như một cố nhân và ghi
nhớ mãi ấn tượng: ở rừng lâu ngày, một lần bám gót anh liên lạc bất chợt bắt gặp dòng sông Đà
lóa nắng, ông nhớ tới một câu thơ đầy gợi cảm của Lí Bạch nói về buổi tiễn Mạnh Hạo Nhiên ở
bên sông: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
=> Tất cả tái hiện được sức sống mãnh liệt, giàu gợi cảm của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ
tình. Trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bắc
mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta. Nguyễn Tuân là người tài hoa, luôn nhìn nhận,
đánh giá cảnh vật và con người ở phương diện cái đẹp và góc độ mĩ thuật. Sông Đà hiện lên
không chỉ với vẻ đẹp kì vĩ mà có cả vẻ đẹp trữ tình. SĐ là một công trình nghệ thuật tuyệt vời
của tạo hoá ban tặng cho con người.
* Nghệ thuật của đoạn trích
- Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân hóa miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú
vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả.
- Nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, quân sự… để viết về
con Sông Đà hung dữ mà thơ mộng.
- Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh giàu liên
tưởng bất ngờ, độc đáo.
=> Thể hiện sở trường tuỳ bút của nhà văn Nguyễn Tuân.
c. Kết bài (1 đoạn văn)
- Hình tượng con sông Đà nói chung, đặc tính trữ tình thơ mộng nói riêng đã khẳng định nhà văn
Nguyễn Tuân rất thành công trong việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhiều thuật ngữ của
các ngành nghề khác nhau nhằm miêu tả vẻ đẹp độc đáo của sông Đà và mở ra bao liên tưởng
độc đáo, bất ngờ trong tâm trí người đọc. Từ đó thấy rõ tấm lòng của nhà văn dành cho thiên
nhiên, đất nước Việt Nam thật sâu nặng.
- Qua “Người lái đò Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con
người suốt đời đi tìm cái đẹp, góp phần làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng
ta.

ĐỀ 2

“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng
vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông
Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa
hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông
Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống
như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang lừ lừ những cánh quạ đàn.
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên.
Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng”.
(Trích Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó hãy nhận xét về cái
tôi trữ tình của nhà văn.

GỢI Ý

a. Mở bài (1 đoạn văn)


- Nguyễn Tuân (1910-1987) là một trí thức yêu nước, giàu tinh thần dân tộc và là một trong
những nhà văn có vị trí đặc biệt trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có phong cách nghệ
thuật tài hoa, độc đáo. Suốt cả cuộc đời cầm bút “ông đi tìm cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình
Thi). Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm
kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Minh chứng đầy đủ nhất phải kể đến thiên tùy bút
Người lái đò sông Đà (1960), đây là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc vào năm 1958 để
tìm kiếm “chất vàng” của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động
trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng đó. Trong tác phẩm, hình tượng Sông Đà hiện lên
dưới ngòi bút của “người thợ kim hoàn về chữ nghĩa” (Tố Hữu) với hai đặc tính đối lập làm say
lòng người nhưng để lại ấn tượng mạnh mẽ, sâu đậm nhất không thể không nhắc đến đặc tính
hung bạo, dữ dằn của Đà giang. Từ đó bạn đọc cảm nhận đầy đủ về cái tôi trữ tình của nhà văn.

- [ Trích dẫn: ghi câu đầu … câu cuối ]

b. Thân bài (5 đoạn văn trở lên)


b1. Khái quát chung

- Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tùy bút và
một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Đó là kết quả của nhiều chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến
chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác
nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở
vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Vị trí, nội dung đoạn trích: Ở phần đầu văn bản, Sông Đà hiện lên với đặc tính hung bạo, dữ
dằn.
- Giới thiệu lai lịch, độ dài, số thác và sự hấp dẫn đối với nghệ sĩ của SĐ.
- Giới thiệu dòng chảy độc, lạ của SĐ qua câu thơ đề từ.
b2. Phân tích
* Về nội dung:
- Bằng sự quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng, tác giả đã khắc họa sự hung bạo của con sông trên
nhiều dạng vẻ:
+ Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”: có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.
+ Quãng mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm”.
+ Những cái “hút nước” chết người: luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt
vào. Xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu.
+ Thác sông Đà với tiếng nước thác nhiều cung bậc dữ dội khác nhau: oán trách nỉ non à khiêu
khích, chế nhạo à rống lên thật đáng sợ.
+ Thác đá sông Đà với những trùng vi thạch trận, đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như
dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò. Bố trí
thành 3 trùng vi. Mỗi trùng vi chỉ có 1 cửa sinh và nhiều cửa tử. Cửa sinh lại bố trí rất bất ngờ
nguy hiểm như 1 chiến trường khốc liệt đối với người lái đò.
=> Sông Đà như bầy thủy quái khổng lồ, là kẻ thù số 1 của con người.
* Về nghệ thuật:
- Tác giả đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ quân sự tạo nên không khí chiến trận căng thẳng. Tác
giả là bậc kì tài trong lĩnh vực sử dụng ngôn từ (sự phá cách mà ngoại trừ các tay bút thực sự tài
hoa, không ai làm nổi)
- Sử dụng lối văn tùy bút phóng túng, nhiều biện pháp tu từ: nhân hóa, so sánh phóng đại, liên
tưởng, phép điệp cấu trúc, ngôn từ giàu hình tượng…
b3. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:
- “Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ của
thiên nhiên đất nước đã cho thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa, tinh tế.
- “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng
kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú; ở sự giàu có về chữ
nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động
một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối
tượng.
=> “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng
yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính.
c. Kết bài (1 đoạn văn)
- Nhận xét, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, khẳng định cái tôi trữ tình của nhà
văn.
- Liên hệ, mở rộng, gợi suy nghĩ cho người đọc về tác giả, về thiên nhiên đất nước…
ĐỀ 3
“Trong con mắt của Nguyễn Tuân, con người Tây Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của
đất nước ta”.
Phân tích nhân vật người lái đò trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân để
làm sáng tỏ nhận xét trên.
GỢI Ý
a. Mở bài (1 đoạn văn)
- Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có thể coi ông là một định
nghĩa về người nghệ sĩ.
- Nét nổi bật trong phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân là luôn nhìn sự vật ở phương diện văn
hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa.
- Người lái đò sông Đà là thiên tùy bút rút trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân, tiêu biểu
cho phong cách nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn của ông: tài hoa, uyên bác, lịch lãm.
- Nhận xét về tác phẩm, có ý kiến cho rằng: “Trong con mắt của Nguyễn Tuân, con người Tây
Bắc mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta”. Hình ảnh người lái đò trong tác phẩm
chính là chất vàng mười mà tác giả đã đi tìm bấy lâu.
b. Thân bài (5 đoạn văn trở lên)
* Giải thích ý kiến trên:
- Vàng mười: chỉ những gì tinh túy nhất, cao quý nhất, giá trị nhất.
- Con người Tây Bắc mới thực sự xứng đáng là thứ vàng mười của đất nước ta: Nguyễn Tuân
muốn khẳng định tài năng hiếm có của người lái đò, nó được rèn luyện, thử thách qua nguy
hiểm, khó khăn, không những thế, nó vượt qua ngưỡng là một công việc lao động bình thường
trở thành một thứ nghệ thuật cao cấp và nâng tầm người thực hiện lên bậc nghệ sĩ.
* Phân tích hình ảnh người lái đò sông Đà:
Giới thiệu chân dung, lai lịch
- Tên gọi, lai lịch: được gọi là người lái đò Lai Châu
- Chân dung: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như
kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông,
nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu
bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.
Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà
Vẻ đẹp trí dũng:
* Khắc họa trong tương quan với hình ảnh sông Đà hung bạo, hùng vĩ:
- Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức:
+ một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh
nham hiểm.
+ một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những
chiếc cán chèo.
* Cuộc giao tranh với ba trùng vi thạch trận:
- Cuộc vượt thác lần 1:
+ Sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt.
+ Trước sự hung hãn của bầy thạch tinh và sóng nước, ông lái đò kiên cường bám trụ “hai tay
giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”.
+ Trước đoàn quân liều mạng sóng nước xông vào (…), ông đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn
kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi” nhưng vẫn kiên cường vượt qua cuộc hỗn chiến,
vẫn cầm lái chỉ huy “ngắn gọn mà tỉnh táo” để phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất.
- Cuộc vượt thác lần hai:
+ Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của
con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn.
+ Ông lái đò “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai  và đổi luôn
chiến thuật”.
⟶ Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông Đà, ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi
trên dòng thác như cưỡi trên lưng hổ.
⟶ Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước xô ra, ông đò không hề nao núng mà tỉnh táo, linh
hoạt thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến” để rồi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.
- Cuộc vượt thác lần ba:
+ Bị thua ông lái đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên
cuồng, dữ dội.
+ Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác
của ông lái thật tuyệt vời. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”,
“vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua
hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn
“thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở
phía sau lưng.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ:
- Tài hoa: Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác
sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào
hùng.
- Nghệ sĩ:
+ Tay lái ra hoa thể hiện tập trung trong cảnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ ba “Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, chiếc thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, điêu luyện,
mỗi động tác của người lái đò giống như một đường cọ trên bức tranh sông nước mênh mông…
+ Phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình,
bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo
xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ,
cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cái
ứa ra tràn đầy ruộng”.
+ Qua thác ghềnh, ông lái lạnh lùng gan góc là thế, nhưng lúc bình thường thì lại nhớ tiếng gà
gáy nên buộc một cái bu gà vào đuôi thuyền, bởi “có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ ruộng
nương bản mường mình”. Chi tiết ấy đã làm rõ hơn chất nghệ sĩ ở người lái đò sông Đà.
*  Đánh giá:
Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật:
- Nét tài hoa, nghệ sĩ ở ông lái đò được Nguyễn Tâm tô đậm.
- Tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất của mình.
- Sử dụng một ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hoàn toàn phù hợp với đối
tượng.
- Nội dung tư tưởng mà nhân vật truyền tải: Người lái đò trí dũng và tài hoa đã nổi bật trên dòng
sông hung bạo và trữ tình, có khả năng chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người,
xây dựng đất nước ⟶ Đó chính là chất vàng mười của con người Tây Bắc nói riêng và người lao
động Việt Nam nói chung trong thời kỳ mới - thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng
đất nước, xây dựng CNXH. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm:
người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động
thường ngày.
c. Kết bài (1 đoạn văn)
- Khẳng định: Vẻ đẹp “Chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của con người Tây Bắc đã
được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang.
- Người lái đò tượng trưng cho người lao động Việt Nam cần cù, chịu khó, sẵn sàng xông pha
nơi nguy hiểm để cống hiến cho đất nước.

ĐỀ 4

“Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương
lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo
về phía cửa đá ấy.Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bờ bên trái liền xô ra định níu thuyền lôi
vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa
thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền.
Chỉ còn vẳng tiếng reo hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc
dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái
thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”

(Trích Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân)

Phân tích hình tượng ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét quan niệm về con
người của nhà văn Nguyễn Tuân.

GỢI Ý
a. Mở bài (1 đoạn văn)
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và vấn đề nghị
luận.
- [ Trích dẫn: ghi câu đầu … câu cuối ]
b. Thânbài (5 đoạn văn trở lên)
* Cảm nhận hình tượng ông lái đò 

- Giới thiệu về ông lái đò

- Vẻ đẹp ông lái đò

+ Trí dũng: Để làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng của ông lái đò, nhà văn đã sáng tạo một đoạn văn tràn
đầy không khí trận mạc, đã tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò với “bầy thủy
quái” sông Đà. Sông Đà dữ dội, hiểm độc với trùng trùng, lớp lớp dàn trận bủa vây, có sự hợp
sức của nhiều thế lực: sóng, nước, đá…còn ông đò là một viên tướng dũng cảm tả xung hữu đột
tỉnh táo nhanh nhẹn, quyết đoán chỉ huy và điều khiển con thuyền qua nhiều vòng, nhiều cửa rất
hiệu quả.

+ Tài hoa: Ông lái đò được khắc họa như một người nghệ sĩ – nghệ sĩ chèo ghềnh vượt thác, sự
tài hoa thể hiện trong từng động tác thuần thục của ông lái. Khi đạt tới trình độ nhuần nhuyễn
điêu luyện, mỗi động tác của ông lái đò như một đường cọ trên bức tranh thiên nhiên sông nước.
Những chi tiết: ông đò “lái miết một đường chéo về cửa đá ấy”; con thuyền “như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước” đã cho thấy “tay lái ra hoa” của ông lái đò.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: tô đậm nét trí dũng, tài hoa nghệ sĩ trong hành trình vượt thác
leo ghềnh, tạo tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ phẩm chất, sử dụng rộng biện pháp tu
từ, ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, sắc sảo, biến hóa linh hoạt mà nhà văn tung
ra, rải lên trang viết “như để thi tài với tạo hóa” → cuộc đời ông lái đò là một thiên anh hùng ca,
là một pho nghệ thuật tuyệt vời. Chất nhân bản nhân văn, vẻ dẹp tài hoa của ngòi bút NT là chỗ
ấy.

* Nhận xét quan niệm về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

Con người, bất kể địa vị hay nghề nghiệp gì, nếu hết lòng và thành thạo với công việc của mình
thì bao giờ cũng đáng trọng. Đồng thời qua cảnh tượng vượt thác của ông đò, Nguyễn Tuân
muốn nói với chúng ta một điều giản dị nhưng sâu sắc: Chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi
chiến trường mà có ngay trong cuộc sống hàng ngày nơi mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm
manh áo. Tài hoa đâu chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao động đời
thường. 

c. Kết bài (1 đoạn văn)


- Nguyễn Tuân xây dựng ông lái đò với vẻ đẹp trí dũng và tài hoa. Trí dũng để có thể chế ngự
được dòng sông hung bạo, tài hoa để xứng với dòng sông trữ tình. Vẻ đẹp của người lái đò là vẻ
đẹp bình dị, thầm lặng nhưng đầy trí tuệ, sức mạnh. Đây chính là “chất vàng mười đã qua thử
lửa” của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung.

- Cả tác phẩm cũng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu thiên nhiên, đất
nước mãnh liệt, trân quý những con người lao động chân chính, hăng say và đặc biệt càng thêm
yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ quốc.

Trên bả vai người lái đò bầm lên một khoanh củ nâu. Cái đồng tiền tụ máu ấy là cái hình ảnh
quý giá nhất của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò sông Đà.

CHÚC CÁC CON ĐẠT ĐIỂM GIỎI!

You might also like