You are on page 1of 59

Người lái đò sông đà

Vẻ đẹp trữ tình


Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang
viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò
sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới
ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái
nham hiểm và độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.

“Người lái đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên
vùng núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kì xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Đặc biệt là trong chuyến đi vào năm 1958, Nguyễn Tuân được
sống hòa mình với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành nguồn
cảm hứng lớn để ông sáng tác.

Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy
của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ
sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những
hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh…
Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn
xuống - với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà
giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo
đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh “sông Đà như một áng tóc” kết hợp với điệp
ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của
dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn
màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho
người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống
như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay
được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng
tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà - của
người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn
cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc
liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa
gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.

1
Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể
hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của
Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn: “Tôi đã nhìn say
sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà
nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông
Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy
sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do
sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân
lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước
sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm,
sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi
cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông
Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận
dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ
chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ
đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã
làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn
đời của con sông Tây Bắc.

Tác giả đã quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn
Tuân đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như
một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng
chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp
đến mê hồn trong ánh sáng “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa
tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng
“Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” - Nguyễn Tuân dường
như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong
sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp
lánh, hồn nhiên thanh bình. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà
nhận ra con “sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp
bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó
trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Tác giả
miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế
giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm
giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp
nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích

2
tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng
biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.

Cảnh vật hai bên bờ sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết. Trong cảnh lặng như
tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một
vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh
không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó
còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ
đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc
lộng lẫy. Điều ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư
dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên. Chất
thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển
tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc - nơi
khởi nguồn cho tình yêu đất nước.

Đoạn trích được khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến”
và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao
nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho
hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.

Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác
phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông
ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại
rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng
sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Vẻ đẹp hung bạo
Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man
mác, thấm đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng Giang” của Huy Cận; hay một khung
cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông
Đuống” của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, là khách thể để
các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm
nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Tuân, hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với những vẻ
đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật
lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những người lao động bình thường mà ông luôn
gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.

3
Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy
bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, tập tuỳ bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong
tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong
Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường
dũng cảm mà còn nổi bật một thiên nhiên đẹp đẽ

Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến
cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa
và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác,
mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động: thật phong phú và
phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo
và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong
suốt cả bài tùy bút.

Cái hung bạo của con Sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang
cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng
núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim là lão luyện, vừa cho người xem thấy bao
quát khung cảnh Sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những
pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của sông này.

Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành chỉ
khi nào đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có nắng. Cách so
sánh trên tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút
khôn cùng. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế,
dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay
ném hòn đá qua bên kia vách, hẹp đến mức quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ
bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy
nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lôi liên tưởng bất ngờ
- thiên nhiên hoang sơ : với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một
cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa
phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác mà còn kết hợp sừ dụng cả
giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ, táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi
lên sự hiểm trờ, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm,
dữ dằn của thác lũ.

4
Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với hợp sức
của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phôi hợp với nhau một cách chặt
chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng một ghềnh Hát
Loong, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, em cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Dà nào
tóm được qua đấy. Ở đây, một phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc
ngắn, gọn, diễn đạt bằng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn
trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.

Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có
những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống xông để chuẩn bị làm
móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách
hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống
chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ặc ặc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy
hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa "tả” và “kể”. Ở đây, yếu tố tự sự
góp phần quan trọng kích thích trí tưởng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên
thiên về tả thì hai câu dưới thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý... ở
khuỳnh sông dưới.

Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế
trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mảng, đặc biệt đối với những ai
xuôi dòng, ở những nơi này, Sông Đà được mô tả như có cả một bầy thủy quái vừa
hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích,
chế nhạo, khi thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu tre nứa nổ lứa, đang phá luống rừng lứa, rừng lứa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công
phá, tăng thêm mối nguv hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá
to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai
phục nơi đây để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào
nhô vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả
để dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc
hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng.

Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí
của Sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đây chính là tiềm năng to lớn
của Đà giang được con người chinh phục. Đây là “vàng trắng” quý báu của đất
nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nói tới hình ảnh của những tuốc bin

5
thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của Sông Đà
trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Hình tượng người lái đò sông đà
Người lái đò sông Đà ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây
dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm hứng ngợi ca, tôn
vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không
nằm ngoài xu thế chung đó, Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò là
một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca ngợi người lao động bình dị,
vô danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.

Hình tượng người lái đò sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô
đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược
bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể
hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.

Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần
trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc
về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà là
một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự
tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ông lái đò.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của
nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh
gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước
trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến
xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn
quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất
chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người
ta lầm tưởng “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ
sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi
nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình
của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của
ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần
phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.

6
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của ông lái trong
nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào
nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh
của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông
Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến
cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh
nghiệm, ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưa sinh thành một
niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái
chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của
mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu
phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và buồn
ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.

Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn
Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn
học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và
một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay
go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, ông lái đò đã bộc lộ tất cả
những phẩm chất tốt đẹp của mình.

Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự
phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để
dồn ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác
phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề
hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước
những đòn đánh chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể
chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên
sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt khoát. Và bằng lòng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình
tĩnh ông lái đò đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch
trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa
sinh, cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã
nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách
đánh của ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận
khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn
làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo
dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn, ông đã vượt
qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa
một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ
khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con người.
7
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của
sông Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến thắng của ông lão lại
cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách. Chiến thắng được sông Đà
với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều không phải ai cũng có thể làm dược, thậm
chí đây là một chiến công phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao
động nơi đây là là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa
bình thường hóa những điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người
lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, đáng quý.

Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là
kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật.
Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư tưởng Nguyễn
Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con
người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là
cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao động thầm lặng trong công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa
---------------------------------------------------------------------------------------

8
Đất nước
Đất Nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không
gian, chiều dài của thời gian (42 câu thơ đầu)
9 câu thơ đầu: Lý giải nguồn gốc của Đất Nước/ Đất Nước có từ bao giờ?
Đất Nước vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, trở thành nguồn cảm hứng bất tận,
khơi gợi cảm xúc cho biết bao ngòi bút. Ở mỗi thời đại lịch sử, Đất Nước lại được
định nghĩa theo những quan niệm khác nhau. Đó là một Đất Nước thiêng liêng,
hào sảng, trang trọng, mang dáng vóc kỳ vĩ khó chạm tới trong thơ Lý Thường
Kiệt:

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư"

Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" cũng đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của
đất nước bằng các yếu tố văn hóa, văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập
quán, sự hiện diện của các triều đại lịch sử và những anh hùng hào kiệt:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

9
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có."

Hay đó là một đất nước tráng lệ, huy hoàng với tầm vóc lớn lao, kì vĩ trong thơ
Nguyễn Đình Thi:

"Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"

Và với nhà thơ Thanh Hải, đất nước lại lung linh, kỳ ảo:

"Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước."

Nhưng khi đến với Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước mình
bình dị và thân quen, gần gũi đến lạ thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn đưa đến
một cảm giác mới mẻ, thấm thía và xúc động về Đất Nước trong quan hệ với cuộc
sống của nhân dân dưới góc độ văn hóa dân gian. "Đất Nước không phải là những
gì trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì rất đỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với
đời sống và tinh thần của con người. "

Tác giả mở đầu bài thơ bằng giọng điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ, tâm tình như đưa ta trở
về với cội nguồn của Đất Nước:

"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"

10
Ngay từ câu thơ đầu tiên, ta đã ấn tượng và đặt ra câu hỏi về hai chữ "Đất Nước",
tại sao hai chữ ấy lại được viết hoa? Người ta thường viết hoa tên riêng và trước
giờ các nhà thơ đều không viết hoa từ đất nước như Nguyễn Khoa Điềm. Phải
chăng nhà thơ xem đất nước như một sinh thể, như một tên riêng, thể hiện sự trân
trọng, yêu kính và ngợi ca Tổ quốc mình. Quả đúng là như vậy! Khi ta xét đến việc
Đất Nước có từ khi ta lớn lên, từ "ta" như để nói nhân vật trữ tình là thi nhân, mà
cũng như để nói đến chúng ta, một cộng đồng, một dân tộc với bao thế hệ. "Ta"
không rõ là ai, trạng ngữ phiếm định "khi ta lớn lên" chỉ rõ Đất Nước đã có từ
trước đó, tự bao giờ, từ ngàn đời, sừng sững và hiên ngang, trước khi mỗi chúng ta
ra đời và lớn lên. Vì thế Đất Nước xứng đáng được tôn kính như một sinh thể, ta
dành một tấm lòng nghiêng mình trước non sông.

Sự bình dị không chỉ hiện lên qua nguồn cội của Đất Nước, mà còn phảng phất ở
lời thơ như thủ thỉ, chiêm nghiệm, tâm tình. Đất Nước chính là không gian nuôi
sống, nuôi dưỡng ta từ thuở ấu thơ đến khi trở về cát bụi. Đất Nước như cái nôi
chung của dân tộc, ru hồn ta mãi xanh tươi.

Tiếp nối câu thơ đầu tiên, câu thơ thứ hai lý giải về cội nguồn của Đất Nước:

"Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể"

Thuở ấu thơ, ai không từng nghe những truyện cổ tích "ngày xửa ngày xưa" của
bà, lời ru âu ơ, ngọt ngào, sâu lắng của mẹ. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" mà
Nguyễn Khoa Điềm sử dụng thật tinh tế và giàu tình cảm bởi cụm từ ấy đã đi sâu
vào tiềm thức của mỗi người con đất Việt, nó dẫn lối về những miền xưa cũ thân
thuộc, nó gợi cho ta niềm thương nỗi nhớ về một trời tuổi thơ xanh ngắt, về chiếc
nôi êm với bầu sữa mẹ ngọt lành. Đất Nước hiện hình trong những câu chuyện cổ,
gắn liền với hình ảnh của cô Tâm dịu hiền, chàng Thạch Sanh dũng cảm, vớ Thánh
Gióng oai phong lẫm liệt,...

"Tôi yêu truyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

11
Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần."

("Truyện cổ nước mình" - Lâm Thị Vỹ Dạ)

Hình ảnh Đất Nước thật đẹp gắn với vẻ đẹp của con người Việt Nam cần cù, lam
lũ, dũng cảm, kiên cường và giàu tình yêu thương. Chính không gian văn hóa ấy đã
nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ con người Việt Nam.

Rồi "Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn"

Hình ảnh "miếng trầu" tuy nhỏ bé nhưng lại dung chứa cả "cuộc đời" của một Đất
Nước, chứa đựng biết bao tình cảm bình dị mà thân thương. Câu thơ đã gợi nhớ về
câu chuyện cổ tích "Sự tích trầu cau" từ đời Hùng Vương, ca ngợi tình nghĩa sâu
nặng của anh em, vợ chồng, để rồi từ đó hình thành những phong tục, tập quán
trong giao tiếp "miếng trầu là đầu câu chuyện" hay trong hôn nhân "miếng trầu nên
dâu nhà người", tạo nên nét đẹp văn hóa trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Lịch sử 4000 năm của Đất Nước bắt đầu từ những câu chuyện dung dị mà thấm
sâu ấy. Và miếng trầu đã trở thành biểu tượng cho tình yêu, vật chứng cho đôi lứa
và cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt.

Thật độc đáo và khác lạ, Đất Nước lại đi về những miền cổ tích xa, đi cùng hình
ảnh mẹ, hình ảnh bà mà chẳng phải những con số, những triều đại hào hùng. Từ
buổi hồng hoang của lịch sử, Đất Nước hình thành, trở thành không gian địa lý che
chở con người, rồi con người biết yêu quý Đất Nước, tạo nên những văn hóa,
phong tục đẹp đẽ, gắn kết giữa Đất Nước và con người mãi bao năm.

Sau ba câu thơ đầu về sự ra đời của Đất Nước, câu thơ thứ tư sẽ đưa ta về những
ngày tháng Đất Nước bắt đầu "lớn lên", như một con người, quá trình phát triển
của Đất Nước cũng có vô số sự kiện và những giai đoạn đặc biệt:

"Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"

12
Câu chuyện Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh đuổi giặc Ân đã len lỏi vào trang
thơ Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả đã vận dụng thành công chất liệu của nền văn học
dân gian, khai thác hình ảnh Thánh Gióng trong truyền thuyết "Thánh Gióng",
chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh đuổi giặc ngoại xâm. Vẻ
đẹp của Thánh Gióng như song hành cùng vẻ đẹp của cây tre Việt Nam.

"Nòi tre đâu chịu mọc cong

Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường."

Hình ảnh cây tre đã trở nên quen thuộc ở mỗi làng quê, là biểu tượng cho vẻ đẹp
tâm hồn, phẩm chất của con người Việt thật thà, chất phác nhưng kiên cường, anh
dũng, bất khuất, cho tinh thần đoàn kết, cho sức mạnh quật khởi và tinh thần yêu
nước của dân tộc ta bao đời nay.

Cụm từ "dân mình" nghe sao thân thương quá đỗi! Hình ảnh "lớn lên" tựa như sự
vươn mình của dân tộc, từ những ngày đói khổ, năm tháng đau thương đến những
ngày vươn dậy hào hùng, mang sức mạnh quật khởi, kiên cường; qua những giai
đoạn đấu tranh, rồi dựng xây, giữ gìn, phát triển Đất Nước. "Đất Nước" lớn lên
cũng vì thế. Câu thơ cũng thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc tuyệt vời, song song
với cổ tích và truyền thuyết đã đi vào các trang sách, vào ký ức của mỗi người dân
Việt Nam, qua đó, tác giả cũng khéo léo nhắc nhở về truyền thống đánh giặc cứu
nước của dân tộc ta. Trong bài thơ "Quang vinh Tổ quốc chúng ta", Tố Hữu cũng
từng có những dòng ngợi ca:

"Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

Vụt lớn lên, đánh đuổi giặc Ân.

Sức nhân dân khỏe như ngựa sắt

Chí căm thù rèn thép làm roi


13
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

Lũ sát nhân cướp nước hại ngòi

Tổ quốc ta quyết không mất nữa!

Phố làng đây, nhà cửa ta đây

Dù tan nát, cháy thành than lửa,

Máu hi sinh phải rửa thù này!"

Hình ảnh Đất Nước được hiện diện ngay trong cuộc sống của mỗi con người, mỗi
gia đình gắn với những tập tục, thói quen và lối sống tình nghĩa, cần cù chịu khó.

"Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn"

Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên với thói quen bới tóc sau đầu, một vẻ đẹp giản
dị, dịu dàng, đằm thắm và chịu thương, chịu khó, tần tảo trong lao động. Hình ảnh
đó cũng trở thành nét đặc trưng văn hóa, tục búi tóc sau đầu đưa ta nhớ về một nền
văn hóa đậm đà, một thuở cơ cực vất vả của người phụ nữ Việt Nam.

Không chỉ vậy, Đất Nước còn ngời sáng bởi đạo lí nghĩa tình thủy chung của đôi
lứa. Dù trải qua bao sóng gió, cha mẹ vẫn thương nhau "gừng cay muối mặn",
không bao giờ thay đổi. Vì lẽ đó, muối - gừng trở thành biểu tượng cho tình nghĩa
gắn bó, thủy chung của vợ chồng.

14
"Tay bưng đĩa muối chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau."

hay

"Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn

Sáu ngàn ngày cũng xa."

Đạo nghĩa vợ chồng ngàn năm chẳng rời. Một ngày nên duyên, cả đời ân tình
không sao kể xiết. Tình và nghĩa luôn đi cùng nhau, vợ chồng không chỉ có tình
mà còn có nghĩa, gắn bó và thương nhau trọn đời, như muôn lần muối vẫn mặn và
gừng thì vẫn cay. Đây chính là truyền thống tốt đẹp của đất nước mình tự bao đời.

Trong những câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã sử dụng các từ xưng hô quen thuộc trong
đời sống mỗi người Việt, từ "mẹ", "bà", rồi "cha mẹ" - ta như được ở trong một sợi
dây máu thịt gắn bó bởi truyền thống, đều là "con Rồng cháu Tiên" cùng đoàn kết,
thủy chung, yêu thương nhau thành một truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.

Nhưng ta gắn bó với Đất Nước không chỉ bởi những tình cảm thiêng liêng ấy mà
còn ở những tập tục, hình ảnh quen thuộc gần gũi:

"Cái kèo cái cột thành tên"

15
Câu thơ khiến ta nhớ về những gian nhà tranh vách lá, cái kèo, cái cột dựng lên,
nghe tiếng kêu"kẽo kẹt" từ đâu vọng về. "Cái kèo, cái cột" còn chỉ sự hình và phát
triển của ngôn ngữ dân tộc, tiếng nói mà ta đã đánh đổi xương máu để giữ gìn.
Những thân cây, khúc gỗ, những cái cột cái kèo như có tên tuổi cùng Đất Nước.
Bên cạnh đó câu thơ còn nhắc đến một tập tục rất độc đáo, đó là đặt tên xấu để dễ
nuôi, chóng lớn. Từ tên của những vật dụng hàng ngày trở thành tên của những
đứa trẻ, gửi gắm bao yêu thương, ước vọng về những mầm non của Đất Nước.

Và rồi, Đất Nước tiếp tục "lớn lên" với hình ảnh "hạt gạo" - thức ngọc trời đã nuôi
sống biết bao thế hệ:

"Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng."

Hình ảnh hạt gạo "một nắng hai sương" với bốn công đoạn "xay, giã, giần, sàng"
cũng là hiện thân của quê hương. Thành ngữ "một nắng hai sương đã thể hiện sự
chăm chỉ, chịu thương chịu khó cùng bao vất vả gian nan trong đời sống nông
nghiệp. Hạt gạo được làm ra từ bao mồ hôi, nước mắt, bao nhọc nhằn lo toan với
quá trình sản xuất tỉ mì xay, giã, giần, sàng. Vẻ đẹp của hạt gạo trắng trong là kết
tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của con người lao động, kết tinh cho vẻ đẹp của Đất Nước
gắn với nền văn minh lúa nước từ ngàn đời nay. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm hoàn
thành trường ca "Mặt đường khát vọng" năm 28 tuổi, nhưng những lời thơ vẫn rất
sâu sắc và thiết tha khi nhắc về cội nguồn dân tộc. Ý thơ ở đây khiến ta nhớ đến
bài ca dao quen thuộc:

"Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."

Và, sau tất cả những hình ảnh vọng về đẹp đẽ, "Đất Nước có từ ngày đó..." là lời
khẳng định chân thành và chắc chắn. "Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm
tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc." Những vẻ đẹp
vẹn nguyên của một dân tộc, một Đất Nước anh hùng. Cụm từ "ngày đó" là một
ngày rất xa xôi, nhưng Đất Nước thì luôn thật gần gũi với đời sống mỗi chúng ta.
Ngày xưa ấy, Đất Nước sinh ra và lớn lên, bên cạnh con người, chở che rồi nuôi
16
nấng, qua bao không gian, hình thành văn hóa phong tục qua bao thời gian. Dấu ba
chấm cuối câu nối dài những truyền thống văn hóa văn hiến, phong tục tập quán,
thể hiện sự bất tận, sự trường tồn vĩnh hằng từ xa xưa với Đất Nước. Chín câu thơ
mở đầu khiến người ta lắng lại với cội nguồn, nghĩ về nước mình với những ân
tình đậm đà.

"Nguyễn Khoa Điềm không xác định niên đại theo cách của các nhà sử học, khảo
cổ học để khẳng định sự ra đời của đất nước mà cắt nghĩa sự ra đời của Đất Nước
trong chiều sâu của lý lẽ - trái tim nhiều yêu thương ngọt ngào, đằm thắm. Viết về
Đất Nước mà lời của tác giả như là tiếng của người yêu thủ thỉ tâm tình. Đất Nước
hiện lên dung dị, gần gũi, đời thường, khơi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề
dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời của dân tộc với những nét rất đặc thù, thiêng
liêng và rất đỗi tự hào."

33 câu thơ tiếp theo: Định nghĩa về Đất Nước


- Đất nước là gì?

"Một cuộc thám hiểm thật sự không cần một vùng đất mới mà cần một đôi mắt
mới." (Proust) Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, mỗi người nghệ sĩ phải tìm
ra cho mình một lối đi riêng để ghi dấu trong lòng độc giả và khắc tên mình vào
dòng chảy thời gian. Người thi sĩ không thể bước đi trên lối mòn của người khác
mà phải "khơi những nguồn chưa ai khơi". Chính vì vậy, cùng với chủ đề đất nước,
Nguyễn Khoa Điềm đã có những định nghĩa thật mới lạ. Tách riêng 2 yếu tố Đất -
Nước ra khá đặc biệt, bằng phép chiết tự, nhà thơ trình bày định nghĩa của mình
theo một cách mới mẻ, độc đáo vô cùng.

Đất Nước được hợp thành bởi 3 yếu tố

+ Chiều rộng không gian địa lý, hình thành nên văn hóa Việt

Trước hết, Đất Nước được đặt trong chiều rộng mênh mông của không gian địa lý.
Với suy luận của tuổi trẻ, nhà thơ đã chia cắt Đất Nước thành 2 thành tố Đất và
17
Nước để suy ngẫm và chiêm nghiệm cho sâu sắc. Mở đầu đoạn thơ này là định
nghĩa về "Đất" thật khác biệt:

"Đất là nơi anh đến trường"

"Đất" là con đường đưa anh đến trường, mở ra một không gian cụ thể của Đất
Nước. Những ngôi trường học thân quen là nơi gắn bó với mỗi con người, nơi ta
cảm nhận được bao tình thương mến của thầy cô, bạn bè, cung cấp cho ta chân trời
tri thức rộng mở để chắp cánh cho bao ước mơ, khát vọng bay cao, bay xa.

Khái niệm về "Nước" còn gây nhiều bất ngờ hơn:

"Nước là nơi em tắm"

Hình ảnh "giếng nước gốc đa" đâu đó hiện lên, gợi người đọc liên tưởng đến quê
hương, đến làng xóm, những ngõ quanh co rợp mát bóng tre làng, và cả giếng nước
ở đầu làng. "Nước" là nơi em tắm, hình ảnh bình dị thân thuộc của làng quê gợi lên
những con sông quê hương bên lở bên bồi, mang phù sa bồi đắp cho những cánh
đồng châu thổ làm nên một vùng văn hóa xứ sở. Đó còn là dòng sông đã tắm mát
tuổi thơ, để con người được đẫm mình trong không gian trong trẻo, yên bình của
thiên nhiên. Và kỷ niệm của một thời thơ ấu cứ thế lặng lẽ theo ta cho đến hết cuộc
đời.

Hình ảnh "Đất" và "Nước" song hành với nhau, như anh và em gắn bó, và Đất
Nước không chỉ là không gian sinh hoạt hàng ngày nuôi dưỡng tâm hồn, thể chất
mà còn là nơi in dấu bao kỉ niệm của tình yêu đôi lứa.

"Đất Nước là nơi ta hẹn hò"

Bằng lăng kính của tình yêu đôi lứa nở rộ và rực rỡ nhất, Đất Nước trở thành
không gian riêng tư của anh và em, là nơi ta hẹn hò với bao bồn chồn, bâng
khuâng, xao xuyến. Đó là nơi anh nắm tay em nói những lời yêu thương trong bao
vụng về, e ngại, khởi đầu cho một tình yêu đầu đẹp đẽ. Tác giả đã cho thấy đây
chính là biểu tượng cho sự thống nhất, hòa quyện giữa các yếu tố "Đất" và "Nước",
18
của anh và em, hợp thành một chỉnh thể, không thể thiếu một trong hai, gợi lên
một chiều sâu suy tưởng: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng,
cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và huyền thoại... gắn bó bền chặt
không thể tách rời.

Với con mắt của tuổi trẻ, Đất Nước là cõi mộng với những kỉ niệm dịu ngọt của
tình yêu,

"Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"

"Đất Nước là nơi" - cụm từ này được điệp lại như một sự nhắc nhở và khẳng định,
rằng từng chút một trong sự lớn lên của tình yêu đôi lứa đều quyện hòa vào trong
Đất Nước. Là nơi dung chứa tình yêu của anh, của em, của đôi mình, là nơi "em
đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm", nơi để em chia sẻ những nỗi niềm, suy
tư, trăn trở thầm kín của tình yêu. Hình ảnh chiếc khăn đã trở thành một biểu tượng
của tình yêu, chuyên chở tâm trạng của người con gái khi yêu.

"Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt."

Hay hình ảnh chiếc khăn còn đi vào thơ Phan Thị Thanh Nhàn thật tinh tế:

19
"Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay

Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,

Bên ấy có người ngày mai ra trận."

(Hương thầm)

Ở câu thơ này, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn nhủ về sự đan cài giữa tinh
yêu cá nhân với tình yêu đất nước, tuy hai mà một. Bởi chính những chàng trai, cô
gái trẻ sẽ góp công xây dựng đất nước, cống hiến cho dân tộc, và sự kết hợp của
họ, tình yêu của họ sẽ thổi bùng sức sống của đất nước, tô đẹp non sông gấm vóc
Việt Nam và làm phong phú cuộc sống mỗi người.

Bằng việc sử dụng những chất liệu văn hóa dân gian như ca dao, các hình ảnh đặc
trưng của quê hương, thôn xóm, bản làng nước Việt, nhà thơ của "Đất Nước" đã
gợi ra cho độc giả những cách hiểu mới, cách cảm nhận mới về đất nước mình
đang sống. Các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, phép chiết tự đã được vận
dụng tinh tế, đem lại sự lý giải vừa như tâm tình, vừa rất hợp lý và thuyết phục.

Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Đất Nước còn là những vẻ đẹp từ thiên nhiên, từ
những hình ảnh đặc trưng trong câu ca dao:

"Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi."

Lên núi rồi xuống biển, một lần nữa khái niệm Đất Nước lại được phân tách và lý
giải sống động. Hình ảnh chim phượng hoàng và cá ngư ông là một hình ảnh nổi
bật trong ca dao xưa:

"Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi Bạc


20
Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi

Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời

Kẻo mai kia con cá về sông vịnh

Con chim nọ đổi dời về non xanh."

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp tục khơi sâu chất liệu của văn học dân gian,
lấy ý tưởng từ những câu hò Bình - Trị - Thiên vẽ nên một bức tranh Đất Nước
giàu đẹp với núi sông hùng vĩ, bát ngát biển khơi. "Đất lành chim đậu" là những
hình ảnh đa dạng, phong phú của chim, của cá tượng trưng cho sự thịnh vượng và
trù phú của nước Việt. Quan hệ đoàn tụ của chim và cá gắn liền với sự hài hòa giữa
Đất và Nước. Nhà thơ đã kể tên những tài nguyên của Đất Nước trong cảm hứng
hào sảng, tự hào để thức tỉnh mỗi chúng ta ý thức bảo vệ và giữ gìn những vẻ đẹo
huy hoàng, tươi đẹp vốn có của quê hương.

"Dường như không gian Đất Nước còn là không gian tinh thần, là nơi trở về của
những tâm hồn yêu quê hương." Cũng như con chim phượng hoàng bay về núi,
con cá ngư ông về với biển khơi, mỗi con người cũng luôn hướng về cội nguồn Đất
Nước. "Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người". Đất Nước trở
thành nơi thiêng liêng gắn bó máu thịt với mỗi chúng ta như "chim có tổ, người có
tông".

Và trên hết, không gian Đất Nước là "nơi dân mình đoàn tụ", là không gian sinh
tồn của cả cộng đồng:

"Không gian mênh mông

Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ"

21
"Không gian mênh mông" của Đất Nước rộng lớn với núi sông bờ cõi, với Bắc -
Trung - Nam một dải nối liền, là con đường anh đến trường, là dòng sông em tắm,
là giếng nước, ao làng, là rừng vàng biển bạc bao la. Không gian ấy trở thành ngôi
nhà chung của đại gia đình Việt Nam qua bao thế hệ, là cội nguồn, quê hương tinh
thần của mỗi con người. Trải qua sự dai dẳng của thời gian 'đằng đẵng", qua bao
sóng gió, dân mình được đoàn tụ, quây quần. Đó là sự hội ngộ sau những ngày
tháng gian khổ, hay cũng chính là sự trở về với Tổ tiên, tất cả đều được đoàn tụ
trong chiều rộng không gian và chiều dài thời gian của Đất Nước. 54 dân tộc anh
em cùng sinh sống trên một dải đất hình chữ S, cùng sẻ chia Đất Nước và góp phần
gìn giữ, xây dựng và phát triển Đất Nước không ngừng. Đất Nước không nhỏ bé
riêng tư mà là nơi sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc. Từ "dân mình" thật gần gũi,
thân thiết, như thể tất cả chúng ta đều cùng chung một gia đình, đều là ruột thịt.
Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm thật có sức gợi làm nao lòng người.

+ Đất Nước ở bình diện lịch sử

Không chỉ tự hào về không gian địa lý của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
còn gợi ra chiều dài miên viễn của thời gian lịch sử. "Thời gian đằng đẵng" là thời
gian vô thủy, vô chung, là quá trình phát triển lâu dài từ trong quá khứ, tới hiện tại
và tương lai. Đó là thời gian từ "ngày xửa ngàu xưa" trong cõi xa xăm, xa mờ, Đất
Nước đã hiện hữu.

"Từ có vũ trụ

Đã có giang san"

Đất Nước có từ thuở hồng hoang gắn với những câu chuyện sử thi "Đẻ đất đẻ
nước", từ "Sự tích trăm trứng" hay truyền thuyết "Sơn Tinh Thủy Tinh". Bờ cõi
được mở mang, Đất Nước có từ ngày đó, rồi Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên...
cứ thế hình thành và phát triển qua lịch sử 4000 năm văn hiến.

Đất Nước hiện ra với một chiều dài "đằng đẵng" xuyên suốt từ quá khứ, đến hiện
tại và tương lai:

22
"Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau"

Quá khứ của Đất Nước gắn với "những ai đã khuất", với những con người đã sẵn
sàng hi sinh để bảo vệ sự sống của Đất Nước. Họ có thể là những người anh hùng
kiệt xuất như Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi,... Nhưng cũng có thể là những
con người bình dị, vô danh, là đại đa số nông dân nghèo khổ "đã đứng lên thành
những anh hùng". Tất cả họ đều đã hiến dâng cuộc đời mình để hóa thân vào hình
hài Đất Nước, viết nên trang sử hào hùng của dân tộc.

Điệp từ "những ai" là tiếng gọi chung cho tất cả con dân nước Việt, dù là ông cha
ta đã nằm xuống, hay những con người của hiện tại, chúng ta yêu nhau, cùng "sinh
con đẻ cái", duy trì nòi giống "con Rồng cháu Tiên". Đó là sứ mệnh, là trách nhiệm
"gánh vác phần người đi trước để lại", tiếp tục sống, giữ gìn dân tộc mình, đất
nước mình, tiếp tục bảo vệ nền độc lập mà ông cha đã dùng máu xương của mình
để dựng xây là gìn giữ. Không chỉ thế, ta còn tiếp tục phát triển non sông bằng sức
trẻ và trí tuệ được trau dồi không ngừng. Rồi thì, khi chúng ta già đi, ta lại tiếp nối
vòng tuần hoàn ấy, "dặn dò con cháu chuyện mai sau", câu chuyện của Tổ quốc
mình.

Cứ như vậy, thế hệ này đến thế hệ kia, đời này sang đời khác cùng "dặn dò con
cháu chuyện mai sau", cùng lưu giữ những giá trị tinh thần bền vững như lòng yêu
nước, tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm, tình cảm nhân
ái, thủy chung. Có thể nói, lịch sử bốn nghìn năm của Đất Nước được hình thành
và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức vĩ đại, lớn lao, vĩnh hằng của các thế hệ con
người Việt Nam. Điều đó đã tạo ra sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai
giữa thế hệ này với thế hệ khác.

23
+ Đất Nước ở chiều sâu văn hóa

Đất Nước trở nên vẹn toàn, đẹp đẽ, và thiêng liêng hơn trong chiều sâu văn hóa,
thống nhất ở cội nguồn và truyền thống văn hóa của dân tộc:

"Đất là nơi chim về

Nước là nơi rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"

Nếu như Nguyễn Trãi phát hiện ra Đất Nước qua các triều đại lịch sử "Triệu, Đinh,
Lý, Trần" thì Nguyễn Khoa Điềm lại đưa ta trở về với cái thuở sơ khai gắn với
truyền thuyết về nguồn gốc tổ tiên. Đất Nước bắt đầu từ thuở khai thiên lập địa -
nhà thơ cảm nhận và lý giải Đất và Nước theo chiều dài vô tận của thời gian, chiều
sâu của quá khứ lịch sử và phảng phất chất huyền thoại qua những câu chuyện
vọng về. Hình ảnh "chim về", "Rồng ở" đưa ta về nguồn gốc của người con đất
Việt, từ thuở Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, năm mươi con
xuống biển, năm mươi con lên non, trở thành 54 dân tộc anh em của chúng ta bây
giờ. Dù là miền ngược, miền xuôi, dù là Bắc, Trung, Nam, tất cả đều có chung
tiếng gọi "đồng bào" thiêng liêng, đều là con Lạc cháu Hồng, anh em một nhà.
Chúng ta dù trẻ hay già, gái hay trai đều chung sức, chung lòng hướng về tổ tiên,
nhớ ơn nguồn cội, mang trong tim niềm tự hào dân tộc sâu sắc.

Không chỉ tự hào về cội nguồn văn hóa của Đất Nước, nhà thơ còn hướng tới
những truyền thống văn hóa tốt đẹp từ ngàn đời nay.

"Hàng năm ăn đâu làm đâu

24
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"

Trong dân gian đã từng có câu ca nhắc về mỗi người:

"Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3"

hay

"Dù ai buôn bán gần xa

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3"

Tiếp nối mạch nguồn văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã khơi gợi trong mỗi
chúng ta ý thức về nguồn gốc, dòng giống tổ tiên, từ đó biết ơn những thế hệ đi
trước đã làm nên giang sơn đất nước. Hai chữ "cúi đầu" thể hiện niềm thành kính
thiêng liêng, để hướng về lịch sử các vua Hùng đã có công dựng nước. "Cúi đầu"
để tri ân, để tâm nguyện với lòng mình phải giữ lấy đạo lý "uống nước nhớ nguồn",
"ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Người Việt dù đi đâu về đâu trên mọi nẻo đường, ở quê
hương hay nơi xứ người nhưng đều một lòng hướng về quê cha đất tổ như một
ngôi nhà chung để họ cùng trở về trong cái nôi văn hóa đầy yêu thương, gắn bó.

Với lời thơ tự do, đằm thắm ngọt ngào như lời trò chuyện, tâm tình giữa anh và
em, với kiến thức phong phú và khả năng sáng tạo những yếu tố của văn hóa dân
gian, Nguyễn Khoa Điềm đã nêu ra định nghĩa đa dạng về Đất Nước từ chiều rộng
không gian, chiều dài lịch sử cho đến chiều sâu văn hóa với một cái nhìn thật mới
mẻ, sâu sắc.

Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và nét chung, trộn lẫn dung hòa; Đất
Nước chính là "máu xương của mình", mỗi người phải có trách nhiệm với Đất
Nước

25
Đất Nước không chỉ hiện lên ở không gian địa lý, ở chiều dài lịch sử, chiều sâu văn
hóa mà Đất Nước còn có trong mỗi người, hiện thân trong mỗi con người.

"Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước"

Đất Nước có trong những hình ảnh bình dị, đời thường của cuộc sống hàng ngày từ
miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta trồng, cây tre ven đường hay những con đường đến
trường, nơi ta từng hẹn hò. Và hơn thế, Đất Nước còn hóa thân trong hình hài của
mỗi con người, có trong máu thịt, trái tim, hơi thở, sự sống của mỗi cá nhân. Cuộc
sống của mỗi người không chỉ là của riêng mà là thuộc về Đất Nước, đã và đang
thừa hưởng, tiếp nối và phát triển những giá trị văn hóa, vật chất tinh thần của Đất
Nước. Đất Nước cho chúng ta hình hài, cách sống, cách nghĩ, và cũng chính là
những truyền thống văn hóa, đạo lý từ ngàn đời nay đã làm nên cốt cách, vẻ đẹp
tâm hồn bao thế hệ con người Việt Nam.

Câu thơ vang lên như một niềm vui sướng, tự hào khi tác giả nhận thức ra rằng dù
anh và em chỉ là một phần nhỏ của Đất Nước nhưng xiết bao yêu thương, gắn bó
khi ta trở thành những côn dân, một phần tử không thể thiếu trong cộng đồng Đất
Nước.

Bên cạnh sự nhận thức và khẳng định Đất Nước hóa thân, kết tinh trong cuộc sống
của mỗi người, nhà thơ còn cho thấy Đất Nước là sự gắn bó hòa quyện sâu sắc
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tinh yêu lứa đôi và tình yêu Tổ quốc.

"Khi hai đứa cầm tay nhau

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn."


26
Đất Nước là nơi ta từng họ hẹn, là nơi em "đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm. Và giờ đây, Đất Nước là nơi "hai đứa cầm tay". Cầm tay để trao gửi yêu
thương, thề nguyện đính ước, để trao duyên mặn nồng. Và khi đó "Đất Nước hài
hòa nồng thắm". Tình yêu lứa đôi trở thành bệ phóng vun đắp cho tình yêu gia
đình, yêu quê hương, yêu đất nước. Hạnh phúc của mỗi cá nhân được tạo nên bởi
niềm hạnh phúc chung của Đất Nước.

"Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi."

Nếu "khi hai đứa cầm tay" biểu thị mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân với cá nhân,
giữa anh và em thì "khi hai đứa cầm tay mọi người" lại khẳng định mối quan hệ
đoàn kết, yêu thương giữa cá nhân với cộng đồng để làm nên hình ảnh "Đất Nước
vẹn tròn to lớn". Từ "hài hòa nồng thắm" đến "vẹn tròn to lớn" là cả một bước phát
triển đi lên của lịch sử dân tộc, là quá trình tiếp nhận những giá trị bền vững,
thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm của mấy nghìn năm Đất Nước để rồi
tạo ra mối thân tình đoàn kết của đồng bào, đồng chí. Và cũng từ đó, những lời dạy
tha thiết và nghiêm khắc của cha ông vẫn luôn là bài học về đạo lí làm người, về
tình yêu thương đùm bọc gắn bó.

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng"

Những câu thơ tiếp theo đã thể hiện niềm tin vào tương lai của Đất Nước với một
viễn cảnh tươi sáng, huy hoàng:

27
"Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng."

Các từ ngữ "mai này", "lớn lên", "đi xa" trong tháng ngày mơ mộng đã cho thấy
cái nhìn tích cực về một tương lai tốt đẹp, một hành trình chinh phục ước mơ thật
đẹp đẽ. Lời nhắn nhủ chân thành, thấm thía của tác giả đã hướng đến thế hệ mai
sau, những người sẽ "gánh vác phần người đi trước để lại", xây dựng Đất Nước
giàu đẹp văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ từng
căn dặn. Hai chữ "lớn lên" đã đặt kì vọng, niềm tin vào trí tuệ, bản lĩnh của nhân
dân. Và họ sẽ là người "mang Đất Nước đi xa" đến với chân trời tươi sáng, đến với
"những tháng ngày mơ mộng". Từ một Đất Nước nghèo khí hôm qua trở thành một
Đất Nước huy hoàng, rực rỡ, thực hiện được những điều mà ngày hôm qua chỉ là
khao khát, hi vọng.

Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là cảm xúc trào dâng khi nhà thơ thấm thía sâu sắc
ý thức trách nhiệm của cá nhân với Đất Nước:

"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời"

Lời thơ thủ thỉ tâm tình "em ơi em" như một tiếng gọi yêu thương , san sẻ với bao
niềm vui sướng khi ta nhận ra "Đất Nước là máu xương của mình". Vì lẽ đó mà ta
phải biết "gắn bó và san sẻ", "phải biết hóa thân" cho dáng hình xứ sở. Hai từ "phải
biết" nhấn mạnh ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng của mỗi con
người để làm nên "Đất Nước muôn đời". Đó cũng chính là mệnh lệnh phát ra từ
28
trái tim mỗi con người Việt Nam yêu nước để rồi nó trở thành lời hiệu triệu mạnh
mẽ mà tha thiết ngân vang. Để bảo vệ từng tấc đất quê hương, những con người
Việt Nam sẵn sàng đấu tranh và "hóa thân" cho núi sông, cho Đất Nước mãi mãi
trường tồn. Ý thơ đã cho thấy đây là tiếng thơ "mang sức mạnh ý chí và khát vọng
vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ". Có như vậy, ta mới có thể bảo vệ và
giữ gìn "Đất Nước muôn đời".

"Ôi tổ quốc khi cần ta chết

Cho mỗi căn nhà ngọn núi, con sông"

Mượn hình thức tâm tình, thủ thỉ của đôi trai gái yêu nhau, nhà thơ đã gửi gắm,
nhắn nhủ đến thế hệ mai sau trách nhiệm với Đất Nước. Lời thơ ngọt ngào sâu lắng
thể hiện niềm tự hào sâu sắc và tình yêu đối với Đất Nước, Đất Nước của "những
người chưa bao giờ khuất" bởi "lòng dân ta yêu nước thương nhà".

3.2. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân - Nhân dân đã hóa thân để làm nên Đất
Nước
Nhân dân làm ra không gian địa lý của Đất Nước
Đoạn trích "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ta đến với một Đất Nước
giản dị mà rất đỗi đời thường, Đất Nước của nhân dân. Tìm cho mình một lối đi
riêng, nhà thơ đã có những phát hiện thật sâu sắc về địa lý, lịch sử, văn hóa của Đất
Nước gắn với vai trò kiến tạo của nhân dân. Đoạn thơ là câu trả lời mang tính thẩm
mĩ cho câu hỏi: ai đã làm nên hình sông thế núi, làm ra hình hài Đất Nước? Từ đó
đi đến khẳng định: nhân dân chính là người làm ra không gian địa lý của Đất
Nước.

"Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

29
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình cho đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối ống ông cha"

Đầu tiên, tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng
của nhà thơ đối với nhân dân - những người đã cống hiến từ điều nhỏ bé nhất cho
Đất Nước. Tác giả đã nêu ra những di tích văn hóa như Đền Hùng, Hòn Vọng Phu,
các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long, thắng cảnh như núi Bút, non
Nghiên,... hoặc đơn giản chỉ là ruộng đồng, gò bãi, ao đầm trải dài khắp lãnh thổ từ
Bắc vào Nam như phác thảo một tấm bản đồ văn hóa của Đất Nước.

Nếu những nhà thơ, nhà văn khác ngắm nhìn giang sơn gấm vóc, thiên nhiên như
những kiệt tác của tạo hóa, những sản phẩm tuyệt vời trong kiến tạo của thiên
nhiên thì Nguyễn Khoa Điềm lại gắn liền nó với đời sống của nhân dân, với tâm
hồn của dân tộc. "Chính nhân dân là những người đã hóa thân vào từng hình sông,
dáng núi để làm nên vóc dáng, hình hài, cơ thể của Đất Nước, làm nên linh hồn của
các danh lam thắng cảnh, làm nên trầm tích văn hóa của mỗi địa danh. Từng mảnh
đất dòng sông, ngọn núi đều gắn liền với tính cách, tâm hồn con người Việt Nam."

30
Bao thế hệ con người Việt nam đã đóng góp cho danh lam thắng cảnh của đất nước
một sự hóa thân, một ý nghĩa phủ nhuộm đậm đà cả tâm hồn dân tộc. Núi Vọng
Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định gắn liền với sự tích nàng Tô Thị bồng con
chờ chồng hóa đá, hòn Trống Mái cũng là câu chuyện gắn bó nghĩa tình vợ chồng
nghĩa nặng tình sâu. Những vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau bởi sự thủy chung son
sắt trong tâm hồn người Việt Nam nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng.
"Những người vợ nhớ chồng" còn gợi ta nhớ về nàng Vũ Nương trong "Chuyện
người con gái Nam Xương", hình ảnh người phụ nữ sắt son chờ chồng đã in sâu
vào nguồn cội nước non, từ thuở sơ khai đến khi đất nước chiến tranh, người vợ
vẫn sắt son một dạ đợi chồng. Tất cả họ đã "góp cho Đất Nước" không chỉ là hòn
Vọng Phu hay hòn Trống Mái nữa, danh lam thắng cảnh ấy không đơn thuần là hai
hòn đá chụm vào nhau nữa mà là một câu chuyện đời làm nên hình hài ấy.

Vẻ đẹp trong tâm hồn người Việt còn là tình yêu nước nồng nàn, nó đã góp phần
làm nên những di tích lịch sử, những mảnh đất thiêng liêng mà oanh liệt. Gót ngựa
của Thánh Gióng đã để lại cho Đất Nước trăm ao đầm ở vùng Sóc Sơn ngày nay
như hiện thân cho khí phách kiên cường, bất khuất của người dân Việt Nam, mãi đi
vào cõi bất tử, đẹp đẽ ngời sáng. Hay hình ảnh chín mươi chín con voi ở Phong
Châu đã quần tụ để "góp mình" dựng đất tổ Hùng Vương là minh chứng cho lòng
dân cùng đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất.

Bên cạnh Sông Hồng "đỏ nặng phù sa" hay sông Mã "bờm ngựa phi thác trắng",
Đất Nước còn có Cửu Long giang thơ mộng, kiêu sa gắn với một huyền thoại đẫm
màu sắc cổ tích. Những con rồng nằm in từ bao đời nay để cho Nam Bộ một "dòng
sông xanh thắm", dòng sông chín rồng (Cửu Long) mềm mại chuyển mình qua
những bờ bãi, xóm làng mang phù sa tỏa khắp muôn nơi.

Và nếu không có những người học trò nghèo thì Đất Nước mình cũng sẽ có núi
Bút, non Nghiên gợi lên hình ảnh Đất Nước nghìn năm văn hiến với truyền thống
hiếu học, tôn sư trọng đạo "Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa". Ngay cả con
cóc con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh, thành di sản thiên
nhiên thế giới, góp phần đưa vẻ đẹp Đất Nước đến bốn biển năm châu. Rồi những
tên đất tên làng cũng được tạo nên từ tên của những người bình dị như ông Đốc,
ông Trang, bà Đen, bà Điểm.

Đoạn thơ liên tiếp lặp lại những cụm từ "góp cho Đất Nước", "góp nên", "góp
mình", "góp dòng sông", "góp cho Hạ Long",... Và chủ thể của những đóng góp ấy

31
là những người vợ nhớ chồng, những cặp yêu nhau, là người học trò nghèo, là
những người dân,... Tất cả điều vô danh đó chính là nhân dân qua bao năm tháng
đã lặng lẽ kiến tạo xây dựng nên Đất Nước, in dấu sâu đậm trên dáng hình của quê
hương xứ sở.

"Tâm hồn tôi khi tổ quốc soi vào

Thấy nghìn núi, trăm sông diễm lệ"

(Chế Lan Viên - "Chim lượn trăm vòng")

Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ là sự khái quát sâu sắc được rút ra từ sự liệt kê các
hiện tượng cụ thể ở trên theo cấu trúc quy nạp. Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến một
chân lý trong đời sống mang tính triết luận hiển nhiên, sâu sắc.

"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta."

Những câu thơ trên có sự hòa quyện giữa chất trữ tình đằm thắm, thiết tha và chất
chính luận trí tuệ sắc sảo. Điều đó đã mang lại cái nhìn mới mẻ, độc đáo về những
không gian địa lý của Đất Nước, đồng thời đánh thức tình yêu quê hương Tổ quốc,
lòng biết ơn với những thế hệ đi trước đã xây dựng núi sông, bờ cõi.

32
Ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam đều
phảng phất "một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha". Hình ảnh núi sông,
rừng biển, những tên bản, tên làng cũng chính là điệu hồn, là phong cách, là ước
mơ, hoài bão của cha ông qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian lịch sử đằng đẵng vô thủy vô chung thì cụm
từ "đi đâu ta cũng thấy" lại là hình ảnh của một Đất Nước mênh mông, rộng lớn
với rừng vàng, biển bạc. Trong dòng chảy bất tận của thời gian, trong cái mênh
mông rộng lớn của không gian là "Những cuộc đời đã hóa núi sông ta". Từ "hóa"
không chỉ là sự đóng góp lớn lao bởi mồ hôi xương máu của Nhân Dân mà còn là
sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh thầm lặng đã làm nên non sông
đất nước. Mỗi ngọn núi, dòng sông hay gò bãi, ruộng đồng đều có một phần máu
thịt tâm huyết của người xưa. Họ đã khai phá đất đai bằng đôi bàn tay cần cù, gửi
gắm linh hồn mình vào núi sông để truyền lại cho thế hệ mai sau. Bởi vậy mỗi
danh lam thắng cảnh, mỗi di tích văn hóa trên đất Việt đều là bức tượng đài bất tử
về vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam. Ca ngợi núi sông diễm lệ cũng là ca ngợi,
tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn nhân dân.

Tư tưởng "Đất Nước của nhân dân" trước hết được thể hiện ở bình diện không
gian, nó được tạo nên bởi những vẻ đẹp tâm hồn, và những tình nghĩa ấy đã làm
nên gương mặt của Đất Nước thật đẹp đẽ và ngời sáng, tạo nên núi sông hùng vĩ,
giang sơn gấm vóc tươi đẹp muôn đời.

Đóng góp của nhân dân trên bình diện lịch sử


Bên cạnh những phát hiện mới mẻ, độc đáo về sự đóng góp của nhân dân trong
việc làm ra không gian địa lý của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn
hướng vào dòng chảy xa xăm, sâu thẳm của lịch sử để suy tư, chiêm nghiệm về
công sức của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc:

"Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước"

33
Đoạn thơ mở ra với tiếng gọi tha thiết "em ơi em" như tiếng hát thâm tình, như lời
thủ thỉ trò chuyện với "em". "Em" có thể là người con gái nào đó trong tưởng
tượng của tác giả, cũng có thể là thế hệ trẻ, những người sẽ kế tục sự nghiệp của
cha ông hay chính là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Nhà thơ
đã đưa ta về "nhìn rất xa vào bốn nghìn năm Đất Nước", một đất nước với lịch sử
lâu dài, với truyền thống vẻ vang được tạo nên bởi sức mạnh, sự vĩ đại của nhân
dân.

Nghĩ về bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ đã nhận thức được người làm nên Đất
Nước không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh,
bình dị:

"Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"

Với những từ ngữ "người người", "lớp lớp", "con gái", "con trai", "có biết bao
người", "người người" đã gợi lên ấn tượng về sự đông đảo của nhân dân. Hết lớp
này đến lớp khác, bao thế hệ con người Việt Nam đã kế tiếp nhau viết nên những
trang sử hào hùng của Đất Nước.

Ngược dòng chảy thời gian, chúng ta đã trở về với những người con gái, con trai
bằng tuổi chúng ta bây giờ. Khi hòa bình, họ cần cù lao động, chịu thương chịu
34
khó, sống giản dị đầy yêu thương. Khi giặc đến, người con trai ra trận dũng cảm
đấu tranh và trở thành anh hùng, còn người con gái ở nhà "nuôi cái cùng con", trở
thành hậu phương vững chắc. Họ cùng đồng lòng chung sức để đánh giặc cứu
nước, và "ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh" để Đất Nước mãi tự hào với bao
tên tuổi của những nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh
Khai,...

Cả đoạn thơ không có một tên riêng, chỉ có những người con gái, cũng không có
một triều đại lịch sử, không có cả tên một người anh hùng dù "những anh hùng cả
anh và em hôm nay đều nhớ". Có lẽ tên tuổi của họ tổ quốc ghi công, sử sách lưu
truyền:

"Những người đã trở thành anh hùng

Những anh hùng cả anh và em đều nhớ"

Còn những con trai, con gái trong "bốn nghìn năm giống ta lứa tuổi" thì không ai
nhớ mặt đặt tên. Họ lặng lẽ hi sinh mồ hôi, xương máu, hiến dâng tuổi thanh xuân,
hạnh phúc của mình để "làm nên Đất Nước". Họ thầm lặng và lớn lao, vĩ đại. Và
Đất Nước anh hùng được làm nên bởi những con người bình thường, mộc mạc mà
cao cả:

"Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hồn"

(Nguyễn
Đình Thi)

Từ sự hi sinh lặng lẽ và âm thầm của nhân dân, nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã ca
ngợi và khẳng định công sức của những con người đã hóa thân vào Đất Nước:

"Họ đã sống và chết


35
Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước."

Cấu trúc sóng đôi giữa "sống" và "chết", giữa "giản dị" và "bình tâm" đã gợi lên sự
thanh thản, nhẹ nhàng trong sự ra đi của bao thế hệ con người Việt Nam. Họ sống
"giản dị", chân chất, thật thà và "chết" cũng thật "bình tâm", sẵn sàng hiến dâng
cuộc đời mình để "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Họ hi sinh không phải để đời
sau tưởng nhớ, được vinh danh, cũng không phải để ngợi ca mà bởi tiếng gọi của
non sông đất nước "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Lịch sử 4000 năm Đất
Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt và xương máu của những con người cao cả
ấy.

"Họ" có thể là những người nông dân lam lũ trên đồng ruộng quen với "việc cuốc,
việc cấy, việc cày", làm ra hạt gạo phải "một nắng hai sương xay giã giần sàng"
nhưng khi giặc đến họ "không đợi ai đòi ai bắt", "sống đánh giặc chết cũng đánh
giặc". "Họ" có thể là những người con trai đã bỏ lại sau lưng mình gia đình, quê
hương và những người thân yêu để "ra đi đầu không ngoảnh lại" và có thể sẽ
không bao giờ quay trở về. Bao nhiêu con người, không ai nhớ mặt, cũng không ai
để lại tên tuổi. Trên những nấm mồ vô danh là những dòng chữ đầy xót xa "Tổ
quốc khắc tên anh". Nhưng chính những con người ấy đã viết nên truyền thống vẻ
vang trong lịch sử của Đất Nước.

Đoạn thơ đã mang đến cho người đọc một nhận thức rất đơn giản mà thấm thía.
Mỗi con người Việt Nam dù nhỏ bé đều đã góp sức mình để xây dựng Đất Nước
làm nên lịch sử dân tộc. Ta không chỉ cảm nhân được tình yêu nước sâu sắc của
Nguyễn Khoa Điềm mà dường như tình cảm ấy còn lay động, thức tỉnh bao thế hệ
trẻ, khơi dậy ở họ niềm tự hào về quê hương, đất nước. Cũng chính vì vậy, nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã thật sự "giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao
niềm tin ở bản thân mình và làm nảy nở khát vọng hướng tới chân lý" (M. Gorki).

Nhân dân góp phần làm nên giá trị văn hóa, vật chất tinh thần
36
Nhân dân không chỉ là những người làm ra không gian địa lý, xây dựng nên giang
sơn, gấm vóc, làm nên lịch sử Đất Nước mà còn là những người viết nên truyền
thống vẻ vang, lưu giữ và truyền lại những giá trị vật chất tinh thần. Mọi vẻ đẹp
văn hóa truyền thống đều do nhân dân tạo ra và giữ truyền:

"Họ giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than con cúi

Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói

Họ gánh theo tên xã làng trong mỗi chuyến di dân"

Từ "họ" được nêu lên như một điệp khúc, như nhấn mạnh vai trò, công lao to lớn
của nhân dân với Đất Nước. Bên cạnh đó là cặp từ "giữ - truyền" được nhắc lại
như khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công
cuộc xây dựng đất nước "gánh vác phần người đi trước để lại", "dặn dò con cháu
chuyện mai sau" để đưa "Đất Nước đến những tháng ngày mơ mộng."

Nhân dân là những người đã giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng để Việt Nam bốn
nghìn năm gắn liền với hình ảnh cây lúa và nền văn minh lúa nước. Hạt lúa được
làm ra từ "một nắng hai sương" như là tinh hoa của đất trời, kết tinh mồ hôi, công
sức của người nông dân trên đồng. Hạt lúa trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tần tảo
của người nông dân lao động, biểu tượng cho một cuộc sống thanh bình, ấm no.

Không chỉ giữ lại hạt lúa cho ta trồng, nhân dân còn truyền "lửa qua mỗi nhà" từ
hòn than qua con cúi. Ngọn lửa là hình ảnh của sự sống, của sự quây quần, đầm ấm
của ánh sáng và khát vọng, của một cuộc sống thịnh vượng, sum vầy. Thuở xa xưa
hình ảnh những người Việt chuyền lửa cho nhau trong không gian thấm đượm tình
làng nghĩa xóm những khi tắt lửa tối đèn đã gợi lên biết bao yêu thương. Từ những
bếp lửa "ấp iu nồng đượm" trong gia đình, ngọn lửa đã bước vào cuộc chiến tranh
máu lửa "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia" để "Đất
Nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa". Ngọn lửa còn là hiện thân của lòng yêu nước, ý
chí kiên cường đánh giặc ngoại xâm.

37
Một trong những nét đẹp văn hóa của Đất Nước là ngôn ngữ, giọng điệu. Và nhân
dân đã "truyền lại giọng điệu cho con mình tập nói", giữ gìn ngôn ngữ tiếng Việt
như giữ lấy linh hồn của dân tộc. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, bao biến đổi
của thời cuộc nhưng giọng điệu và tiếng nói của dân tộc không bao giờ thay đổi.
Điều đó đã khẳng định ý thức và tinh thần dân tộc của nhân dân khi họ nhận ra một
chân lí hiển nhiên, còn tiếng nói Đất Nước quê hương là giữ lại được bản sắc văn
hóa của một dân tộc.

Đồng thời, nhân dân còn lưu giữ lại những địa danh, những tên xã tên làng như lưu
giữ lại những kí ức của lịch sử qua mỗi chuyến di dân. Họ đã mang theo những tên
xã tên làng thân quen để đặt tên cho những vùng đất mới mà họ đi qua, những cái
tên nặng trĩu tình yêu thương và nỗi nhớ về cội nguồn, về đất tổ quê cha, về những
truyền thống văn hóa thấm đượm tình yêu thương. Nhân dân còn xây dựng nền
tảng vững chắc cho con cháu đời sau an cư lạc nghiệp, "đắp đập be bờ cho đời sau
trồng cây hái trái". Những thế hệ đi trước đã vất vả làm lụng, kiên nhẫn bền bỉ để
người đời sau có những thành quả ngọt ngào.

Và cũng chính nhân dân viết lên truyền thống bất khuất trước mọi kẻ thù, lưu giữ
vẻ đẹp văn hóa ấy qua bao thế hệ

"Có giặc ngoại xâm thì đánh giặc ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại"

Giọng thơ rắn ròi, đanh thép đã thể hiện tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao
độ của nhân dân. Chính họ đã xông pha trận mạc để đánh đuổi ngoại xâm, sẵn sàng
hi sinh để bảo vệ sự bình yên của Đất Nước, cũng là bảo vệ những giá trị vật chất
và tinh thần quý giá của dân tộc.

Nhân dân làm nên chiều sâu tư tưởng


Nhân dân đã làm tất cả không quản gian lao, vì một lý tưởng:

"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân


38
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".

Bốn từ "Đất Nước" được lặp lại, nhấn mạnh "Đất Nước này là Đất Nước của nhân
dân", của những bài ca dao thần thoại, của nền văn hóa đã đi sâu vào huyết quản và
trái tim. Để rồi Đất Nước ấy đã dạy cho mỗi con người yêu quê hương, yêu tổ
quốc:

"Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi"

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Ôi những dòng sông bắt nguồn từ đâu

Mà khi về Đất nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"

Đất Nước là cái nôi ấp ủ, dạy chúng ta tình yêu thương gia đình từ tấm bé, dạy ta
biết quý công sức mình. Đất Nước còn dạy ta biết kiên trì, phấn đấu cho mục tiêu
phía trước, nuôi dưỡng ý chí để ngày mai thành công. "Ôi những dòng sông bắt
nước từ đâu", từ nguồn cội nào đưa câu hát về với Đất Nước? "Người đến khi chèo
đò, kéo thuyền vượt thác" như ông lái đò trên sông Đà của Nguyễn Tuân, như đoàn
thuyền đánh cá trong thơ Huy Cận,... Tất cả họ đều gợi lên rõ ràng hình ảnh người

39
lao động góp từng phần nhỏ tạo ra một Đất Nước kì vĩ, tạo nên "trăm màu trên
trăm dáng sông xuôi". Bởi vậy, nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước!

Tây tiến
Quang Dũng ( 1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn
hậu, lãng mạn và tài hoa. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện
sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ
lại trong khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ
lệ của núi rừng miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động,
chiến đấu.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

40
Heo hút cồn mây,súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời !

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Bài thơ "Tây Tiến" được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ
đã rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Tây
Tiến là một đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng
Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất
rộng lớn trải dài từ Sơn la, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa ( Lào) - là
những nơi hiểm trở, hoang vu, rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông
là thanh niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ
sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành
nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến
trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52.

Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn
chiến đấu cũ. Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu
41
thơ truyền tay tìm đọc. Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ " Mây đầu ô" (
xuất bản 1986). Ban đầu bài thơ có tên là " Nhớ Tây Tiến", sau đó tác giả chuyển
lại thành " Tây Tiến". Nhan đề " Tây Tiến" đảm bảo tính hàm súc của thơ, không
cần phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía.
Nhan đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm, đó là hình tượng đoàn
quân Tây Tiến. Việc bỏ đi từ "nhớ" đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến
cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt
Nam.

"Tây Tiến" là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn
thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính
Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng
lại sống động bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh, những chặng
đường hành quân gian khổ, từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt
hiên ra.

Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:

Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén
nổi. Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là : "sông Mã", "Tây Tiến", "rừng
núi". Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ " nhớ". "
Nhớ chơi vơi" là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh
mang, đầy ám ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian
trập trùng của núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần "ơi" làm câu thơ như ngân vang,
phù hợp với biên độ của cảm xúc.

Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi
nhớ ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.

Hai câu thơ tiếp gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:

42
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn.Những từ chỉ địa danh Sài
Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến.
Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn
đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và
miêu tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những
người lính ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời.
Hình ảnh " hoa về trong đêm hơi" là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những
ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình
ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát
hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những
bông hoa rừng. Đoàn quân ấy hành quân trong một " đêm hơi" đầy huyền ảo, mơ
hồ, bảng lảng khói sương chốn rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng
mạn của Quang Dũng.

Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời,

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình "khúc khuỷu", " thăm thẳm", " heo
hút", kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày
đặc khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra
trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất
43
trắc, nguy hiểm của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh " súng ngửi
trời" là một nhân hóa táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến
leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy
được nét tinh nghịch khỏe khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường
hành quân vất vả, mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến. Phép đối " ngàn thước lên
cao - ngàn thước xuống" càng nhấn mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập
trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây. Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên
bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ trên con đường hành quân của chiến
sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng " Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi", vần mở "ơi" đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây
nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những đỉnh núi, thưởng thức chút
bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt, thấy mưa rừng giăng mờ
nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu, sự êm
đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ
trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.

Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu
những mất mát hi sinh:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Cách nói tránh về cái chết "không bước nữa", "bỏ quên đời" gợi tư thế ngạo nghễ
của người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như
một giấc ngủ mà thôi. Tư thế hi sinh " gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng
thật hào hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp
trong "Dáng đứng Việt Nam" : " Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh
phun theo lửa đạn cầu vồng". Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng
chân dung người lính Tây Tiến. Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách
của núi rừng miền Tây:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".

44
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian" chiều chiều", "đêm
đêm" kết hợp với biện pháp nhân hóa " thác gầm thét", " cọp trêu người" đã nhấn
mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội,hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập
đe dọa người lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng
trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian. Hai câu
thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ
nồi cơm của các cô gái Thái. Từ cảm thán "Nhớ ôi" đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi
nhớ da diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về
đồng bào miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây
quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó là những giây phút ấm áp
ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách
kết hợp từ "mùa em" rất độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô
gái Thái vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Hai câu thơ kết
thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm
dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.

Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh
những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên
sông nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người
lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề
mãi gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.

Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng
khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu
nhạc điệu, gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về
cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ
thơ mộng miền Tây. Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết
của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây
Tiến - một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
45
Khổ 2
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên
nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi
pháp truyền thống: "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc". Một miền Tây thơ
mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu
cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

"Bừng lên" vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng
sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ
câu thơ đầu. Hai cụm từ "bừng lên" "hội đuốc hoa" thể hiện sự tinh tế trong việc sử
dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất
lãng mạn. "Bừng lên" vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.

"Hội đuốc hoa" đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh
rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc
lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa
đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên
tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy "em" xuất hiện.
"Em" xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

"Kìa em" lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón
mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp
rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng
đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các
thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không
thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với
vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm
nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp.

46
Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây
Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân
tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội
hào hoa. Từ "man điệu" mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người
đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa u Lạc. Vũ khúc ấy
hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban
đầu là "em" tiếp đến là "nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận
được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí
mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp
cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và
cảnh.

Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ
mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang,
huyền ảo:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực
của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như
một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm
màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài
nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động
đầy sức cuốn hút.

Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ
hoang dại như một bờ tiền sử. "Hồn lau" những cây lau không còn vô tri vô giác
mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới
cảm nhận được hồn lau đang giăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy
làm nền cho người thơ xuất hiện:

47
Có nhớ dáng người trên độc mộc

Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc
thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây
ngất đắm say trước cảnh và người, ở đây cảnh như làm duyên với người.

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm
duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái
nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi
mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên
thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho
tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm
ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá
Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Khổ 3
Có người từng nói "Thơ chỉ tràn ra khi trong ta cuộc sống đã tràn đầy". Thật đúng
là như vậy! Chiến tranh đã đi qua, hòa bình lặp lại vậy mà ở vùng Tây Bắc ấy lại
khơi gợi cho Quang Dũng một nỗi nhớ da diết khôn nguôi, phải chăng nơi đây đã
đọng lại trong tác giả nhiều kỷ niệm? Chính vì nỗi nhớ ấy đã thổi hồn cho ông viết
nên bài thơ Tây Tiến. Người lính Tây Tiến qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên
thật nhiều khó khăn, gian nan, ta có thể thấy được qua khổ thơ cuối:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
48
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài vừa viết văn vừa làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc.
Thơ ông phóng khoáng, lãng mạn-tài hoa. Bài thơ Tây Tiến được sáng tác ở Phù
Lưu Chanh năm 1948 khi ông chuyển sang hoạt động ở đơn vị khác và nhớ về đơn
vị cũ. Tuy đã chuyển hoạt động sang ở nơi khác nhưng những hình ảnh về vùng
đất, con người nơi cũ vẫn luôn thường trực trong sâu thẳm tâm trí ông. Tây Tiến
lúc mới ra đời đã bị cấm lưu hành, qua thời gian nét độc đáo, sáng tạo, cái hay
trong thơ hiện rõ chính vì vậy mà nó được đưa vào sách giáo khoa ngày nay.

Điều kiện thời tiết vùng Tây Bắc rất khắc nghiệt, nó ảnh hưởng trực tiếp đến người
lính hành quân nơi đây:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm

"Không mọc tóc" có thể hiểu là thời tiết ảnh hưởng, bị sốt rét làm đau đớn thân xác
người lính. Tác giả nói "không mọc tóc" chứ không phải "không mọc được tóc"
chứng tỏ nó được coi như các người lính cạo trọc đầu để dễ dàng cho việc chiến
đấu, chứ không phải do bệnh tật để giảm đi sự đau thương đối với người đọc.
"Quân xanh màu lá", nếu sự thật trần trụi là do bệnh sốt rét gây nên thì Quang
Dũng lại cho rằng đó là màu xanh của lá cây hóa thân cho người lính để giặc khó
nhận ra.Tuy khó khăn chồng chất, bệnh tật liên miên, nhưng qua lăng kính của tác
giả, đoàn binh hiện lên với sự yêu đời, không quản gian nan.

Cho dù chịu nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nó không làm cho người lính Tây
Tiến người đi tình cảm lãng mạn của mình. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả nét đẹp
cũng như sự mạnh mẽ của con người:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Dù ngày đêm đánh giặc nhưng tâm hồn của những người lính luôn trong trạng thái
mộng mơ. Cái mộng họ gửi qua biên giới, nơi vẫn còn đầy bóng giặc thù, đó là cái
49
mộng giết giặc để lập công danh. "Mắt trừng" gợi sự mạnh mẽ, đầy nội lực, quyết
tâm vì dân tộc, ở đâu đó trong họ vẫn luôn tồn tại một nỗi căm thù giặc sâu sắc.
Đoàn binh Tây Tiến chủ yếu là học sinh, sinh viên người Hà Nội- là thủ đô văn
hiến, là cả trái tim của Tổ quốc chính vì thế họ lấy đó làm động lực chiến đấu.
"Dáng kiều thơm" chính là nét đẹp thanh lịch, thướt tha của con gái Hà Nội, cũng
là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nét đẹp của quê hương đã thúc giục người
lính phải chiến đấu, đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ từng nét đẹp nơi họ sống.
Đó là động lực lớn để tinh thần chiến đấu thêm mạnh mẽ. Hình ảnh dáng kiều
thơm là vầng sáng lung linh trong kí ức nhưng cũng là thứ giúp cho họ tìm được sự
cần bằng, tìm được sự thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân vất
vả.

Ra biên cương là chấp nhận đối mặt với hi sinh, biết đi là sẽ chết, vậy mà các anh
vẫn xung phong ra trận với hi vọng sẽ đem chiến thắng trở về:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Biết bao nhiêu anh hùng đã ngã xuống ở nơi biên cương. Chiến tranh nó luôn tồn
tại song song với chết chóc, tuy vậy tinh thần xung phong ra trận vẫn luôn sôi nổi.
Tuổi xuân là độ tuổi đẹp nhất, là thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người nhưng
các anh cũng đành gác lại để đặt nhiệm vụ Tổ quốc lên trên hết "Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh". Những tình cảm đôi lứa, những cái tôi vị kỉ đều gạt sang một
bên, những người chiến sĩ vẫn nối tiếp nhau tầng tầng lớp lớp lên đường, đi để bảo
vệ từng đồng lúa, mùa ngô, bảo vệ nhịp đập con tim của toàn dân tộc.

Tiếp nối âm hưởng bi tráng, hai câu thơ cuối đã tô đậm thêm sự mất mát hi sinh,
thể hiện cái chết cao đẹp, cái chết bất tử của người lính:

Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Quang Dũng dường như đã khóc khi viết đến dòng thơ này. Đây chính là cái chết
nhưng tác giả đã nói giảm nói tránh để giảm bớt sự đau thương mất mát cho người

50
ở lại. Thời gian chiến tranh là khoảng thời gian thiếu thốn, nghèo khổ của toàn dân
tộc ta. "Áo bào" thay "chiếu" vì người hi sinh quá nhiều, họ chỉ được quấn chiếc áo
bào trên vai để về với đất mẹ. Anh về với đất, nghĩa là anh đã thực hiện xong nghĩa
vụ quang vinh của mình và giờ đây anh hóa thân cho dáng hình xứ sở. Câu thơ
cuối miêu tả tiếng gầm của sông Mã như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những
người con yêu của giống nòi.

Bằng việc sử dụng những bút pháp nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn
dụ. Quang Dũng đã khắc họa lại một đoàn binh Tây Tiến với nhiều vẻ đẹp khác
nhau, họ đẹp về cả hình dáng, mạnh mẽ từ ánh mắt đến tính cách và cả sự hi sinh
cao cả. Tất cả vì lòng yêu Tổ quốc, mong muốn được sống trong hòa bình và hạnh
phúc, không tồn tại những đau thương mất mát. Đoạn thơ này có nhạc, có họa, vừa
bi hùng lại vừa kiêu hãnh. Những hình ảnh khắc họa đoàn quân Tây Tiến trở thành
một hoài niệm khó quên của một thời kì lịch sử hào hùng.
Khổ 4
Bài thơ “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Quang Dũng mà
người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ
là một nỗi nhớ. Qua nỗi nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ
dội hiện lên như một bức tranh hoành tráng. Và trong bài thơ, ông cũng không
quên lột tả trần trụi những gian khổ hi sinh của người lính Tây Tiến. Chỉ có điều
nó thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng trở
thành cái hùng tráng. Khổ cuối bài thơ cũng rất đặc sắc, gói gọn tình cảm của nhà
thơ vào những câu chữ:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Thật vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương tổ quốc.
Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình. Họ hàng ngày vẫn phải chiến đấu ác liệt với
kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm trở với những
căn bệnh sốt rét, đói nhưng họ vẫn oai nghiêm hùng dũng vượt lên trên tất cả. Họ
là bức tượng cho tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến quyết thắng. Trước khi lên
đường tham gia chiến đấu, họ chỉ là những cô cậu sinh viên Hà thành với tuổi đời
còn rất trẻ, họ có hoài bão ước mơ. Khi tổ quốc gọi, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất
51
cả lên đường cầm súng chiến đấu với tinh thần quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự
sống và cái chết mong manh như sợi chỉ có thể biến mất bất cứ lúc nào. Họ lên
đường chiến đấu, ra đi không hẹn ngày trở về. Họ trao mạng sống của mình cho Tổ
quốc - nơi đã sinh ra họ.

Ở nơi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó khăn,
nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc đèo hiểm trở, họ bỏ lại những bản
làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do hoàn cảnh
chiến đấu khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần
nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không có hồi kết. Vì vậy một tia hi vọng
trở về là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong vô vọng. Trong
bối cảnh lịch sử là cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự đơn sơ về vũ
khí của ta, sự nghèo nàn về vật chất khác nào lấy trứng chọi với đá. Vì vậy sự hi
sinh là không thể tránh khỏi. Họ phải vì nước quên thân vì dân phục vụ, hi sinh
tính mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu thế hệ trẻ cầm
súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”.

Họ cống hiến, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca hay phàn
nàn mà đó là bổn phận, là trách nhiệm nghĩa vụ của một người công dân yêu nước
nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ đã lột tả ý chí chiến
đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên phẩm chất yêu nước anh hùng của họ.Với nghệ
thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với giọng điệu chậm rãi nhẹ
nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm lặng mà cao cả của đoàn
quân Tây Tiến. Nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ để ông tiếp tục chắp bút tô vẽ
nên:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy


Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong năm. Đây cũng
là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân còn là mùa của đất nước. Nó
cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của người chiến sĩ đã một đi không trở lại. Họ mang theo
sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình lên đường hành quân chiến đấu. Tuy nhiên,
họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà vẫn còn lượn lờ sang
nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm thực hiện
lí tưởng đến cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của họ vẫn chiến đấu
52
tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng mang tính sử
thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Họ vẫn rong
ruổi chiến đấu trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy của mình. Phải chăng tình
yêu quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần vào máu thịt đến nhường nào
mới có thể bất diệt như vậy?

Tóm lại, với giọng điệu trữ tình đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như
những dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là
hình ảnh những người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ
trọn lời thề với quê hương tổ quốc. Họ là những con người đau thương nhưng
không bi lụy, tràn đầy niềm tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống
của tuổi trẻ. Tây Tiến xứng đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để
lại cho thế hệ sau.

Ai đặt tên cho dòng sông


Phân tích vẻ đẹp sông Hương học sinh giỏi
nHoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về thể loại
bút kí. Nét đặc sắc trong những sáng tác của ông chính là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình. Các tác phẩm của ông
còn là sự giao hòa nhuần nhuyễn giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa
chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, lịch sử,
văn hóa, địa lý,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc

53
tích, mê đắm và tài hoa của nhà văn. Chính lối văn phong ấy, ông đã
thổi hồn vào Ai đã đặt tên cho dòng sông?, làm cho tác phẩm trở thành
bài bút kí xuất sắc. Trong tác phẩm này, tác giả đã chép họa nên một
dòng sông Hương – một dòng sông đã đi vào thơ ca nghệ thuật như một
niềm cảm hứng bất tận đối với văn nhân, nghệ sĩ – với một dáng vẻ vô
cùng dịu dàng, quyến rũ khiến ai cũng phải mê đắm và vẻ đẹp của sông
Hương không chỉ được lột tả qua dáng vẻ bên ngoài mà còn là độ sâu
lắng của nét đẹp bên trong tâm hồn.

Khi phân tích vẻ đẹp sông Hương, ta thấy trong đoạn trích của bài bút kí
Ai đã đặt tên cho dòng sông, dưới sự am hiểu sâu sắc về địa lý, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã đem đến cho người đọc thấy được vẻ đẹp của cảnh
sắc thiên nhiên đa dạng, phong phú cùng sức quyến rũ của dòng sông
Hương. Cái đẹp của dòng sông được nhìn nhận trên vẻ đẹp cảnh quan
địa lý của xứ Huế và ngược lại vẻ xinh đẹp của thiên nhiên hai bên bờ
sông cũng được dòng sông nâng đỡ làm nổi bật.

Sông Hương chảy qua ba đoạn lớn: chảy giữa lòng Trường Sơn, vào
ngoại vi thành phố và chảy đến giữa lòng thành phố để lúc này đây dòng
Hương Giang đã in bóng cái vẻ đẹp tuyệt mỹ của kinh thành Phú Xuân
rồi lưu luyến khi chảy ra ngoài thành về hạ nguồn.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ thấy không gian của núi rừng Trường
Sơn đã góp phần làm cho hình ảnh sông Hương trở nên xinh đẹp. Để
làm rõ điều này, tác giả đã đưa vào bài bút kí ba hình ảnh so sánh đặc
biệt ấn tượng. Trước hết, sông Hương “đã là một bản trường ca của rừng
già” – một hình ảnh so sánh hết sức độc lạ cho thấy cá tính của tác giả
trong việc liên tưởng phong phú.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương để thấy dòng sông này mang cái chất hào
hùng, nằm giữa lòng Trường Sơn với bộ mặt hùng vĩ vừa hùng tráng
cũng rất đỗi trữ tình. Trong cái nhịp chảy của sông Hương “rầm rộ giữa

54
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua từng ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn
lốc vào những đáy vực bí ẩn”, tác giả đã sử dụng những động từ mạnh
để nhấn mạnh sự hùng tráng của dòng sông.

Nhưng bên cạnh đó, dòng Hương Giang cũng chẳng kém phần trữ tình
thơ mộng khi thả mình qua “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”. Ngay lúc này đây, sông Hương “trở nên dịu dàng và say
đắm”, mang thêm cho mình một diện mạo khác hẳn giữa rừng núi
Trường Sơn đại ngàn, hùng vĩ.

Cả dòng sông tồn tại như một sinh thể mang những nét tính cách đối lập
nhau nhưng cũng rất hài hòa tạo nên vẻ đẹp phong phú đa dạng, mang
lại một sức sống mãnh liệt cho dòng Hương Giang ở thượng nguồn.
Chưa dừng lại ở đó, cảm thấy vẫn chưa lột tả được hết vẻ đẹp, tính cách
của dòng sông Hương, tác giả đã sử dụng thêm một hình ảnh so sánh
đầy sáng tạo “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một
cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Với hình ảnh so sánh này làm
cho độc giả liên tưởng đến những cô gái du mục với những vũ khúc tình
tứ cháy bỏng làm say đắm lòng người.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ thấy dưới ngòi bút so sánh của nhà văn,
dòng sông trở nên có cá tính và tâm hồn tự do, trong sáng. Chính vẻ đẹp
của cấu trúc rừng núi thượng nguồn đã chế ngự sức mạnh bản năng của
cô gái phóng khoáng ấy, để khi ra khỏi rừng, sông Hương dưới ngòi bút
của tác giả trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”,
mang một vẻ đẹp dịu dàng đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ
Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cố đô bằng những dòng
phù sa ngọt ngào.

Bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, nhà văn đã biến sông Hương –
một cảnh quan của thiên nhiên vốn vô tri vô giác nay đã trở thành một
sinh thể có cảm xúc, có cá tính, biết hy sinh như một người thực thụ, để

55
lại cho độc giả những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Việc Hoàng Phủ Ngọc
Tường tìm đến tận vùng thượng nguồn của dòng sông nơi núi rừng
Trường Sơn cho thấy được sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng,
đồng thời thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, quá trình lao
động nghệ thuật công phu và khó nhọc của tác giả.

Hết phần chảy giữa Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương bắt đầu một giai
đoạn mới trong cuộc đời của mình ở vùng ngoại vi kinh thành Huế, đi
qua “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, hết sức lãng mạn, hết sức thi vị,
mang vẻ đẹp của “người gái đẹp”, trong cảm nhận của nhà văn cô gái ấy
đang nằm ngủ mơ màng, đợi người tình mong đợi đến và đánh thức.

Hành trình về xuôi, hành trình chảy ra cửa biển Thuận An của sông
Hương giờ đây giống như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và
đầy đam mê. Đây là hành trình của những người yêu nhau, tìm về với
nhau, là hành trình của nàng công chúa đi tìm hoàng tử trong mơ của
mình.

Dòng sông mang trong mình đầy đủ những sức sống mới, những vóc
dáng mới, chuyển dòng một cách liên tục “vòng giữa những khúc quanh
đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Khi phân tích vẻ
đẹp sông Hương, ta thấy tác giả ngằm nhìn dòng sông mà liên tưởng đến
“người gái đẹp” đang phô ra những đường cong quyến rũ đầy hấp dẫn
của mình. Đây là dòng liên tưởng đầy sáng tạo và mạnh mẽ của nhà văn.

Sông Hương khi đi qua vùng Châu Hóa không chỉ mang vẻ đẹp mềm
mại quyến rũ của người con gái mà còn mang nhiều vẻ đẹp rất đa dạng
và phong phú khác. Rồi dòng sông đi qua những ngọn đồi, mặt nước
phản quang thành những màu rực rỡ “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
thật kì thú, làm cho dòng Hương Giang như bức tranh nhiệm màu.

56
Khi đi qua những lăng tẩm, sông Hương lại trở nên trầm mặc, tạo cho
độc giả có cảm giác như dòng sông đang chiêm nghiệm, thành kính suy
nghĩ về lịch sử của những ông hoàng bà chúa xưa kia đã từng huy hoàng
như thế nào.

Và rồi, sông Hương bỗng bừng sáng hơn khi nghe thấy âm thanh thành
phố. Nhà văn thật tài tình khi sáng tác ra những hình ảnh độc đáo “chiếc
cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vầng trăng
non”, rồi thì “dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của
tình yêu” như tiếng lòng thẹn thùng, bẽn lẽn của cô gái Huế trong tình
yêu đầu đời.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương sẽ nhận thấy tác giả so sánh sông Hương
như một “mặt hồ yên tĩnh”, “điệu nhảy lặng lờ của nó ngang qua thành
phố” – những câu văn mang theo âm nhạc chậm chạp hòa vào lòng
người đọc, du dương, mềm mại, một sự liên tưởng hết sức thú vị “sông
Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô”, “mỗi phiến băng chở một con
hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với những chiếc
thuyền xinh đẹp của chúng”.

Tác giả như muốn hóa mình thành con chim hải âu trôi nhanh ra biển
trên chiếc thuyền thủy tinh ấy, rồi cuối cùng chẳng kịp nói lời tạm biệt
với lũ bạn trên bờ tàu vì trôi nhanh quá. Thế, tác giả mới thấm thía nhớ
thương về sông Hương và “chợt thấy quý cái điệu nhảy chảy lặng lờ của
nó khi đi qua thành phố”.

Với lối viết sinh động sáng tạo, nhà văn đã khoác lên mình Hương
Giang diện mạo của một “nàng thơ xứ Huế” vừa cá tính, vừa e ấp, đắm
mình trong tình yêu cùng chàng trai Huế đầy mộng mơ.

Phân tích vẻ đẹp sông Hương để thấy dòng sông này càng đẹp hơn khi
được soi chiếu và trở thành một phần của lịch sử nước nhà. Hơn thế nữa,
57
sông Hương còn là nhân chứng cho lịch sử biết bao thăng trầm hưng
thịnh của cố đô Huế “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, những
dấu ấn, những sự kiện không bao giờ có thể lãng quên của dân tộc Việt
Nam đều được sông Hương chứng kiến và ghi lòng tạc dạ.

Dòng sông trải qua biết bao đau thương của chiến tranh nhưng khi hòa
bình lập lại dòng sông cũng nhanh chóng thay đổi trở về vẻ dịu dàng vốn
có. Sông Hương chính là biểu tượng đẹp đẽ nhất xây dựng cho Huế một
hình ảnh đẹp thơ mộng. Một vẻ đẹp lặng lờ, ẩn sâu trong đó từ lâu
nhưng nó chưa bao giờ già cỗi, nó vẫn mang trong mình nhiệt huyết yêu
đương của cô gái đang độ xuân thì.

Rời khỏi kinh thành, sông Hương lưu luyến không muốn rời xa “đột
ngột đổi dòng, rồi rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần
cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.” Bên cạnh đó, “là nỗi vấn vương, là
cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, và giống như nàng Kiều trong
đêm tình tự…”

Bằng nghệ thuật nhân hóa sinh động, nhà văn đã cho độc giả thấy được
tình cảm của sông Hương đối với Huế, như người tình dịu dàng, chung
thủy của xứ Huế đầy thơ mộng, trữ tình. Từ đây, khi phân tích vẻ đẹp
sông Hương, độc giả thấy được sự quan tế tinh tế cùng với vốn từ ngữ
phong phú cùng với sự tài hoa uyên bác trên mỗi trang viết của tác giả
trong việc khắc họa vẻ đẹp của sông Hương vô cùng độc đáo.

Bằng óc sáng tạo, liên tưởng tài tình, sự quan sát tỉ mỉ, sự am hiểu tinh
tường về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế, pha vào đó là sự
thành thạo, điêu luyện trong việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật đặc
sắc như so sánh, nhân hóa, tác giả đã cho độc giả thấy được vẻ đẹp của
sông Hương mang những bộ mặt khác nhau ở mỗi vùng đất mà nó chảy
qua.

58
Với những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết về mọi
mặt cùng với văn chương tao nhã, hướng nội và tài hoa, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã cho ra đời một tác phẩm bút kí đặc sắc, một bức tranh
Huế và sông Hương tuyệt đẹp – vẻ đẹp gần gũi, thiêng liêng nhưng rất
dịu êm.

Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến những phát hiện
mới lạ và độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Sông Hương,
một dòng sông mang dại ở khúc thượng nguồn. Sông Hương, trở nên dịu
dàng và say đắm, thủy chung khi gặp được người tình của mình là xứ
Huế đầy thơ mộng trữ tình. Sông Hương đi vào trang viết của Hoàng
Phủ Ngọc Tường không đơn thuần là một cảnh quan thiên nhiên vô tri
vô giác mà nó còn chứa đựng trong tâm hồn đầy rẫy cung bậc cảm xúc
và tình yêu

59

You might also like