You are on page 1of 4

[TRÙM CUỐI] - CẢNH ĐẸP SÔNG ĐÀ - ĐÔI BỜ SÔNG!

[Đoạn trích QUAN TRỌNG]: Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi
qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao
ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm
chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt
mà như hỏi tôi bằng các tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông
cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng
như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải
Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa
quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để
lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của
người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con
đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.
(Trích tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân)
Phân tích hình tượng sông Đà trữ tình trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về ngòi bút tài hoa
của nhà văn Nguyễn Tuân.
DÀN Ý CHI TIẾT:
Yêu cầu chính: Hình tượng sông Đà (cảnh đẹp đôi bờ sông)
Luận điểm 1: Vẻ tĩnh lặng nhưng lại tràn đầy sức sống của bãi bờ sông Đà.
+ “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.”
+ “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm.”
+ “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.”
+ “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu.”
Luận điểm 2: Cuộc đối thoại giả định giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ.
+ “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”.
+ Đánh thức cuộc đối thoại: Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi.
Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.
Luận điểm 3: Cuộc hội ngộ giữa Nguyễn Tuân và người bạn vong niên Tản Đà:
+ Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” trong
thư “người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà).
+ Vật cũng nhớ những hòn đá thác xa xôi trên đoạn thượng nguồn.
Yêu cầu phụ: Nhận xét ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.
- Nguyễn Tuân là nhà văn của núi cao, thác dữ, dốc đèo hiểm trở; là nhà văn của cảm giác dữ dội,
của cái phi thường nhưng khi ông đặt bút viết về cái trữ tình, thơ mộng cũng không kém phần ấn
tượng và đặc sắc.
- Văn Nguyễn Tuân là sự hiện thân cho cái đẹp, cho sự hoàn mĩ; văn giàu hình ảnh và gợi cảm;
giàu liên tưởng so sánh mới mẻ, độc đáo.
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Mở bài
“Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Thi sĩ Tản Đà đã không ngần ngại ngân lên những câu thơ đầy sự ngợi ca, thán phục trước vẻ đẹp
tình tứ của dòng sông bắt nước cho truyền thuyết dân gian “Sơn Tinh, Thủy Tinh” ấy. Và có lẽ,
thật đặc biệt hơn khi ở điểm giao thoa giữa khúc thượng lưu và hạ lưu sông Đà, ta lại cùng
Nguyễn Tuân gặp gỡ người bạn tri âm tri kỷ của mình - Tản Đà để cùng hòa mình vào cảnh đẹp
của một “bờ tiền sử”. Cái dáng vẻ thướt tha, trữ tình, thơ mộng của dòng sông ấy một lần nữa
được bút lực của Nguyễn Tuân ngợi ca trong “Người lái đò Sông Đà”.
Giới thiệu sâu về tác giả: Nhà văn Pautopxki từng quan niệm: “Niềm vui của nhà văn chân
chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Và Nguyễn Tuân chính là một
nhà văn như thế! Ông là nhà văn suốt đời mộng mị trong giấc mơ của vẻ đẹp trần gian, một nhà
văn nói như Thạch Lam “suốt đời đi tìm cái đẹp”, và cũng chính ông đã “coi cái đẹp như tôn giáo
của mình” (Trần Đình Sử). Hầu hết các sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng đều là thế
giới nhân vật của người nghệ sĩ; của những con người thuộc về “vang bóng một thời”, hoặc sống
trong hiện tại nhưng cũng bơ vơ, lạc lõng như những kẻ “sinh nhầm thế kỉ”. Với ông đó mới là
những con người xứng đáng để hạ bút, tô vẽ và tái sinh trên trang giấy. Thế nhưng sau Cách
mạng, ngòi bút của Nguyễn Tuân lại tập trung tiếp cận thế giới trên phương diện văn hóa nghệ
thuật, tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật chính của những trang viết này
là tập thể đại chúng, nhân dân, chị dân quân, anh bộ đội. Ông tìm về cái đẹp ở những người phi
thường với những công việc bình thường như hình ảnh ông lái đò trong “Người lái đò Sông Đà”.
Với tùy bút “Người lái đò Sông Đà” Nguyễn Tuân lại say mê vẻ đẹp độc đáo của con người và
cuộc sống Tây Bắc. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc xa xôi năm 1958 được in trong
tập “Sông Đà”(1960). Ham thích xê dịch, luôn tìm kiếm khám phá những vẻ đẹp độc đáo của
thiên nhiên và cuộc sống, Nguyễn Tuân đã bắt gặp sông Đà như một người bạn “tình khơi chữ
nảy bút”. Tất cả những vẻ đẹp độc đáo, cuốn hút của sông Đà được Nguyễn Tuân phơi bày,
phóng bút kỳ công và tỉ mỉ. Nguyễn Tuân đã dày công “tỉ mẩn” tô đậm sông Đà với vẻ đẹp trữ
tình và thơ mộng của nó. Mỗi lần đến với dòng sông này bước chân Nguyễn Tuân như bị níu giữ
bởi cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, con sông Tây Bắc duyên dáng mà tình tứ quá!
Phần thân
1. Yêu cầu chính: Phân tích đoạn trích
Đoạn dẫn: Dòng Đà giang cứ ngỡ như đã hút trọn mắt người đọc bằng dáng vẻ hùng vĩ, dữ dội,
hiểm ác từ những dòng văn đầu tiên. Song có lẽ ta càng say mê hơn vẻ đẹp trữ tình của nó khi
Nguyễn Tuân dùng những hình ảnh dịu dàng, trong sáng nhất để miêu tả về cảnh đẹp đôi bờ sông
Đà. Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân “lai láng chất thơ” chắp cánh cho vẻ đẹp của dòng
sông bay lên từng câu chữ, bằng cái nhìn và tình cảm của một con người coi sông Đà như một
“cố nhân”.
Luận điểm 1: Cảnh đẹp tĩnh lặng đôi bờ sông
Vẻ đẹp của dòng sông Đà được toát lên từ không gian tĩnh lặng. Với bàn tay tài hoa của bậc thầy
ngôn ngữ Nguyễn Tuân, cảnh đôi bờ sông đã được miêu tả hiện lên thật ấn tượng. Người đọc như
lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của một “bờ tiền sử”. Câu văn “thuyền tôi trôi trên Sông Đà”
được gieo lên bởi toàn thanh bằng, kết tạo nên không gian như trải dài tới vô tận. Dòng sông Đà
tạo cho ta cảm giác yên ả, thanh bình và tĩnh lặng, dường như nó đã đụng đến vùng cảm xúc sâu
kín nhất của tâm hồn con người. Khẽ lay tâm hồn theo dòng sông, “người thợ hoàn kim của câu
chữ” đã dẫn dắt chúng ta đi sâu vào “lớp trầm tích” được phủ kín bởi vẻ đẹp nhẹ nhàng ấy - vẻ
đẹp của lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê
quãng sông này cũng lặng lẽ như tờ đến thế mà thôi”. Cái tĩnh lặng vốn có của dòng sông này đã
khơi dậy ta trở về với quá khứ, nơi hội tụ kết tinh vẻ đẹp của lịch sử ngàn đời. Không liên tưởng
bằng cảm xúc dồi dào, nhưng Nguyễn Tuân lại gợi cho chúng ta một thứ cảm xúc thật khác lạ
đến từ vẻ đẹp mộng mơ, huyền ảo, hồn nhiên, hoang dã của sông Đà: “Bờ sông hoang dại như
một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nguyễn Tuân là nhà văn của
“cái dữ dội”, của cái phi thường, thế nhưng đến với cảnh thơ mộng hay tình tứ cũng khó là “thách
thức” với ông. Nguyễn Tuân đã có một cách nói thật độc đáo khi so sánh sự yên tĩnh của bờ bãi
sông Đà. Một cách viết rất riêng của Nguyễn Tuân. Bởi Nguyễn Tuân chưa bao giờ, và ít khi “cụ
thể hóa” một hình ảnh liên tưởng nào trong văn của mình. Tất cả những hình ảnh Nguyễn Tuân
đưa ra đều là những hình ảnh mang tính “trừu tượng hóa” và buộc người đọc phải tưởng tượng và
vận động theo ngòi bút của ông. Vậy nên, Nguyễn Tuân đã không ngần ngại khi nhân hóa dòng
sông Đà như một sinh thể sống động, đầy man dại và phóng khoáng, so sánh dòng sông ấy như
một điều thiêng liêng và kì bí.
Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là tìm đến sự tìm tòi, sáng tạo. Bởi vì, “nhà văn là
người sáng tạo lại thế giới”. Đi tìm “thứ vàng mười” của màu sắc sông núi, bờ sông Đà được
nguyễn Tuân khai phá nổi bật lên vẻ đẹp của những thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng
như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, người nghệ sĩ ấy đã phát hiện và vẽ
nên một vẻ đẹp đầy sức sống: “Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không
một bóng người. Cổ gianh đồi núi đang ra những nón búp”. Cảnh tượng đó còn đẫm sương đêm,
một vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất họa. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng
lẫy; thiên nhiên như một bức tranh của một danh họa thời cổ, nhưng là cổ của một miền “cổ tích”.
Cảnh sắc như nâng tâm hồn con người lạc vào chốn tiên du. Nguyễn Tuân đã thi triển triệt để các
giác quan để tạo nên một khối quan sát tinh tường, lý thú cuốn hút bất cứ ai khi đọc những câu
văn viết về cảnh đẹp bờ bãi sông Đà. Chất thơ trong văn Nguyễn Tuân, có lẽ cũng toát lên từ điển
tích ấy. Nó gợi lên vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc - nơi khơi nguồn cho tình yêu đất nước.
Trong cái đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ, Nguyễn Tuân đã mài giũa cho câu văn mình một cá
tính đặc biệt, giàu nhạc tính và trở trên gợi cảm hơn bao giờ hết. Dòng Đà giang trở thành một
linh hồn riêng, chất chứa những trầm tích về văn hóa, là sự hòa quyện giữa niên đại thời gian,
dòng chảy lịch sử cùng với nét đẹp huyền bí của nó. Chỉ bằng một câu văn, Nguyễn Tuân đã đủ
sức dệt nên một bức tranh thủy mặc, ống kính của nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình, thơ
mộng của dòng sông Đà với cảnh sắc ven sông đẹp như trong huyền thoại, cổ tích. Để rồi, thèm
giật mình khỏi đi lạc vào miền cổ tích ấy: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi
xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu”.
Luận điểm 2: Cuộc nói chuyện với con hươu thơ ngộ
Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ
lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng
nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng
còi sương?”. “Tiếng còi sương” xuất hiện ở đây vụt lên ngân vang như một khát vọng, khát vọng
đánh thức mình ra khỏi miền cổ tích đấy để cho mình biết đang tồn tại ở cõi thực chứ không phải
là một giấc chiêm bao,... Những câu văn vừa cổ kính, vừa hiện đại nó chất chứa những hơi thở
của cuộc đời, của con người phả vào nhịp đập của cuộc sống.
Bức tranh sông Đà ở quãng trung lưu đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng khiến bất ai cũng phải ngắm
nhìn và thảng thốt trước vẻ đẹp mê say, nồng nàn, ý vị của nó. Nguyễn Tuân đã đưa ta chạm đến
ranh giới giữa thực và mơ, mơ và thực. Nhà văn đã khéo léo tạc được một giấc mơ ngay giữa ban
ngày để rồi sau đó như sực tỉnh với tiếng của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng
như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cũng là giây
phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kì sống động. Bút pháp lấy động tả tĩnh đã được
vận dụng hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng cá quẫy cũng đủ khiến ta phải giật
mình. Nhưng điều đặc biệt là dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đi cùng với phẳng
lặng, đơn điệu mà luôn hàm chứa bất ngờ, không ngừng biến hóa.
Luận điểm 3. Cuộc hội ngộ người bạn tri âm – Tản Đà
Giữa lúc đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên, Nguyễn Tuân lại cất thơ Tản Đà – người bạn tâm
giao, tri âm, tri kỷ của ông. Có lẽ, chất “Nho giáo” trong Nguyễn Tuân dù có thay đổi trong đối
tượng hay nhân vật của mình thì “sự đổ bóng” ấy vẫn luôn rõ nét như vậy. Với những người tri
âm, họ luôn biết cách nhớ về nhau và vịnh thơ theo một cách riêng. Cho nên, vào giây phút “có
cảnh, có tình” thì không thể nào thiếu “bạn hiền” nên Nguyễn Tuân đã nhớ đến “bạn hiền” của
mình bằng hai câu thơ: “Dải Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” trong “Thơ
trách người tình nhân chưa quen biết” của thi sĩ Tản Đà. Và có lẽ, chính nguồn cảm xúc nhớ
thương ấy, đã in vào cảm xúc của dòng sông quãng này, khi nó lững lờ nhớ thương “những hòn
đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Và con sông như đang “lắng nghe những giọng
nói êm êm của người xuôi, và trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con
đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Dường như cảnh nào vật nào được “ngòi bút
như thần viết” của Nguyễn Tuân gõ đến cũng đều cựa quậy không ngừng, không chịu ép mình
xuống trang giấy mà sống động trên từng câu chữ. Bởi chúng tài tình quá!
2. Yêu cầu phụ: đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Với tài nghệ của “bậc thầy ngôn ngữ” Nguyễn Tuân đã bày ra trước mắt chúng ta một bữa tiệc
ngôn từ thịnh soạn, sự giàu có về ngôn ngữ đã lấp đầy cả những vực sâu hun hút, đưa sông Đà lên
trên vẻ đẹp kì vĩ. Đọc “Người lái đò sông Đà” ta cảm nhận được hơi thở phập phồng của Nguyễn
Tuân để rồi thấy thứ ngôn ngữ “nóng nảy sự sống”. Sức nóng ấy tỏa ra xung quanh, nung đốt và
tỏa sáng lên vẻ đẹp của con người trong hành trình vượt thác. Để rồi hôm nay người đọc chúng ta
có một sông Đà để thương để nhớ, để yêu, để chiêm nghiệm và say đắm. Dòng sông in dấu đậm
nét cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân. Lê Đạt từng khẳng định “Mỗi người có một loại vân tay
mỗi nghệ sĩ chân chính đều có một thứ vân chữ không trộn lẫn”. Thứ vân chữ mà Nguyễn Tuân
xây dựng nên “giàu có và đặc sắc về giá trị tạo hình”. Trước hết, nó biểu hiện một cảm quan thẩm
mĩ độc đáo trong cách nhìn và quan sát sự vật, sự tỉ mỉ và chi tiết làm cho người ta có cảnh giác
sự vật đang sống dậy từ những trang văn bước ra cuộc đời. Độc đáo thôi chưa đủ, vốn hiểu biết
sâu rộng mới là chìa khóa để Nguyễn Tuân khai thác chất xám trong bộ não của chính mình.
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt các tri thức liên ngành từ quân sự, âm nhạc đến thể thao, hội
họa tạo nên một môn nghệ thuật thứ bảy lung linh dưới ánh hào quang chiếu sáng chói lọi.
Nguyễn Tuân xứng đáng là “Người thầy kim hoàn của chữ” hay chính là “ca sĩ của vẻ đẹp tinh
khôi tuyệt đỉnh của tạo hóa”.
Đánh giá nghệ thuật: Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ mềm mại, du
dương như nét vẽ thanh nhẹ với những biến ảo không ngừng. Nguyễn Tuân đã dựng lên cả “Một
thế giới sống, một thế giới biết nói”. Và có lẽ, chính từ những dòng văn ấy phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân đã được khắc tạc rõ ràng trong những câu văn đầy tinh tế. Dưới ngòi bút dạt
dào chất thơ, chất họa vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh kỳ thú như
những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào trong thế giới của thần tiên, cổ
tích, thơ mộng cảnh vừa hoang sơ, cổ kính vừa thơ mộng trữ tình, tĩnh lặng và yên ả nhưng ẩn
chứa sức sống tươi non, một mạch chảy mãnh liệt không bao giờ vơi cạn. Nguyễn Tuân đã làm ta
say trong thế giới ngôn từ đầy sắc màu rực rỡ của câu chữ sống động, vẻ đẹp của con người được.
Kết bài: Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Đà giang dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã trở nên
gắn bó, quyện hòa với dáng hình đất nước. Dòng sông ấy là dòng sông giữa đời, giữa thiên nhiên
bao la rộng lớn, được xây dựng, vun đắp nên từ một tấm lòng trần gian. “Người lái đò sông Đà”
chính là một giai phẩm đặc sắc bậc nhất mà Nguyễn Tuân đã tô điểm cho văn học Việt Nam -
một nét vẽ độc đáo, mới lạ nhưng cũng không kém sự hấp dẫn và lưu luyến! Và chúng ta sẽ nhớ
về sông Đà – một dòng sông đầy bí ẩn!

You might also like