You are on page 1of 61

ĐỀ: “thuyền tôi trôi trên sông đà…dòng trên”

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con Tàu

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Tây Bắc từ lâu đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ thuật,
bởi vùng núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các nhà văn, nhà
thơ có được những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn Huy Tưởng đã có
cho mình cuốn tiểu thuyết "Bốn năm sau", Tô Hoài ghi dấu ấn với VCAP, Nguyễn
Khải viết nên "Mùa lạc" thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập
"Tùy bút Sông Đà" mà linh hồn là bài kí "Người lái đò Sông Đà". Thưởng thức bài
kí, người đọc không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp trữ tình của Đà giang, mà tiêu biểu
là đoạn trích miêu tả dòng sông với vẻ đẹp hoang sơ, bình lặng nhưng cũng đầy
tươi mới.
Leonid Leonov từng nhận định: "Một tác phẩm phải là một phát minh về hình
thức, một khám phá về nội dung." Thật vậy, đối với riêng NLĐSĐ, bên cạnh vẻ
đẹp hùng vĩ của con sông, ở một góc độ khác, NT đã phát hiện ra chất trữ tình, thơ
mộng của dòng sông này, đó cũng là chất men say cho cuộc sống của con người
Tây Bắc. Rời khỏi thượng nguồn, xuôi về hạ lưu, Sông Đà để lại sau lưng bao
nhiêu cảnh đá uy nghi, nhiều ghềnh sông rợn ngợp, nhiều hút nước sâu thẳm,
những thác đá cuồng nộ, ngòi bút tài hoa của NT đã đưa người đọc đến với dòng
sông Đà êm đềm như một giấc mơ và dịu hiền như một miền cổ tích. 

LD1: Sau những chuyến bay nhìn xuống Đà giang bâng khuâng dõi theo dáng hình
của nó, sau những ngày dài ở rừng đi núi "thèm chỗ thoáng", khi gặp lại con sông
thấy "đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân", thấy "vui như thấy nắng giòn tan sau
kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng", Nguyễn Tuân sử dụng điểm
nhìn nghệ thuật độc đáo. ông theo con đò trôi dòng để tận hưởng vẻ đẹp của phần
trung lưu sông Đà
Câu văn "Thuyền tôi trôi trên SĐ" mở đầu đoạn trích bằng một hình ảnh gợi ra vẻ
nhẹ nhàng, êm ái. Câu văn ngắn gồm 6 âm tiết đều là thanh bằng tạo nên không
gian nghệ thuật như ru khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du. Phép lặp "thuyền
tôi trôi" trùng điệp như một điểm nhấn của cảm xúc, lan tỏa, bâng khuâng bởi
"cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Mặt khác, nó cũng cho thấy Nguyễn Tuân là người
ưa những điều mới lạ và muốn khám phá một cách tường tận vẻ đẹp của dòng sông
Đà. Nhà văn muốn quan sát và miêu tả dòng sông Đà từ nhiều điểm nhìn khác
nhau nên nếu ở đoạn văn trước đó, ông cảm nhận vẻ trữ tình thơ mộng của dòng
sông từ điểm nhìn trên cao là từ tàu bay nhìn xuống, hay cái nhìn gần hơn là khi đi
từ rừng ra bắt gặp sông Đà thì ở đoạn văn này, điểm nhìn còn gần hơn nữa là ngồi
trên con thuyền trôi chầm chậm trên sông để quan sát và miêu tả về dòng sông mà
ông thương nhớ như cố nhân.

LD2: Ngay từ đầu đoạn trích, Nguyễn Tuân đã gieo vào tâm trí người đọc về vẻ
đẹp ấn tượng của sông Đà ở dọc đôi bờ sông. Không dữ dội như quãng ở thượng
nguồn, cảnh vật thiên nhiên sông Đà ở đây thật tĩnh lặng và hoang sơ

- “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi". Nguyễn Tuân đã đưa con thuyền và cả người đọc lạc vào thế giới
cổ tích, thế giới của tiền sử, lạc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, thanh bình,
một cõi hoang sơ, vắng lặng như chưa từng có dấu vết của con người.
+ Tính từ "lặng tờ" lặp lại hai lần để nhấn mạnh tuyệt đối từ đời Lí đời Trần
đời Lê, quãng sông này không thể lặng tờ hơn được nữa. Sự hướng nội này
càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ, hồng hoang của đôi bờ sông Đà như còn
đó dấu tích của thời gian, của hồn thiêng sông núi.
+ Cái tĩnh lặng vốn có của dòng sông đã khơi dậy trong ta trở về với quá
khứ, nơi hội tụ kết tinh vẻ đẹp của lịch sử ngàn đời. Phải chăng, nhà văn
đang chìm trong hoài niệm, mạch cảm xúc đang ngược về thời tiền sử của
dân tộc, đang sông trong một miền cổ tích thanh bình.
+ Cái "lặng tờ" của Đà giang trong văn NT gợi nhắc chúng ta đến nét chấm
phá bình lặng, đơn sơ trong thơ cổ mà Hồ Xuân Hương miêu tả Tràng giang:

Xanh um cổ thụ tròn xoe tán


Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
- Cảnh vật bờ bãi sông Đà không chỉ tĩnh lặng mà còn hoang sơ đến lạ kỳ. Sự
tĩnh lặng, hoang sơ của dòng sông hiện lên rõ nét hơn qua các nét phác họa
“tịnh không một bóng người”, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”:
+ Người ta so sánh để cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân so sánh không
làm hiện hữu hinh ảnh của bờ sông mà để thơ mộng hóa, trừu tượng hóa của
cảnh vật, để kích thích, mở rộng trí tưởng tượng, làm nổi bật vẻ đẹp hồn
nhiên, trong sáng, nguyên thủy của buổi sơ khai như chưa có sự định hình
của thời gian.
+ Từ hình ảnh hữu hình là bờ sông mà gợi nên bao cái vô hình là "bờ tiền
sử", là "nỗi niềm cổ tích tuổi xưa" đem lại cho SĐ vẻ đẹp lung linh huyền ảo
tồn tại như một vĩnh hằng của tự nhiên, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm
xúc, để cảm nhận rõ hơn sự lặng tờ của một dòng sông trong trẻo, êm đêm,
để đẩy dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng ảo, phiêu du trong cõi hồng
hoang, trong thế giới cổ tích huyễn hoặc của tuổi thơ.
+ Hai câu văn mà giống như hai vế của một câu song quan trong một bài phú
lưu thủy, nó chứa đựng cả những rung cảm và hoài niệm đẹp đẽ. Đó là cách
mà Nguyễn Tuân tìm vẻ đẹp xưa trong cảnh vật hôm nay, cũng là biểu hiện
cho tình yêu của ông đối với non sông đất nước.
- Trong không gian u huyền ấy, bỗng nhà văn "thèm" một âm vang của thời
đại, "thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu
tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu". Đặt vào hoàn cảnh chưa có
chuyến tàu nào đi PT – YB – LC, câu văn như một tiếng reo náo nức của tác
giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc những năm 58- 60. Nhà văn khao
khát một ngày không xa, vùng đất hoang dại này cũng được đánh thức bởi
sự hiện diện của con người: Có đường xe lửa, có tiếng còi tan ca gọi sự
sống. Niềm khao khát này không chỉ là ước mơ hiện đại hóa miền TB mà
còn là cách giúp cho nhà văn nhận ra mình vẫn đang sống trong tự tại chứ
không phải đang lạc vào miền cổ tích êm đềm như thế. Nếu như ta từng trân
trọng cái "giật mình" thương thân của Thúy Kiều, cái "giật mình" vì hoài
nhớ khi nghe "văng vẳng tiếng ếch" của Tú Xương thì ở đây, ta lại nâng niu,
cảm mến biết bao cái cảm giác "giật mình" mà Nguyễn Tuân ao ước cho sự
đổi thay, phát triển của quê hương. Đó là niềm ước ao về diện mạo được đổi
mới của đất nước, giống như Chế Lan Viên đã từng viết:
"Tàu hãy vỗ dùm ta đôi cánh vội

Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga"

Hay như niềm hăng say, phấn khởi mà ta có thể bắt gặp trong thơ Tố Hữu:

Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát

Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non

Yêu biết mấy những con đường ca hát

Qua công trường mới dựng mái nhà son”


LD2: Không bằng lòng với cái đẹp nhợt nhạt, Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút
lực để phác họa bức tranh cảnh vật sông Đà, hệt như một người họa sĩ tài hoa. Thế
giới thiên nhiên Sông Đà qua sự miêu tả của ông thật sinh động, kỳ ảo, lý thú
nhưng cũng tràn đầy sức sống
- Không gian trong trẻo an lành đến mức nhà văn có ảo giác như đang lạc vào
miền cổ tích mà không biết mình đang ở thế giới thực tại, như một câu
chuyện huyền thoại xưa có một người chèo ngược dòng sông lạc vào chốn
thần tiên: "Nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi
dang ra những nõn búp, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương"
+ Dường như đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy,
nhưng thật ngạc nhiên "tịnh không một bóng người", chỉ có đồi gianh nối
tiếp nhau trùng điệp với những nõn búp.
+ Hình ảnh đàn hươu xuất hiện "cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm"
là một nét vẽ tài hoa khiến cho người đọc ấn tượng về một câu văn đầy chất
mĩ cảm.
- Sự êm đềm thấm đẫm vẻ tinh khôi, tràn trề nhựa sống như bắt đầu một mùa
nảy lộc sinh sôi càng làm tăng thêm ảo giác, nhà văn như trải lòng mình với
dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe con hươu thơ ngộ đang thủ thỉ:
"Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi
sương?" Một giả định vừa thực vừa mộng ảo, siêu thực mà lãng mạn. Cuộc
đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là một bài
thơ trữ tình kì diệu. Là một nét vẽ tài hoa, độc đáo, là một giấc mơ chập
chờn trong cái lặng tờ của ven sông. Cái khoảnh khắc giao cảm thần tiên ấy
đã lên đến đỉnh điểm. Con hươu thơ ngộ nhìn người mà ngơ ngác, người
nhìn đàn hươu mà lâng lâng chìm vào mộng tưởng. Không một tiếng động,
cả không gian trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu.
- Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau đó
sực tỉnh với tiếng động của "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng
trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến".
+ Phút sực tỉnh cũng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh vô cùng
sống động mà ai gặp một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mãi.
+ Bút pháp cổ điển lấy động tả cái tĩnh đã được nhà văn vận dụng đắc địa.
Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng cá quẫy cũng đủ khiến ta phải giật mình.
Phải chăng, đó là khoảng lặng trong tâm hồn NT để hứng lấy những thanh
âm nên thơ của sự sống đang cựa mình mạnh mẽ? Tuy nhiên, dưới ngòi bút
của nhà văn tài hoa, uyên bác, cái tĩnh không đồng nghĩa với sự phẳng lặng,
đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ.
+ Nghệ thuật hội họa giúp ta không chỉ thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng
cá mà còn nghe tiếng cá quẫy nước rộn ràng vang ngân. Thêm vào đó, hình
ảnh so sánh: "Bụng trắng như bạc rơi thoi" cũng gợi ra câu thành ngữ của
người VN "rừng vàng biển bạc". Và phải chăng, đó cũng là cách mà nhà văn
ngợi ca vẻ đẹp, sự giàu có của non sông gấm vóc?
 Những hình ảnh mong manh, nhỏ bé chỉ có thể nhận ra trong một không
gian trong lành, nguyên sơ, thuần khiết như thức dậy phần non tơ nhất của
hồn người. Mỗi câu văn "đẫm sương" ấy là một nét vẽ diệu kì nhất, đặc biệt
là cỏ. Người ta thường nói "ngọn cỏ, sóng cỏ" nhưng nói "áng cỏ" thì chỉ có
Nguyễn Tuân. Với cách nói đó, nhà văn đã đưa ngọn cỏ mộc mạc lên khía
cạnh thơ nhất, đẹp nhất, trở thành một kiệt tác của thiên nhiên, của đất trời
ban tặng. Dường như NT đã lắng lòng thả hồn mình vào vạn vật để yêu mến,
nâng niu, để thấu hết cái cựa mình của sự sống lên hương, cái không khí cổ
tích trầm lắng thanh bình của cảnh vật.
Đến đây, ta chợt nhận ra, Nguyễn Tuân khi viết về Đà giang đã đứng bên bờ
tuổi ngũ tuần, thế nhưng trong cõi lòng vị nghệ sĩ già lại nảy lộc bên một
dòng sông non tơ e ấp. Nhà giáo Đỗ Kim Hồi khi nhận định về bài kí của
NT đã từng viết rằng, “trong mỗi nhà văn lớn lại có một đứa trẻ thơ vẫn giữ
được cái cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn thường để cằn cỗi
trên đường đời khó nhọc. Có lẽ chính vì thế nên Nguyễn Tuân mới có thể lột
tả hết cái sức sống mới mẻ của dòng sông nguyên thủy này. Nếu như vẻ đẹp
hung bạo mang dáng dấp hiện đại khỏe khoắn, với sự vận dụng những kiến
thức của nhiều lĩnh vực khác nhau như điện ảnh, võ thuật, quân sự.. thì ở
đây, cái trữ tình lại đến với người đọc bằng vẻ đẹp cổ điển và nguyên thủy,
cùng những câu văn lắng sâu, truyền cảm như áng thơ, mang lại cảm giác
như đang thưởng thức một bức họa bằng văn xuôi. Với bức tranh thủy mặc
tuyệt vời này, chúng ta phải ghi thêm tên Nguyễn Tuân vào làng nghệ thuật
hội họa.
LD3: Con sông Đà còn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình, giàu chất thơ ở phần
trung lưu:
- Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn dùng đến cả thơ của một nhà thơ lãng mạn vào
hàng bậc nhất của thơ ca VN đầu thế kỉ XX, nhà thơ quê hương núi Tản,
Sông Đà để diễn tả vẻ trữ tình của con sông, để đưa người đọc đắm chìm
trong thế giới cổ điển, để được nhấp thứ men say nồng nàn của chất thơ tình
lãng mạn bồi lên từ dòng sông: "Dải sông đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu
cảnh bấy nhiêu tình" của "một tình nhân chưa quen biết" (Tản Đà).
+ Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân khẳng
định sự tồn tại của một sinh thể có hồn, một "cố nhân". Phải chăng, có cảnh
đẹp mà thiếu bạn hiền thì cái yêu hoa, thưởng nguyệt đã giảm đi ít nhiều nhã
thú. Cho nên, đọc thơ bạn, ngâm thơ bạn trong lúc này, NT xem như bạn
đang cùng mình ngồi trên thuyền trôi trên dải sông Đà mà tâm tình, thưởng
ngoạn. Đó là tài tử, tài hoa, là tri âm, tri kỉ.
+ Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn bỗng dậy nên hơi thở nồng ấm,
quấn quýt của tình người, tình yêu, càng về cuối càng dư ba. Bức tranh sông
Đà thật sống động, cảnh thiên nhiên được mở rộng vừa bằng vẻ đẹp hiện
thực của nó, vừa bằng tình yêu của nhà văn tài hoa đang say đắm, mê mải
với Sông Đà.
- Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm
nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn cảm thấy nó “như
nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
+ Dòng sông vẫn “lững lờ” êm trôi “như đang lắng nghe những giọng nói
êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng
trên”, “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “Con đò đuôi én thắt mình dây cổ
điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân.
+ Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh
vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một
tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đằm thắm nồng hậu, một cái lắng
nghe trìu mến yêu thương. NT như đang nhập thân vào dòng sông để "nhớ
thương" những âm vang, những nhịp sống ấm áp của cuộc đời, "lắng nghe
những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò
mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ
điển trên dòng trên". Dường như cảnh vật nào được "ngòi bút như thần viết"
của NT gõ lên đến đều cựa quậy không ngừng, đều không chịu khép mình
trên trang giấy mà sống động trên từng câu chữ.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa đất trời TB và có một sông Đà
trong văn NT chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội
phần. Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà
Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp - vẻ đẹp thơ mộng - của Đà Giang. Tuy vậy, ta
vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Đọc đoạn văn, người
đọc như cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ
trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn Tuân say mê ngắm cảnh đẹp của hương
núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ cùa dòng sông
“dải sông Đà bọt nước lênh bênh...”.
(Nghệ thuật) Không chỉ đặc sắc về nội dung mà đoạn văn còn là một sự thành công
ở phương diện nghệ thuật. Nhà văn đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so
sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ phong phú,
sống động, giàu giá trị tạo hình và có sức gợi cảm cao, nhịp văn chậm rãi, trữ tình,
mênh mang dư vị của hương nguồn hoa núi, mà nói như Phan Huy Đông thì đó là
"sự tự do của một tài năng, một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ"
Có thể ví văn Nguyễn Tuân như giọt mật của con ong cần mẫn và miệt mài sáng
tạo để mang cho đời những trang văn thơm thảo. Xây dựng thành công hình tượng
sđ còn nhờ vào vốn sống, vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều lĩnh vực
như hội họa, lịch sử, địa lý. Vì thế mà con Sông Đà vốn vô tri, dưới ngòi bút của
nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng, từ đó, ta có thể ví tùy bút
này như công trình nghệ thuật tuyệt mĩ in đậm phong cách Nguyễn Tuân.

Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết
nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau
hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những
câu hỏi đó”. Và quả thực tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một
tác phẩm như thế! Trong suốt quá trình dài của thời gian, “Người lái đò Sông Đà”
của Nguyễn Tuân vẫn luôn vẹn nguyên và sống mãi trong lòng người đọc về một
tác phẩm cũng như một nhà văn đa tài đã làm tôn lên vẻ đẹp của thiên nhiên của xứ
xở Tây Bắc nói riêng và thiên nhiên đất nước nói chung. Nguyễn Tuân là nhà văn
có một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề.
Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý
này.

Đề: "Hùng vĩ của sông Đà.. cái gậy đánh phèn"

"Dù ong phải bay ngàn cánh bay mới giọt mật

Hay tằm giam mình tại chỗ nhả ra tơ

Trong sáng tạo, chúng ở đầu hai cực

Nào con nào đã được nhởn nhơ.."

Thơ bình phương - Đời lập phương - Chế Lan Viên

Thật vậy, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Và lao động nghệ thuật
chưa bao giờ là dễ dàng: Thầm lặng. Chán nản. Đơn độc. Vất vả. Giằng xé. Mỗi
một tác phẩm chân chính ra đời là sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ, là
kếtquả của quá trình dấn thân, nhập cuộc, tích lũy, một quá trình cọ xát dữ dội của
người nghệ sĩ. Và Nguyễn Tuân cũng không nằm ngoài điều đó. Ông đã viết nên
tập "Sông Đà" mà linh hồn của nó chính là tùy bút "Người lái đò sông Đà".
Thưởng thức bài kí, độc giả không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo của
dòng sông, từ đó, ta thấy được cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà và
cái Tôi của nhà văn:
"Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. [..] truyền cảm lại cho người xem
phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá
rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn."

Nhà văn Thạch Lam từng nói: "Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ
không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc một
bài học trông nhìn và thưởng thức". Sông Đà đẹp, "độc bắc lưu" đã lọt vào cảm
giác nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Đến với dòng sông đặc biệt này, NT đã không
quản ngại công phu để quan sát kĩ càng, ghi lại sự hung bạo, dữ dằn cũng như vẻ
đẹp trữ tình thơ mộng của dòng sông trên nhiều vẻ. Tuy nhiên, nhà văn không làm
công việc của một nhà địa lí, địa chất học mà đã biến con sông của miền TB thành
một hình tượng sống động, một đối tượng thẩm mĩ hoàn chỉnh. Không phải ngẫu
nhiên NT viết hoa hai chữ SĐ trái với quy tắc thông thường. Ông không nói SĐ
khơi nguồn mà nói "khai sinh", không nói chảy vào lãnh hổ mà nói "xin nhập quốc
tịch", không nói SĐ trải rộng ra lưu vực mà dùng cách diễn đạt "trưởng thành mãi
lên".. Đằng sau cách viêt ấy là cả một tấm lòng yêu mến, tự hào về con sông đất
Việt. Nghệ thuật nhân hóa khiến SĐ hiện lên không còn là một dòng chảy vô tri
mà như một con người có lai lịch, có tên gọi, có cá tính, tâm trạng.. SĐ đã trở
thành một hình tượng chính của thiên tùy bút với hai nét tính cách: Hùng vĩ và thơ
mộng. Đoạn văn bản nằm ở phần đầu tác phẩm, miêu tả vẻ đẹp hung vĩ, dữ dội của
sông Đà qua diện mạo cảnh "đá bờ sông", "ghềnh đá", "hút nước".

LD1: Trước hết, hình tượng sông Đà được nhà văn khắc họa qua những quan sát
cảnh bờ sông "dựng vách thành":
- Nhận xét đầu tiên của nhà văn về dòng sông Đà ở đây là "Hùng vĩ của sông
Đà không phải chỉ có những thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời". 
+ Câu văn đã khẳng định sông Đà là dòng sông hùng vĩ và hẳn là vẻ hùng vĩ
ấy được thể hiện rõ nhất ở những thác đá trên sông. Nhưng hùng vĩ của sông
Đà không chỉ có thế mà còn thể hiện rõ qua cảnh đá bờ sông dựng vách
thành, những ghềnh sông, hút nước được miêu tả trong đoạn trích.
+ Sông Đà ở quãng này chảy qua vùng rừng núi Tây Bắc và hình ảnh "vách
thành" đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và sức mạnh bí ẩn
đầy đe dọa của những vách núi bên bờ sông Đà.
+ Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại
có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá. Chẳng
hạn, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời . Những vách đá
dựng đứng khiến ánh sáng mặt trời ở đây chỉ có vào lúc giữa trưa, tức là khi
mặt trời chiếu sáng theo phương thẳng đứng mới có thể lọt xuống dòng
sông.
- Tác giả còn phát huy cao độ trí tưởng tượng để gợi tả độ hẹp của dòng sông:
“Có vách đá chẹt lòng sông Đà…tắt phụt đèn điện.”
+ cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động
từ "chẹt" cùng với việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách 
+  “Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” đã đem
đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông với lưu tốc
nước chảy mạnh khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở. Nguyễn Tuân là nhà
văn của những cảm giác mạnh và ông thường miêu tả thế giới sự vật thông
qua cảm giác.
+ Bằng cảm giác của xúc giác nhà văn miêu tả ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh . Ấn tượng của thị giác được thể
hiện khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền
cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con
thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình
ảnh so sánh về “một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt
đèn điện” .

=> Như vậy bằng một đoạn văn ngắn, chỉ có sáu câu văn, nhà văn Nguyễn
Tuân đã người đọc trở về với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Trong
sáu câu văn ấy có đến 3 câu kết thúc bằng thanh trắc gợi cảm giác về độ cao
của bờ đá, tốc độ của dòng nước và độ lạnh của hơi nước Sông Đà. Với tài
quan sát và trí tưởng tượng độc đáo, Nguyễn Tuân đã để lại ấn tượng khó
phai về cảnh bờ đá bên sông.

LD2: Không chỉ hung vĩ ở cảnh đá bờ sông, hình tượng sông Đà còn được
miểu tả ở mặt ghềnh Hát Lóong:
- Dòng sông Đà lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca
dao:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
Nhà văn Nguyễn Tuân trong tác phẩm có thể kể vanh vách hơn bảy mươi cái
thác trên sông Đà. Đáng chú ý, ở quãng Hát Loóng có những ghềnh sông mà
cảnh tượng của nó rất dữ dội “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài
hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm..”
+ Thông qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, những ghềnh sông ấy không chỉ
dữ dội mà còn đầy nguy hiểm. Để miêu tả mặt ghềnh Hát Lóong nhà văn đã
dùng câu văn dài với nhiều vế câu, nó dài như mặt ghềnh.
+ Đã vậy, tác giả còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật điệp từ nước, đá, sóng
cộng với điệp ngữ và sự hỗ trợ liên tiếp của các thanh trắc (24/46 thanh) đã
tạo nên âm điệu dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy vừa
hợp sức của gió, của sóng và đã khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên sùng
sục cuồn cuộn chảy dữ dằn.
+ Chính sự kết hợp ấy đã tạo ra mối nguy hiểm thường trực đối với bất cứ
người lái đò nào đi ngang qua ghềnh sông như thế. Bởi chỉ cần khinh suất
tay lái là con thuyền bị lật ngửa thuyền ra. Đoạn văn miêu tả ghềnh Hát
Loong rất ngắn, chỉ có hai câu tương đương với bốn dòng, Nguyễn Tuân đã
làm sống dậy cả một mặt ghềnh dài nhất, dữ dội nhất.
+ Ở đoạn văn này tác giả còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa "đòi nợ
xuýt" để nhấn mạnh tính cách hung hăng, côn đồ của ghềnh Hát Loong. Qua
từ "nợ xuýt", nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ,
độc đáo vì nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng
mạng sống của con người.

=> Qua đoạn văn, Chúng ta thấy Nguyễn Tuân xứng đáng là bậc thầy của
ngôn từ. Khi cần ông huy động cả một đội quân ngôn từ hùng hậu nhưng có
khi ông chỉ sử dụng một tiểu đội đặc công tinh nhuệ cũng khiến con Sông
Đà hiện nguyên hình là một thuồng luồng thủy quái, là mối nguy hiểm
thường trực đối với ông lái đò. Đó chính là vẻ đẹp tài hoa, bản lĩnh đáng
khâm phục của một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo.

LD3: Sự hung bạo của con Sông Đà còn được thể hiện ở những cái hút nước
chết người:
- "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống để chuẩn bị làm
móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút
xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Với trí liên tưởng
bất ngờ, nhà văn Nguyễn Tuân đã giúp người đọc cảm nhận dược sự ghê
gớm, độc ác của cái hút nước, nó như huyệt mộ được đào sẵn ở dưới lòng
sông để chôn vùi những con thuyền nào đi qua đây.
+ Hàng loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước hiện ra khi
mang hình hài của một “cái giếng bê tông” xoay tít, khi trong âm thanh của
một “cái cống bị sặc”, khi là hình ảnh và âm thanh khi mặt bị “rót dầu sôi”.
+ Ngoài ra, các từ láy tượng hình “lừ lừ”, tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc”
cùng những chi tiết so sánh kết hợp nhân hoá “thở và kêu như cửa cống bị
sặc”…tất cả góp phần làm hiện ra hình ảnh và âm thanh của hút nước như
một con quái vật đang trong cơn giận dữ cuồng loạn sẵn sàng gieo chết chóc
cho con người. Nên không phải ngẫu nhiên mà NT lại điểm vào chi tiết
những cánh quạ đàn quay lừ lừ. Chẳng phải đó là hình ảnh gơij lệ sự chết
chóc hay sao?
- Sự nguy hiểm của hút nước sda khiến “không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông,
y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn
cạp ra người bờ vực”. Giữa chốn núi rừng hoang sơ, NT đã thổi vào không
khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô, đoạn sông có những cái
hút nước với quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. từ đó khẳng định
những cái hút nước này chính là mối đe doạ mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải
thật điêu luyện, thật bình tĩnh nhưng nhanh chóng mới có thể “thoats chết”
khi đi ngang qua đây.
- Sức mạnh ấy còn có thể "lôi tuột những cái thuyền ghênh ngang đi qua,
thuyền trồng cây chuối ngược ngược rồi vụt biến bị dìm và đi ngầm dưới
lòng sông, mươi phút sau thì tan xác ở khuỷnh sông dưới".
+ Bằng những quan sát tỉ mỉ, tinh tường, kết hợp cách dùng hangf loạt động
từ “lôi”, “hút”, “dìm”, “đi ngầm”, “tan xác”.,,,NT đã diễn tả hình ảnh chiếc
thuyền bị hút nước nuốt chửng một cách đáng sợ
+ Rõ ràng, hút nước trên Sông Đà giống như một con thuồng luồng, thủy
quái lúc thì như một cài vòi rồng trong trận cuồng phong, khi thì như cái cối
xay thịt khổng lồ giữa núi rừng Tây Bắc. Sức mạnh của nó thật ghê gớm có
thể nghiền nát bất cứ con thuyền nào trong khoảng thời gian sớm nhất.
- Với việc sử dụng kiến thức của lĩnh vực giao thông vận tải, điện ảnh để tô
đậm mức độ khủng khiếp của cái hút nước, nhà văn Nguyễn Tuân đã tưởng
tượng ra một anh chàng quay phim táo bạo nào đó muốn truyền cho người
xem một cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào chiếc thuyền thúng tròn vành rồi
cả người và cả máy xuống cái hút nước ấy mà quay ngược lên. Nếu xem
những thước phim ấy mọi người phải phải lên gân để giữ chặt chiếc ghế.
Với sự liên tưởng độc đáo, nhà văn Nguyễn Tuân đa tiên phong xây dựng
thước phim 3D rất sống động có một không hai trong lịch sử văn học.
- Sự miêu tar như thế cũng đã kì thú lắm, nhưng vẫn còn chưa khiến ta phải
thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của nguyễn tuân như trong câu cuối
đoạn trích: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến…gậy đánh phèn”:
+ Không chỉ dừng lại trong những liên tưởng, tượng tượng về cái bè gỗ hay
một con thuyền bất hạnh nào đó phải lamf mồi cho hút nuốc, nguyễn tuyân
còn tạo ra một giả tưởng ly kỳ đưa người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ
xuống tận đát hút nước xoay tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim taos
tợn.
+ Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, khi nhà văn hình
dung đến cảnh quay của người nghệ sĩ quay phim ấy khi anh dũng cảm ngồi
trên cuieecs thuyền thả mình vào hút nước rồi hất ngược ống quay lên gni lại
những thước phim sống động mà rụng rợn. thước phim chân thật từng chi
tiết, từ hình khối của “một thành giếng xây toàn bằng nước” cho đến màu
sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cảm giác sợ hãi của
con người khi phải đứng trong lòng một “khối pha lê xanh như săpx vỡ tan”,
bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người

=> Nếu như miêu tả cảnh bờ đá bên sông và ghềnh Hát Loong nhà văn
Nguyễn Tuân rất kiệm lời thì khi miêu tả hút nước Sông Đà ông đã huy
động vốn hiểu biết phong phú, vốn kiến thức ở nhiều lĩnh vực cùng đội quân
ngôn từ hùng hậu để miêu tả tận cùng sự dữ dội của hút nước Sông Đà. Với
việc sử dụng phép so sánh nhiều lần: Như cái giếng bê tông.. như cửa cống
cái bị sắc, lừ lừ như những cánh quạ đàn, như ô tô sang ga nhấn số, như rót
dầu sôi vào, như một cốc nước pha lê khổng lồ.. chính sự so sánh ấy giúp
cho câu văn thêm gợi hình, gợi cảm để người đọc hình dung sự dữ dằn của
cái hút nước đã trở thành một thử thách không nhỏ đới với ông lái đò.

NT từng viết: “Giàu ngôn nhữ thì văn sẽ hay. Cingx cùng một vốn ngôn ngữ
ấy nhưng sử dụng có sáng tạp thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà
không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ cảu. Dùng chữ như đánh cờ tướng,
chữu naò để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không
linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp”. Với 1 quan niệm nghệ thuâth như
thế, NT đã mang dđến một áng văn bề thế và độc đáo, sắc sảo và uyên bác.
Một áng văn chỉn cho, trau chuốt đến từng câu chữ. Đoạn văn trên chính là
minh chứng cho quan điểm “khắt khe” của NT về nghệ thuật, cũng là thành
quả ngọt ngào của quá tình” rèn chữ” khổ luyện công phu. Bằng thể tùy bút
phóng túng, vốn kiến thức phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực, tác giả đã
khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương,
kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như giao thông, âm nhạc, hội họa,
điện ảnh, đầy ấn tượng; Sự quan sát tỉ mỉ, sự liên tưởng, tưởng tượng phong
phú, ngôn ngữ tài hoa, điêu luyện giàu chất thơ, chất nhạc, chất tạo hình;
Cách sử dụng nghệ thuật khắc họa hình tượng tự nhiên, những ví von, so
sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị; Từ ngữ phong
phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao; Câu văn đa dạng,
nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ
tình.. tác giả đã biến con sông đà từ vô tri vô giác thành con sông có những
nét cá tính riêng biệt mà không con sông nào có.
Qua đoạn trích trên, ta cũng thấy được những phát hiện về dòng sông Đà của
nhà văn Nguyễn Tuân. Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng
lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà
nhằm làm nổi bật sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ
đẹp hùng vĩ, hoang sơ của thiên nhiên, đất nước. Qua cái nhìn của Nguyễn
Tuân, Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh
hồn, có cá tính như con người: Hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ. Sông Đà hiện lên
như một công trình kiến trúc tuyệt vời mà tạo hóa dành riêng cho mảnh đất
Tây Bắc. Nó còn như một sinh thể có hồn, gần gũi, gắn bó với đất và người
nơi đây. Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha
thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác
phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa.

"Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo". Những tác phẩm đạt đến chuẩn mực của
cái hay cái đẹp sẽ "vượt qua mọi sự bang hoại của thời gian" để sống mãi trong
lòng bạn đọc. Cũng như dù thời gian có chảy trôi nhưng giá trị tác phẩm "Người lái
đò sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân vẫn nguyên vẹn và tỏa sáng.

"Riêng những câu thơ còn xanh

Riêng những đôi mắt còn xanh

Và đôi mắt em long lanh

Như hai giếng nước."

Thời gian - Văn Cao

Đề: “Còn xa lắm…tiến gần vào”


Có một Đà Giang đã từng chảy qua trang thơ của Quang Lâm:
“ Sông chảy qua, lòng vang lên lời hát
Dòng Đà giang là lạ gió vùng cao”
(Nhớ sông Đà)
Đó cũng là con sông gợi thương gợi nhớ trong thơ Trần Quang Quý:
“ Sông Đà dâng lên những quả đồi đất đỏ trung du
Tôi ôm dòng sông nghe giai điệu bè trầm ngàn xưa kể chuyện
Gác lên sông những lườn cong nhớ
Môi phù sa khép bóng hoàng hôn
Mãi khuấy trong tôi nhịp những con thuyền”
(sông Đà)
Như vậy, sông Đà không phải lần đầu tiên đi vào thơ văn. Nhưng qua cảm nhận
của mỗi người nghệ sĩ, sda lại được khám phá với những góc nhìn riêng, vẻ đẹp
riêng. Bởi lẽ “thế giới không phải đượ tạo lập một lần mà mỗi một lần người nghệ
sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập”, nên cũng là dòng sông ấy,
qua trang văn tài hoa uyên bác của ntuan, sda hiện lên như một công trình mỹ thuật
tuyệt vời cuar tạo hoá với hai vẻ đẹp ấn tượng: hùng vĩ, dữ dội và đămf thắm, trữ
tình. Con sông của tạo hoá vốn đã độc lạ, con sông chảy qua trang văn nguyễn tuân
còn độc lạ gấp nhiều lần. với “nldsd”, ngòi bút nguyễn tuân như “tung hoành sàng
khoái giữa dòng thác cuồn cuộn của ngôn từ, buộc ngôn từ dựng lên ghềnh thác,
buộc nhịp điệu dựng lên con gió” khiến cho sự hung baọ dữ dằn của sda khúc
thượng nguồn hiện lên thật sống động và truyền cảm. Đoạn văn “còn xa lắm mới…
vụt tới” là minh chứng sinh động cho điều đó.
Qua những trang văn của người nghệ sĩ, bạn đọc biết đến khai sinh của dòng sông
để biết sông Đà ở huyện Canh Đông – tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) lấy tên gọi ban
đầu là Ly Tiên, khi đi qua một vùng núi Ác đến nửa đường thì xin nhập quốc tịch
Việt Nam, trưởng thành mãi lên đến ngã ba Trung Hà thì nhập vào với sông Hồng.
Có thể thấy rằng, tuy không phải là một nhà địa lí học, nhưng tất cả kiến thức
Nguyễn Tuân đem đến cho ta qua trang văn của mình đều là những kiến thức bổ
ích và có giá trị nghiên cứu cao. Bên cạnh đó, ông còn phát hiện ra một đặc điểm
của con sông này và thể hiện nó đầy đủ trên trang viết qua lời đề từ: "Chúng thủy
giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu" có ý nghĩa là mọi dòng sông đều đổ theo
hướng Đông, duy chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Chi tiết ấy cho ta thấy sự
khác biệt của dòng sông này, nó rất phù hợp với tạng văn, tạng người của Nguyễn
Tuân. Từ trước đến nay, khi viết về các dòng sông các nhà văn nhà thơ thường ca
ngợi vẻ đẹp trữ tình, hiền hòa, thơ mộng. Cũng có một số nhà văn, nhà thơ miêu tả
cảnh dữ dội, hiểm trở, trùng trùng lớp lớp của những khúc đại giang, của những
cảnh thác ghềnh dữ dội như "Bạch đằng giang phú" của Trương Hán Siêu, "Bạch
đằng Hải khẩu" của Nguyễn Trãi.. Nhưng có lẽ chỉ đến "Người lái đò sông Đà" của
Nguyễn Tuân thì sự hiểm trở, hung bạo và dữ dội của con sông mới trở nên sống
động và thật khủng khiếp. Trong đoạn văn này, bậc kì tài về mặt ngôn ngữ Nguyễn
Tuân khi miêu tả những thác đá trên sông Đà đã làm nổi bật lên hình ảnh con sông
Đà không chỉ gập ghềnh, lởm chởm mà còn đầy nguy hiểm, sống dậy gào thét làm
náo động cả lên, khiến cho người đọc phải "rùng mình, sởn gáy" (Nguyễn Đăng
Mạnh). 

LD1: Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những
ghềnh sông, hút nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là
những thác đá:
- Sự hung bạo của con Sông Đà được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả qua tiếng
thác nước “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo
gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
+ Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng một hệ thống
từ ngữ phong phú, truyền cảm. Cùng với nghệ thuật nhân hóa được sử dụng
một cách đắc địa, nhà văn đã truyền hồn sống cho dòng sông, biến thác nước
sông Đà thực sự trở thành một loài thủy quái đang giận dữ, gầm gào, đe dọa
con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Khi thì nhà văn nghe thấy nó như
"oán trách gì", rồi lại như là "van xin", khi lại thấy nó đang "khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo".. Nhà văn đã tung ra hàng loạt những ngôn từ sống
động để miêu tả âm thanh thác nước theo những cung bậc tăng dần của cảm
xúc giận dữ. Đó vừa là cách nhà văn nói đến khoảng cách rút ngắn dần khi
tiếp cận con sông, vừa là cách tạo ấn tượng về sự dữ dội của sông Đà và tăng
dần cảm giác hồi hộp, sợ hãi trong tâm trí người đọc
+ Tiếng thác nước đa thanh đa điệu của một tên lưu manh tiểu nhân bỉ ổi lúc
thế này lúc thế kia không có lập trường của một chính nhân quân tử "không
nói hai lời". Nghe tiếng thác nước như tiếng ma kêu quỷ khóc, tiếng của
những linh hồn oan khuất bị vùi lấp dưới lòng sông. Tiếng thác ấy vang
vọng vào vách đá, thấm sâu vào kẽ lá nó gợi lên sự huyên bí ghê rợn của
một chốn rừng thiêng nước độc. Có lẽ ai nghe tiếng thác ấy đêù thất thần sơ
hãi, ám ảnh khôn nguôi. Cũng giống như người lính Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng ám ảnh mãi bởi âm thanh tiếng thác nước:

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

Đặt hai thứ âm thanh ấy cạnh nhau, ta mới thấy tiếng thác nước Sông Đà ám
ảnh biết chừng nào.
- Tuy nhiên, đối với Nguyễn Tuân, những câu văn vừa phân tích trên chưa đủ
để diễn tả hết sự hung bạo dữ dội của thác nước Sông Đà nên ông đã phải
bồi thêm một hình ảnh liên tưởng so sánh rất độc đáo, bất ngờ khi ông nghe
thấy tiếng thác nước "rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng", một cảnh tượng dữ dội có một không
hai, một trí tưởng tượng kiệt xuất! Một câu văn so sánh thật độc đáo! Tất cả
những gì tài hoa, độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân có lẽ đã dồn tụ trong
câu văn trên: Âm thanh, hình ảnh của một cảnh hỗn loạn ghê gớm diễn ra
trước mắt người đọc tạo nên một cảnh tưởng kinh hoàng, ám ảnh khó quên.
Điều đặc biệt ở đây nhà văn đã lấy lửa để miêu tả nước thì quả thực là tài
tình và vi diệu, điều xưa nay chưa từng có.

-> Nói tóm lại, bằng một đoạn văn ngắn, nhà văn Nguyễn Tuân đã làm sống
dậy một không gian Tây Bắc hùng vĩ, dự dội, hiểm trở. Với câu văn giàu
chất tạo hình biểu cảm, giọng văn dồn dập, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc
cảm nhận đầy đủ nhất sự dữ dội của tiếng thác nước Sông Đà. Chắc chắn âm
thanh ấy sẽ còn ám ánh bạn đọc, còn vang vọng mãi trong không gian nghệ
thuật.
LD2: Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã "Tới
cái thác rồi". Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội.
- Khi cái thác hiện ra trước mắt, nhà văn như reo lên đầy ngờ ngàng, thích
thú: "Tới cái thác rồi" – cảm giác gặp lại sông Đà hệt như gặp lại "cố nhân"
vậy
- Ngoặt tới khúc sông ấy là cảnh “sóng bọt đã trắng cả một chân trời đá”.
+ Tính từ "trắng xóa" vừa chính xác vừa tạo hình gây ấn tượng về sự trào sôi
dữ dội của dàn giao hưởng của sóng, gió, bọt nước.. Đồng thời gợi tả điệp
trùng những con sóng trắng cuồn cuộn xô nhau trên mặt nước mênh mông
+ Cách nói phóng đại, khoa trương, mang đến cảm giác choáng ngợp về đá.
Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng xóa. Đá ở đây lớp lớp, miên man,
trùng điệp, lại ẩn hiện trong bọt sóng và chiếm lĩnh suốt chiều dài dòng sông
- Đá sông Đà trên trang văn Nguyễn Tuân hoàn toàn không phải sự vật vô tri:
"Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần
có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có
chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền"
+ Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và
vô cùng hiểm ác của đá trên lòng sông Đà. Đá ở đây được miêu tả trong thời
gian vĩnh hằng của thiên nhiên "ngàn năm", khi thì chúng ẩn mình "mai
phục", khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để "nhổm cả
dậy vồ lấy thuyền". Rõ ràng SĐ không chỉ dậy sóng, đầy gió trên mặt nước
mà SĐ vẫn muôn đời bí ẩn và hiểm ác trong lòng sông sâu. Có những tảng
đá gồ ghề, tác giả cảm thấy nó nhăn nhúm, nó méo mó, nó ngỗ ngược, có
những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt, có những hòn hất ngược lên như
đang hất hàm thách thức đối với người lái đò, có những hòn đá xanh chảy từ
trên xuôi xuống giống như là thằng đá tứ tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng.
Mỗi hòn một diện mạo, hòn nào trông cũng ngỗ ngược, dữ tợn, mang dáng
dấp của một tên côn đồ hung hãn, một lũ du côn của thiên nhiên hoang dại,
như kẻ trịch thượng và ngổ ngáo
+ Bằng nghệ thuật nhân hóa, chúng ta nhận ra từng sắc diện người trong
những hình thù của đá khiến cho chúng trở nên sống động, rõ nét, lạ lùng.
Chúng như một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm,
xảo quyệt. Sẵn sàng ăn tươi nuốt sống mọi con thuyền. NT đã tận dụng hết
sức mạnh điêu khắc của ngôn từ mà truyền sự sống cho từ thớ đá trên SĐ.
- Cái độc đáo trong tưởng tượng của Nguyễn Tuân là ông hình dung sông Đà
như giao việc cho từng hòn đá để sẵn sàng lật ngửa bụng bất cứ con thuyền
nào qua đây. Người đọc thực sự thấy thích thú khi chứng kiến sự "bày binh
bố trận" của những hòn đá "nhăn nhúm méo mó" kia. "Đám tảng, đám hòn
chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền". Mỗi trùng vi
được thần sông, thần dá thiết kế theo một sơ đồ riêng đầy cửa tử với những
boong-ke chìm, pháo đài nổi và luôn có ba lớp án ngữ: Có hàng tiền vệ, có
tuyến giữa, tuyến sau và mỗi tuyến lại có một nhiệm vụ khác nhau, cùng
phối hợp với nhau trong việc tấn công đối phương. Hàng tiền vệ có nhiệm
vụ canh cửa và dẫn dụ đối tượng vào sâu bên trong đến khi con thuyền của
đối phương lọt vào sâu bên trong thì tuyến 2 phải đánh khuýp quật vu hồi.
Nếu con thuyền du kích ấy vẫn lọt lưới khỏi tuyến 2 thì nhiệm vụ của tuyến
ba phải đánh tan con thuyền và tiêu diệt tất cả thuyền trưởng, thủy thủ dưới
chân thác. Có thể thấy, dưới ngòi bút NT, những hòn đá ấy trở thành những
binh sĩ được huấn luyện tinh nhuệ, lại thêm chiến thuật bài bản, sẵn sàng tấn
công mọi thuyền bè qua đó.
- Nguyễn Tuân đã đem kiến thức quân sự và võ thuật, thể thao để xây dựng
hình ảnh những tượng đá, quân đá ở SĐ. Đá phối hợp với thác dàn bày thạch
trận không chỉ hung dữ mà còn xảo quyệt, nhan hiểm – một trận chiến "thiên
la địa võng" giống như "bát trận đồ" của khổng minh theo binh pháp Tôn
Ngô mà NT soạn lại. Tất nhiên, trận đồ của Nguyễn Tuân không có Long xà
trận nhưng có thạch trận đủ cửa tử, cửa sinh, không đủ bát trận nhưng cũng
có trận nước, trận sau, trận trên, trận dưới, nhiều lớp, nhiều tuyến có tiên
phong, có dự bị.. Cả một tập hợp đá là một chuỗi những nguy hiểm rình rập
người lái đò. Tưởng tượng ông lái đò một mình lẻ loi trên con thuyền xuôi
ngược nếu không có được sức mạnh của chiến binh Héc-quyn thì ắt phải
giống như chiến thần Triệu Vân đơn độc mà oai phong phá vòng vây kẻ thù,
chỉ khác mặt trận của ông là muôn trùng sóng nước.

-> Có thể nói, bằng vốn kiến thức phong phú, sự tài hoa, uyên bác Nguyễn
Tuân đã sử dụng kiến thức ở nhiều lĩnh vực như giao thông, điện ảnh, quân
sự, võ thuật "mai phục", "chặn ngang", "canh", "đánh tan", "tiêu diệt", sóng:
"Đánh khuýp quật vu hồi", "đánh giáp lá cà", "đòn tỉa", "đòn âm".. làm hiện
lên hình tượng con Sông Đà dữ dội, hung bạo đến khủng khiếp. Con Sông
Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược, là một thứ thiên nhiên
Tây Bắc với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một". Con sông mà
"hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc
và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế mà
sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh:

“Núi cao sông hãy còn dài

Năm năm báo oán đời đời đánh ghen.”

Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, sự hùng vĩ của Đà giang đã hiện ra ở
nhiều dáng vẻ khác nhau khiến người đọc rùng mình, sởn gáy như đứng trước cảnh
thực. Tất cả đều toát lên sức mạnh kì bí của một đối tượng ẩn chứa nội lực phi
thường. Nó thực sự trở thành thử thách lớn đối với con người, nó chính là những
thử thách của thiên nhiên mà con người cần khám phá, chế ngự, chinh phục. Con
sông độc lạ ấy thật thích hợp với ngòi bút độc lạ của NT. Khi miêu tả con sông
hung bạo, đặc biệt là cảnh thác đá, NT không giấu được niềm ngưỡng mộ, say mê,
phấn khích đối với những hình ảnh, âm thanh, những hoạt động của dòng sông.
Đúng là NT đã in bản ngã của mình trên sóng nước Đà giang.

Sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, sử dụng tối ưu "phép
thuật" của nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm,
những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc.. đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên
một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là nước thác và thạch trận
đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng, gió và nước thác, đá sông Đà không im lìm
như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà sống động, dữ dằn, thét gào, ác hiểm khiến đá
sông Đà không chỉ lộ "diện mạo" mà cả "tâm địa" của "thứ kẻ thù số một" của con
người. Như vậy, với đoạn văn này nói riêng và bài tùy bút nói chung, Nguyễn
Tuân đã thành công trong việc lạ hóa thiên nhiên, làm cho sông Đà trở nên sống
động khác thường. Khám phá vẻ đẹp sông Đà trong trang văn Nguyễn Tuân, ta
không chỉ thêm yêu mến Nguyễn tuân ở tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước
mà còn thêm thấm thía chân lí nghệ thuật: "Thế giới không phải được tạo lập một
lần mà mỗi một lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo
lập" thêm lần nữa

Có lẽ chỉ ngày mai thôi, ta không còn gặp tác phẩm “nldsd” qua nét mực khô trên
những trang giấy hoen màu. Ta sẽ đọc và cảm nhận, bằng một hình thức khác,
trong một góc nhìn rất khác. Nhưng có hề chi khi những dòng viết ấy đã trở thành
bất tử dọc năm rộng tháng dài, đã trọn vẹn trong tâm khảm lớp lớp người trước ta
và mai sau, mai sau nữa...

TÂY TIẾN

Đoạn 1: 14 câu đầu

"Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật" (Bê-lin-xki). Qủa thật, văn
chương nói chung hay thơ ca nói riêng đều bắt nguồn từ cuộc đời mà chỉ khi nhà
thơ hoà mình vào hiện thực, thơ ca mới sống mãi với cuộc đời. Và trong thi phẩm
"Tây Tiến", Quang Dũng đã thổi vào ngôn từ niềm nhớ thương da diết mà qua đó,
những anh vệ quốc quân đã trở thành những tượng đài bất tử về người lính trong
thời kì kháng chiến chống Pháp. Với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, nhà thơ xứ
Đoài đã khác hoạ bức tranh về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên nền
thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây qua mười bốn câu đầu của bài thơ
“Tây Tiến”:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Cũng giống như văn học, thơ ca phản ánh cuộc sống qua chủ thể con
người nhưng không phải từ trí óc quan sát mà thơ gắn liền với cảm xúc của tác
giả hay như nhà văn Anatole France đã viết: “Đọc một câu thơ nghĩa là ta gặp gỡ
tâm hồn một con người." Cũng bởi vậy, khi đọc thơ của Quang Dũng, ta bắt gặp
một hồn thơ phóng khoáng tựa như một áng mây bồng bềnh giữa tháng năm
mang trong mình giấc mộng phiêu du. Quang Dũng là một nhà thơ, hay nói
đúng hơn là một người nghệ sĩ đa tài, ông ghi dấu ấn với nhiều bức hoạ, niềm
đam mê hội hoạ của ông không kém gì thơ ca. Có lẽ do đó, mỗi bài thơ của ông
đều là "thi trung hữu hoạ", hồn thơ của ông không thể chỉ nằm gọn trong hai từ
phóng khoáng, nó còn là hồn hậu, là lãng mạn, tài hoa. Thơ của ông nằm giữa
tâm hồn lãng mạn, bay bổng của chàng trai nghệ sĩ nhiệt thành và sự hào hùng,
mạnh mẽ của một người lính cụ Hồ.
Cảm hứng lãng mạn cùng tinh thần bi tráng ấy được hoà quyện trong những
dòng thơ "Tây Tiến". "Nhớ Tây Tiến" được ra đời vào năm 1948, khi tham dự Đại
hội toàn quân ở liên khu 3 làng Phù Lưu Chanh, lúc này ông đã rời đoàn binh Tây
Tiến, Quang Dũng đã không nén nổi nỗi nhớ mà chắp bút nên những vần thơ trong
Tây Tiến. Dù sau đó nhà thơ đã thay đổi nhan đề, giản lược đi một chữ "nhớ" thế
nhưng "cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ" (GS. Nguyễn Đăng
Mạnh). Được in lần đầu trong tập thơ "Mây đầu ô", "Tây Tiến" là bức hoạ miêu tả
bức tranh thiên nhiên miền Tây khắc nghiệt, dường như thi phẩm còn là khúc tráng
ca hào hùng, bật ra từ tâm hồn của Quang Dũng. Một nỗi niềm chan chứa đầy nỗi
nhớ cho những người đồng chí, cho những ngày hành quân đường dài, cho lời thề
nguyện gắn bó với Tây Tiến
Muốn hiêur được bài thơ, trước hết ta cần phải hiểu được về đoàn quân Tây Tiến
và những hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, QD gia nhập đoàn
quân TT. Đó là môtk đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào, để bảo vệ biên giới V-L, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ
trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của
đoàn quân TT khá rộng, bao gồm vùng rừng núi TBVN và Thượng Lào, từ Châu
mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền Tây Thanh Hoá. Những
nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu. Rưngf dày, có
nhiều thú dữ. Những người lính binh đoàn TT phần đong là thanh niên tri thức Hà
Thành, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên.
Sinh hoạt của những người lính TT hết sức gian khổ, ốm đau bệnh tật không có
thuốc, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan
bà chiến đấu rất dũng cảm. Nhưng vươtj lên trên những gian khổ ấy, Tây Tiến nói
lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh
ra tử một thời trận mạc. Cảm xúc nổi bật ở khổ thơ đầu là nỗi nhớ về thiên nhiên
và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn binh giữa vùng
rừng núi miền Tây. Thông qua đó, Quang Dũng đã khắc họa được vẻ đẹp hào hoa,
hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến.

LD1: Nếu ví “Tây Tiến” là chuyến tàu mà Quang Dũng là thuyền trưởng, đưa
người ngược về thời gian để khám phá chặng đường hành quân gian khổ của
những người chiến sĩ lúc bấy giờ, thì có lẽ hai câu thơ đầu của thi phẩm chính là
khúc dạo đầu của nỗi nhớ thương:
“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
- Điểm đầu của khúc nhạc nhớ thương là hình ảnh thiên nhiên miền Tây
hoang sơ lại rất đỗi quen thuộc đối với binh đoàn Tây Tiến. Quang Dũng mở
ra hai thế giới song song qua cách ngắt nhịp 4/3 cùng dấu phẩy giữa dòng:
một bên là thiên nhiên hùng vĩ dữ dội; một bên là những người đồng đội chí
tình gắn bó keo sơn. Đoàn quân Tây Tiến song hành cùng dòng sông Mã –
khởi nguồn của nỗi nhớ, khiến cho người đọc dễ dàng hình dung ra cảnh
tượng một dòng sông Tây Bắc hùng vĩ, chảy xiết, cao xa dữ dằn như một
chứng nhân cho những cố gắng, những gian lao,vất vả của con người hành
quân, của cả dân tộc Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến cứu nước.
- Dù đã từng gắn bó với nhau đến như vậy hế nhưng sông Mã và Tây Tiên đều
bị phân cách bởi hai chữ “xa rồi” vừa nghẹn ngào vừa xót xa.
+ Hai tiếng ấy đã đánh dấu những ngày tháng không thể quay trở lại được;
từng cận kề, từng có nhau nhưng nay tất cả chỉ còn là hoài niệm sâu sắc
trong lòng mỗi chúng ta. Sông Mã xa rời Tây Tiến còn Tây Tiến đã phải rời
xa nhà thơ Quang Dũng.
+ Tiếng “ơi” cùng dấu chấm than tha thiết như gọi vang vọng cả chuỗi ký ức
về những người đồng đội, trở thành một nhịp ngắt thổn thức khiến người đọc
hòa cùng nhà thơ trong nỗi nhớ chân thành từ trái tim.
- Nếu như ở câu thơ đầu, Quang Dũng nhớ về dòng sông chứng nhân lịch sử
cùng tình đồng chí một thời thì ở câu thơ tiếp theo, ông nhớ về nỗi nhớ thứ
ba là: rừng núi và thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, hiểm trở lại thơ mộng,
trữ tình.
+ Nỗi nhớ ấy gắn liền với tính từ “chơi vơi” – không phải sâu đậm, quyến
luyến cũng không phải nhạt nhòa, thoáng qua. “Chơi vơi” là trạng thái trơ
trọi giữa những khoảng không rộng, khiến người ta không thể bấu víu vào
đâu, khiến người ta chông chênh trong chính không gian của mình mà hụt
hẫng, níu kéo, hoài tiếc. Dường như “nhà thơ xứ Đoài mây trắng” không thể
bám vào đâu để trở về, để có thể khứ hồi hiện thực mà mình đã trải qua, thế
giới hoài niệm của Quang Dũng càng trải dài vô tận và miên man. Tựa như
làn mây trắng, thoáng qua rõ hình nhưng chạm vào lại hóa hư không.
+ Ấy là một nỗi nhớ “chơi vơi” khó có thể khẳng định nhưng Quang Dũng
đã chắc chắn bằng hai từ “nhớ” liên tiếp nhằm nhấn mạnh, nhằm khẳng định
rõ ràng sự hiện hữu của nỗi nhớ ấy vẫn luôn thường trực trong tim người
chiến sĩ anh dũng.
+ Kết hợp cùng với điệp từ “nhớ” cùng thủ pháp gieo vần đuôi “ơi – chơi
vơi” câu thơ được bộc lộ trọn vẹn sắc thái cảm xúc, giống như âm vang gọi
đáp gửi vào không gian. Nỗi nhớ cuộn trào trong tâm hồn nahf thơ, đẩy ông
vào trạng thái hư ảo, triền miên của ký ức, cuốn trôi ông vào núi rừng, hai
trận chiến ngày xưa để rồi khiến ông khắc khoải trong nỗi nhớ chơi vơi.
Chơi vơi! Một nỗi nhớ thật lạ lùng! Xuân Diệu hình như cũng từng chơi vơi
trong nỗi nhớ như thế:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

 Như thế, hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng
là của cả bài thơ, đó là nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến
hướng về miền Tây, về binh đoàn Tây Tiến và những năm tháng của quá
khứ không thể nào quên
LD2: Và cứ thế, từng kí ức thi nhau ùa về được QD vẽ lại bằng một bức
tranh thơ qua sáu câu tiếp theo.
- Trước tiền là bức tranh về thiên nhiên núi rừng Tây bắc vừa là mảnh đất của
sự hùng vĩ, đại ngàn, là nơi non cao, núi ngực, mây phủ ngang đèo trắng
xóa, vừa lãng mạn mà cũng không thiếu gian lao khắc nghiệt:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+ Từng địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” lần lượt hiện về trong ký ức của
nhà thơ. Đoàn quân Tây Tiến đã bước qua bao nhiêu dải đất giản nan để rồi
đọng lại không chỉ là nỗi khó khăn gian khổ mà còn là nỗi nhớ thương
không thể lấp đầy, chặng đường hành quân mòn mỏi khiến ta như bước cùng
nhịp với chiến sĩ, hòa chung khí thế hào hùng của người lính trẻ hăng hái ra
đi bảo vệ đất nước. Hai tên riêng mang nặng sức tạo hình gợi cho chúng ta
hình dung về chốn hoang sơ heo hút, thưa vắng bóng dáng con người.
+ Dưới con mắt “thi-nhạc-họa’ kết hợp với chất bi tráng lãng mạn đặc trưng
trong hồn thơ của mình, Quang Dũng đã tái hiện bức tranh Tây Bắc hùng vĩ
thật tài tình qua hai tiếng “sương lấp”.
 Hình ảnh “sương” kết hợp cùng động từ “lấp” đã diễn tả chân thực sự
hiểm nguy, khó lường của vùng rừng núi và những gian truân. Không
phải “sương chùng chình” trong Sang thu hay “sương phủ”, “sương
giăng” mà là “sương lấp” - ở một thể cao hơn của sự che phủ. Trong màn
sương ấy, cả con đường hành quân hay con người đều bị nuốt chửng, bị
bao vây bởi làn sương tưởng chừng mỏng manh lại vô cùng đến vô tận.
 Thế nhưng, cho dù cảnh vật có bị che phủ bởi màn “sương lấp” làm tê
buốt da người, “mặt trời chân lí” vẫn “chói qua tim”, tan đi lớp sương
dày mà vững tin hơn lý tưởng cao đẹp của người vệ quốc quân. “Sương
lấp” và “màn đêm” dường như có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau,
những người chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua sự giá lạnh khắc nghiệt của
khí hậu, làn sương lấp đi sức khỏe, lấp đi sự ấm áp.
+ Giữa khung cảnh thiên nhiên trập trùng, ta vẫn bắt gặp ở thơ ông một nét
đẹp vấn vương dịu dàng qua một tiếng “hoa”.
 Thơ là ý tại ngôn ngoại nên trong mỗi hình ảnh thơ đều chất chứa những
tầng nghĩa khác nhau, tùy theo mỗi độc giả mà sẽ khám phá theo cách
riêng của mình. Ta có thể hiểu “hoa” theo nhiều nghĩa khác nhau, đây
vừa có thể những cách hoa ban trắng trong vô ngàn – biểu tượng cảu sự
thuần khiết sâu thẳm vừa là hương thơm mát ngọt của hoa cỏ thiên nhiên.
Những bông hoa ấy còn là những ngọn đuốc hoa – những bông hoa lửa,
mà người lính đốt lên giữa đem trường canh thâu hành quân gian khổ.
Trong màn đêm u tịch, ta có thể bắt gặp những đốm lửa lập lòe, giúp
người lính soi sáng cung đường phía trước, lại giúp họ sưởi ấm đôi tay đã
lạnh buốt giá vì mưa gió nơi rừng già.
 Nhưng trên hết, những cánh “hoa” ấy còn là đôi chân thoăn thoắt thoăn
thoắt nhẹ nhàng của những cô gái Mường Lát lướt nhẹ trên từng trảng cỏ
đẫm hơi sương, là bước chân chí tình dẫn đường giúp đố người lính chinh
phục thiên nhiên khắc nghiệt. Quang Dũng đã thật tinh tế trong cách sử
dụng những từ ngữ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người lính: hào hoa và
lãng mạn, giúp ta liên tưởng giữa hai thái cực, nhìn hiện thực bằng con
mắt lạc quan
- Đến với những dòng thơ tiếp theo, chặng đường hành quân gian khổ của
người lính Tây Tiến như ngập trong bức tranh thiên nhiên hoang vu, hẻo
lánh bằng một bút pháp điêu luyện, phóng khoáng:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
+ Nhịp ngắt 4/3 quen thuộc một lần nữa xuất hiện, khác với hai câu thơ
đầu, nhịp ngắt không chia câu thơ thành hai nửa mà lại như tăng tiến, thử
thách gian khổ ngày càng dữ dội.
 Kết hợp cùng điệp từ “dốc” rừng núi miền Tây như gấp khúc, đứt gãy
dần. Câu thơ bảy chữ nhưng có đến năm âm trắc “dốc”, “khúc”,
“khuỷu”, “thẳm”, vẽ ra một không gian điệp trùng núi thẳm non sâu,
khiến không chỉ khung cảnh mà cả âm điệu câu thơ cũng trở nên khúc
khuỷu. Hai từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” được đi cùng với nhau,
gợi xúc động mạnh, cả chiều cao và hình dạng đều được Quang Dũng
miêu tả hết sức choáng ngợp, tựa như nuốt chửng con người vào sự vô
tận.
 Quang Dũng với biệt tài dụng ngôn độc đáo đã lồng ghép vào câu thơ hai
từ “heo hút”. Phép đảo ngữ đưa tính từ lên đầu châu đã khiến cho không
gian vắng lặng, cô quạnh chỉ có những đám mây xa về áng chân trời.
o Quang Dũng – nhà thơ mang trong mình giấc mộng phiêu du và
cũng vì thế ông được ví như một đám mây, nhà thơ của “xứ Đoài
mây trắng” gắn liền với những áng mây bồng bềnh nơi trời xanh
vô tận, trong các tác phẩm của ông hình ảnh “mây” cũng ít nhiều
xuất hiện một cách có chủ đích. Trong “Tây Tiến”, ông không
chọn “đám mây” hay “áng mây” hoặc “hồ mây” để miêu tả mây
trắng mà ông lựa chọn những “cồn mây” ngồn ngộn. Binh đoàn
bước lên những con dốc thật cao, con dốc mà chỉ cần vươn tay là
có thể chạm đến cồn mây cao ngút ngát. Dường như con đường
hành quân về miền Tây gian khổ đó cũng như 1 con đường mà
người lính phải chạm tới đỉnh của trời đất: chạm tới cồn mây,
chạm tới những điều xa xôi tưởng như không thực hiện được trong
đời sống thường ngày. Hình ảnh “ cồn mây” còn là tượng trưng, ẩn
dụ cho những cái bộn bề, chồng chất mà những dốc núi miền Tây
đã dựng lên trong hành trình hành quân của người lính.
o Quang Dũng đã nhờ “mây” gửi nhớ đến những người bạn chiến
đấu của mình qua hình ảnh “súng ngửi trời” vừa lãng mạn, vừa
tinh nghịch hào hoa. Một chữ “ngửi” cùng hình ảnh súng - trời đã
mở ra một không gian bao la rộng lớn hòa quyện vào lý tưởng, sức
mạnh của những chiến binh kiên cường bất khuất. Người ta thường
khẳng định “Thơ tức là phần tỉnh lọc nhất của ngôn từ” ấy vậy mà
những chữ tưởng chừng như đã quá đỗi gần gũi, đã quá quen thuộc
trong văn nói hằng ngày nay lại trở nên lấp lánh, đẹp đẽ đến vậy
trong thi phẩm Tây Tiến. Súng là hiện thân cho sự khốc liệt của
chiến tranh mà người lính ngày đêm đối mặt. Trời biểu tượng cho
khát vọng hòa bình. Đó là tương lai mà người lính hướng tới,
mong mỏi ngày đêm. Tác giả kết nối giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai, giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn để tạo nên hình ảnh
thơ sống động, giàu ý nghĩa. “Súng ngửi trời” là một biểu tượng
cao đẹp cho tinh thần lạc quan, yêu đời, trẻ trung, có phần tỉnh
nghịch của người lính Việt Nam. Chất hiện thực và chất trữ tình
trong thơ Quang Dũng luôn lần lượt thay nhau làm tròn vẹn sứ
mệnh truyền tải của mình.
+ Điệp ngữ” Ngàn thước” lặp lại 2 lần ở đầu 2 vế của câu thơ ngắt nhịp 4/3
đã thể hiện được cái dặm dài trên đường hành quân của người lính. Đi cùng
với động từ”lên”, “xuống” đã tạo cho cta cảm giác đột ngột, độ cao của dốc
núi- 1 độ cao đến vô cùng mà ta không hình dung rõ được, khiến cho chúng
ta nhìn thấy được những gian nguy mà người lính phải trải qua. Câu thơ như
bị bẻ đôi diễn tả con dôc với chiều cao, chiều sâu rợn ngợp: nhìn lên thì cao
vô cùng, cao thăm thẳm; mà nhìn xuống thì lại sâu vô cùng, sâu ngàn
trượng.

- Tuy nhiên, bên cạnh sự hoang sơ, dữ dội của thiên nhiên miền Tây, ta còn
thấy vẻ đẹp thơ mộng và huyền ảo, như sự vỗ về mà Quang Dũng gửi vào
thi phẩm của mình:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ Nếu như ở câu thơ thứ năm, những người lính phải leo dốc khúc khuỷu
theo từng âm trắc thì ở câu thơ này lại được viết hoàn toàn là thanh bằng, thể
hiện sự bình yên nhẹ nhàng sau cuộc hành quân vô cùng khó khăn và giân
khổ, dường như người lính đã nhìn thấy căn nhà ấm áp của người dân trong
“cơn mưa xa khơi.” Những chiến binh Tây Tiến dù có gan dạ, anh dũng đến
thế nhưng trong thâm tâm, họ vẫn luôn nhớ về gia đình, nhớ về quê hương,
nhớ về mái ấm an yên của mình.
+ Hình ảnh “mưa xa khơi” ẩn dụ cho thung lủng toàn mưa trắng xóa – giống
như những làn sương lấp đầy nhưng lần này màu trắng xóa ấy lại thấp
thoáng bóng dàng của ngôi nhà. Những chàng trai Hà Thành hào hoa ấy đã
một lòng tình nguyện lên đường tiếng về miền Tây trắc trở, rơi xa một Hà
Nội “sáng rực và huyên náo” (Thạch Lam) để sẵn môt tấm lòng vì độc lập
non sông.
+ Câu hỏi “Nhà ai” – từ phiếm chỉ, phiếm định để hỏi bâng quơ rằng nhà ai
đang ở xa khơi kia? Câu hỏi đó dường như gợi trong kí ức của những người
lính trẻ 1 niềm lạc quan, yêu đời
 Như vậy, với những câu thơ giàu giá trị tạo hình, dốc núi miền Tây mang
đến ấn tượng ở người đọc cả về sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp ký thú. Từ những nét
vẽ về thiên nhiên, người đọc có thể nhận thấy nét hào hùng nhưng cũng
không kém phần nghệ sĩ của những chàng lính Hà thành. Họ kiên cường,
mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, coi thường những khó khăn thử thách
của thiên nhiên và cũng rất trẻ trung, hồn nhiên, yêu đời.

LD3: Dẫu vậy, những mất mát đau thương đã in sâu trong tâm trí người cựu chiến
binh, khiến cho thâm tâm người chiến sĩ vẫn luôn khắc khoải về sự khụy gối của
người đồng đội, trong thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc hiểm trở qua 4 câu thơ tiếp
theo
- Nếu ở Mường Lát người lính bị sương giá làm cho lạnh lẽo thì ở đây, đối
mặt với cơn mưa rừng cái giá rét ấy còn tăng lên gấp bội. Những gì đã xảy
ra trên những nẻo đường trường chinh máu lửa và gian khổ ấy? Âm điệu
câu thơ chùng xuống, khiến lòng người nao nao, bởi trên con đường hành
quân khắc nghiệt, nhiều chiến sĩ đã mãi mãi nằm lại những mảnh đất xa lạ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
+ Hình ảnh người lính không còn lấp ló sau hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc
nữa mà tực tiếp xuất hiện trong từng dòng cảm xúc.
 Nếu Chính Hữu cất lên hai tiếng “Đồng chí” để gọi người đồng đội tri kỉ
thì Quang Dũng dùng tiếng gọi thân thương “anh bạn” – những người
anh em chiến sĩ thân thiết, gắn bó kề bên mỗi chặng đường hành quân
khắc nghiệt. Hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng khóc thầm.
 Trong gian khổ “dãi dầu”, sau những ngày dài hành quân và chiến đấu,
có những đồng đội thân yêu đã “không bước nữa”, đã “bỏ quên đời” mà
nằm lại nơi chân đèo, góc núi, vĩnh biệt đoàn binh sau bao ngày gắn bó.
Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc nghiệt của thiên nhiên núi rừng, người
chiến sĩ không đớn đau vì hoàn cảnh sống và chiến đấu khắc nghiệt, mà
chỉ nghẹn ngào bởi người đồng đội đã hy sinh.
+ Nhưng không vì thế mà bài thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người đồng
đội của anh ra đi trong một tư thế rất đỗi hào hùng:“Gục lên súng mũ bỏ
quên đời”.
 Bút pháp lãng mạn “bỏ quên đời” phần nào làm cho cái chết không còn
nặng nề, giảm nhẹ đau thương và mất mát. Quang Dũng viết về anh như
viết về một đất nước dẫu có mưa bom bão đạn cũn không chịu cúi đầu:
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
 Bốn chữ “gục lên súng mũ” thể hiện một sự hy sinh vô cùng bi tráng: ngã
xuống, gục xuống trên đường hành quân, giữa trận đánh khi súng còn
cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu.
 Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ “chết”, từ “hy sinh” bằng những
“không bước nữa”, “bỏ quên đời” nhưng câu thơ vẫn trào lên bao nỗi xót
xa, thương tiếc. Chỉ có điều, cái tài của nhà thơ xứ Đoài được khẳng định
khi ông tuy có nói đến cái chết của người lính, nhưng không gợi ra sự bị
lụy, thảm thương mà trái lại, trong sự tiếc thương ấy lại mang cả sự hào
hùng. Những lời thơ của Quang Dũng như lời khẳng định: Vì độc lập, tự
do mà có biết bao chiến sĩ đã anh hùng ngã xuống trên những chiến
trường xa xôi, trong tư thế lẫm liệt “gục lên súng mũ” như vậy! Họ là
những chàng trai còn mang trong mình ước mơ và hoài bão tuổi trẻ, họ
hy sinh vì lý tưởng chung của dân tộc. Nó lớn lao hơn tất cả mơ mộng
thường tình của chàng trai trẻ. Người lính xé toạc thanh xuân, xé toạc
cuộc đời mình để ghép vào bức tranh hòa bình đất nước:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả”
Họ ra đi sôi sục, ngạo nghễ, họ chiến đấu vì quê hương nên cái chết cũng
nhẹ nhàng như về với đất mẹ. Bao nhiêu sự hi sinh là bấy nhiêu sự hào
hùng, can đảm ta được chứng kiến:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”.
Họ đã sống, đã chiến đấu xứng đáng với quê hương, đất nước. Họ hiên
ngang, đường hoàng khi ra trận và cũng hào hùng khi ngã xuống cũng
bởi:
“Ta hiểu vì sao ta chiến đấu
Ta hiểu vì ai ta hiến máu”.
Họ vì ai mà ngã xuống? Vì giang sơn, vì độc lập, vì tự do của nhân dân
Việt Nam anh nguyện hiến dâng tính mạng thực hiện lý tưởng cao đẹp
ấy.
- Những phẩm chất “Gan không núng chí không mòn” khiến họ trở nên bất
khuất như thế. Những ngày tháng gian khổ ấy đã in đậm trong ký ức của nhà
thơ, từ dốc cao đến vực thẳm, mưa xối sương sa đều ám ảnh tâm trí thi sĩ
đến vô cùng:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
+ Hai cụm từ “ Chiều chiều” và “ đêm đêm” là 2 trạng ngữ chỉ thời gian
hành quân của đoàn quân Tây Tiến và đồng thời chỉ thời gian đang lập lại
ngày nối ngày, chiều nối chiều, đêm nối đêm trong hành trình hành quân của
người chiến sĩ. Khi buổi chiều là buổi u tịch, gợi nỗi buồn xa xăm lại xuất
hiện cùng màn đêm tối lặng với biết bao bí ẩn, hiểm ngụy
+ Từ láy “chiều chiều” gợi dòng thời gian như lặp lại, tuần tự chảy trôi ngày
qua ngày, dường như chôn vùi cả thanh xuân tuổi đời của biết bao chiến sĩ
trẻ trung, gan dạ.
+ Biện pháp tu từ nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” làm bật lên
những u tịch những bí hiểm rừng già luôn rình rập, luôn chờ đón con người
đến khám phá và chinh phục, giúp ta cảm nhận rõ hơn về sức mạnh dữ đội
đang ngự trị trong núi rừng miền Tây. “Thác gầm thét” là sức mạnh của
những dòng thác đổ ào như trút mọi phẫn uất, như gầm lên, thét lớn phá tan
sự tĩnh mịch và yên tĩnh của không gian núi rừng. “Cọp trêu người” có thể
dc hiểu theo 2 cách: đó là sức mạnh của chúa tể sơn lâm như đang trêu
ngươi con người trong màn đêm vắng lặng và heo hút hoặc đó là sự xuất
phát từ giai thoại do QD kể lại cuộc bắt cọp để giúp người dân trong miền
cùng với những người lính trong đoàn quân TT, đem đến sự yên ổn cho nhân
dân.
+ Nhà thờ không dùng “cọp dọa người” mà lại dùng từ “trêu” để thể hiện cải
trớ trêu của hoàn cảnh và cũng là những trêu ngươi đầy thách thức, đầy hiểm
nguy của chốn u tịch rừng xanh sâu thẳm.
+ Như nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Làm thơ là tạo ra một hành tinh thứ
hai bằng ngôn ngữ”, bằng ngôn ngữ đậm chất lãng mạn nhưng không kém
phần bi trắng, Quang Dũng đã sử dụng khéo léo biện pháp đối lập giữa các
tiếng “ thác, thét” ở câu thơ trên là những thanh trắc ở âm vực cao và các
tiếng “Hịch , cọp” ở câu dưới là những thanh trắc ở âm vực thấp. Tất cả như
khúc nhạc trầm bổng dữ dội, khẳng định uy lực khủng khiếp ngàn đời của
trốn rừng thiêng nước độc đồng thời giúp người đọc hình dung và cảm nhận
đc âm thanh trực tiếp bằng những ngôn từ miêu tả chân thực của QD, từ đó
nhà thơ đã khắc họa ý chí lẫm liệt, chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến
LD4: Qua vô vàn những gian nan thách thức, nén lòng trước những đau thương ùa
về, trái tim người lính Quang Dũng có lẽ giây phút ấy đã không thể kìm nén nghẹn
ngào mà thốt lên dòng thơ vương đầy cảm xúc
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
- Cụm từ cảm thán “Nhớ ôi” như bộc bạch chân thành 1 tiếng lòng, 1 nỗi nhơ
tha thiết của người cứu chiến binh Tây Tiến dành cho đoàn quân của mình
và nhân dân miền Tây.
- Giọng thơ giờ đây có sự chuyển biến đây rõ rệt, từ gân guốc kiêu hùng sang
nhẹ nhàng đằm thắm hoài niệm về một khoảng trời anh đũng nay đã lùi vẻ dĩ
vãng vàng son.
- Những buốt lạnh tái tê của ngày mưa giá rét này được ủ ấm bằng hơi ấm
nồng của bát “cơm lên khói” còn tỏa hơi trắng xóa đậm tình quân dân hay
những vắt xôi nếp Mai Châu đủ sắc màu và vương hương vào lòng người
“thơm nếp xôi.” Nó không chỉ là thứ giúp các anh vượt qua cơn đói cơn rét
mà còn khiến các anh cảm thấy được võ về an ủi như tại chính gia đình thân
thương của mình.
- Một sáng tạo độc đáo trong cách dụng ngôn của nhà thơ chính là cụm từ
“mùa em”.
+ Thiên nhiên bốn mùa luân chuyển, Xuân - Hạ -Thu – Đông cứ liền kể
xoay vẫn và nay trong trí tưởng tượng của nhà thơ, để rồi ta có thêm một
“Mùa em” đầy ngọt ngào quyến luyến.
+ Cụm từ “mùa em” có thể hiểu theo nhiều nét nghĩa. “Mùa em” là mùa
mảng mà em chịu thương chịu khó chăm từng bông lúa trĩu cảnh, là những
tháo vát, đảm đang mà e ấp, dịu dàng qua những nắm xôi, bát cơm dành cho
người lính. Hay phải chăng đây là “mùa” mà em đương độ đôi mươi xinh
đẹp, trong ngần, là sắc xuân nồng đượm nơi tuổi trẻ của những người thiếu
nữ Mai Châu. Vì thế mà mảnh đất núi rừng Tây Bắc này mãi là mảnh tâm
hồn của người cán bộ kháng chiến là kỉ niệm đẹp của anh bộ đội cụ Hồ trong
những năm kháng chiến chống Pháp:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
- Thơm nếp xôi” quả như một lời thơ “thi trung hữu vị” Ai đã từng được
thưởng thức món xôi Mai Châu nhiều màu sắc, từng hạt nếp dẻo mềm thì có
lẽ sẽ không bao giờ quên được cảm giác ngon ngọt ấy. Nỗi nhớ về những
mùa riêng trong tâm hồn người chiến sĩ, về “em” trong kí ức đẹp vô ngần, về
những nếp xôi nóng hổi ấm lòng, về mùi hương xôi nếp Mai Châu... đều
được Quang Dũng bộc lộ một cách tha thiết, côn cào qua chất lãng mạn và
ngôn từ chắt lọc, tỉnh tế ở từng hình ảnh thơ.

Đoạn thơ không chỉ là khúc nhạc dạo đầu của nỗi nhớ chảy dọc mạch thơ Tây Tiến
mà còn ghi lại được những vẻ đẹp riêng của thiên nhiên, cuộc sống, nhất là vẻ đẹp
của người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ mà Quang Dũng gửi trong đoạn thơ, bài thơ
cũng là nỗi nhớ chung của những ai từng đi qua vùng đất miền Tây, từng trải qua
những năm tháng chiến đấu đầy gian lao của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự gắn
bó của nhà thơ với thiên nhiên, con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó
với quê hương, đất nước. Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp trong thơ ca cách
mạng Việt Nam.

Bài thơ ngay từ đầu đã mang màu sắc lãng mạn, bi tráng. Bút pháp hiện thực kết
hợp với lãng mạn mà nổi bật là cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình
cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi
những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi
thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ. Một nét sáng tạo
trong ngôn ngữ thơ nữa là có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới
hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ: nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa
khơi, Mai Châu mùa em ...). Nghệ thuật sử dụng tên địa danh cũng là một nét đáng
chú ý trong ngôn ngữ thơ. Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của
Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ
vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh con người miền Tây càng tô đậm
thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn còn được thể hiện chủ
yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng
chung của cộng đồng, của toàn dân tộc. Từ đó, làm nổi bật hình tượng người lính
vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.

“Thời gian hủy hoại các lâu đài nhưng làm giàu những vần thơ” (Jorge Luis
Borges).Một khoảnh khắc, ta bất chợt nhận ra, rằng thời gian vô tình nhất cũng trở
nên dịu dàng khi đứng trước những vần thơ, câu viết. Năm tháng chảy trôi không
khiến “tên tác phẩm” rơi vào quên lãng, mà rơi vào khoảng trống trong trái tim và
khối óc của con người, để người ta mãi nhớ, mãi trân trọng một tác phẩm để đời
như thế.
KHỔ CUỐI
LD1: hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người
còn sống và những người đã ngã xuống:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

- Mùa xuân ấy, khi “Tiếng khèn kháng chiến vang dậy non sông” (Hồ Chí
Minh, 01/01/1947), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ ra đi với lời hẹn ước
“nhất khứ bất phục hoàn”. Đó cũng là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
+ Và tư thế này của ng lính khiến ta liên tưởng tới những ttangs sĩ xưa:
“Tráng sĩ nhất khứ, bất phcuj hoàn”. Đó còn là hình ảnh những trang nam
nhi chí lớn ta thấy trong “tống biẹt hành”:
+ Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập
đoàn binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ
không hẹn nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có
ngày trở về. Đoàn quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia
đình, thành những anh em gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang
Dũng một mình đối mặt với nỗi nhớ thương đồng đội, đối mặt với những sự
hi sinh của đồng đội mình nơi biên cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy
nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của mình. Những người lính trong bài
thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng có một nỗi niềm như người lính Tây
Tiến, từ những người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết với nhau như anh
em:

Tôi với anh đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của
chiến tranh, giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia
phôi vừa lớn, vừa thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người
đồng đội của Quang Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại
- Trở về với hiện tại, miền Tây và Tây Tiến đã lùi xa trong kí ức, trong nỗi
nhớ nhung, tác giả nhắc đến hình ảnh người đi trong những nét nghĩa mơ hồ:
có thể hiểu nhà thơ nhắc đến những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai
Hà Nội năm xưa từ biệt quê hương, ra đi Tây Tiến không hẹn ước ngày về;
lên với miền Tây thăm thẳm xa xăm, mờ mịt. Cũng có thể hiểu, ở dòng thơ
này, nhà thơ nhắc tới thời điểm cuối năm 1948, khi ông đang ở Phù Lưu
Chanh, bâng khuâng nhớ về việc mình đã chia xa trung đoàn Tây Tiến
không hẹn ước ngày về, đã từ biệt miền Tây không biết bao giờ gặp lại, bởi
“Đường lên thăm thẳm một chia phôi.”
+ con đường thăm thẳm…muôn đời
+ tính từ thăm thẳm…

LD2: Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân
dân keo sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định
tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
- Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong
lòng nhà thơ những hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời
nhắn nhủ thiết tha.
+ “Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ người lính Tây Tiến, nó không được xác
định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả những người
lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa.
Họ không sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại
nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó. Bởi nơi này chất chứa biết bao nhiêu kỉ
niệm của Tây Tiến, cũng ở nơi đó biết bao nhiêu nấm mồ của những người
anh hùng Tây Tiến “dãi dầu” cuộc đời mà nằm lại.
+ Từ mùa xuân ấy là khoảng thời gian quí giá nhất trong cuộc đời, khoảng
thời gian vời vợi nhớ thương. Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn những người
lính Tây Tiến sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha Luông,
Mường Hịch... những vùng đất xa xôi đựng đầy kỉ niệm với đồng đội, với
trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng. Cũng có thể
hiểu nhà thơ đang xót xa nhắc đến những người đồng đội đã vĩnh viễn nằm
lại trong những nấm mồ cô đơn miền viễn xứ.
+ Chữ “lên” trong câu thơ này được đặt thẳng hàng với chữ “lên” ở câu thơ
trước, 2 lần “lên” nhưng chưa một lần nhắc tới “xuôngs”, QD như khẳng
định thêm sự đúng đắn trên con đường mình đã chọn, trên con đường thế hệ
“sống mãi tuổi 20” đã chọn. Họ đã lên Tây Tiến mùa xuân ấy, đã chiến đấu
kiên cường, đã hi sinh dũng cảm; linh hồn và thân xác họ đã vĩnh viễn ở lại
với miền Tây, để lại nỗi nhớ thương da diết, nỗi chua xót ngậm ngùi cho
những người còn sống. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
- Với những con người trong mùa xuân ấy, ….không thể nào quwn
+ lời nhắn nhủ… Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà
thơ Trần Bá Căn:

Có một thời để nhớ mãi trong tôi


Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên.
Đối với họ có một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến
trường vì lý tưởng của mình. Và mục đích cuối cùng là đánh đuổi kẻ thù mang lại
hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó là mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính
những người thân của mình.Có một thời như thế và có những người lính đã như
thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng cũng mang lí tưởng như vậy, dẫu hi
sinh vẫn dõi theo nhau, quyết không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên
đồng đội.

+ từ chẳng…

Đoạn thơ cuối này sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh vẻ đẹp tinh
thần hi sinh vì lí tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ
đẹp chân dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi
tráng được khắc họa bởi bút pháp tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người
đọc. Tác giả sủe dụng Thể “Cổ phong trường thiên” (một thể loại hành) để những
tình cảm, cảm xúc không bị bó buộc mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, trong
những con chữ. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc nhưng khi được ứng hiện vào
nhau trong sự sắp xếp của Quang Dũng lại đem đến hiệu quả không ngờ. Nếu nói
“thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là một dẫn chứng tiêu
biểu. Với sự tài hoa trong cách sử dụng và sáng tạo từ ngữ, Quang Dũng khiến
người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ. Đó chính là
phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt
cầu kì mà mới lạ đến ngạc nhiên!

Rõ ràng, đoạn thơ cuối đã diễn tả cách thật cô đọng bao tình cảm nhớ thương mà
các chiến sĩ Tây Tiến dành cho mảnh đất mình từng đi qua, từng sống, từng chiến
đấu vì lý tưởng cao đẹp cùng tình đồng đội đồng chí của người lính Tây Tiến và
cũng là của Quang Dũng.
Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy.
Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với
những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút
lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con
anh hùng ấ

Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất
nước nền độc lập như ngày hôm nay.

Có toà thành nào có thể thắng nổi sự mài mòn của thời gian. Và có mấy ai có
thể hiện hữu mãi giữa năm tháng phồn vinh chớp nhoáng chớp đổi thya này.
Nhưng QD đã thành công “sống mãi” với đời xanh nhờ trang hoa tuyệt bút-
Tây Tiến. Tầng xạ hương tinh tế thấm đượm giá trị nghệ thuật ấy toát ra từ
màu giấy sẽ luôn len lỏi trong từng ngõ nghachj cuộc sống, từng máu thịt của
ta nằm lại với hậu thế để kể lại câu chuyện của mình. Thật không ngoa khi nói
rằng TT chính là “ngọn giao liên bất diện giữa trần thế bộn bề “ (đỗ lai thuý”

HỒN TRƯƠNG BA

* Đề 1: Phân tích màn đối thoại Trương Ba – Đế Thích


Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt
được nữa, không thể được!

Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!

Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả
tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà
cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với
danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên
khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù
gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không
nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
Đế Thích : Nhưng mà ông muốn gì?
Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông có
thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, thân thể anh hàng thịt còn lành lặn
nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với
thân xác này
Ðế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn
tầm thường của anh hàng thịt?
Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận được
với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn.. còn chị vợ anh ta
nữa.. chị ta thật đáng thương! "
Đế Thích: Nhưng thế hồn ông muốn trú vào đâu?
Hồn Trương Ba: Ở đâu cũng được, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi
sẽ.. tôi sẽ.. nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng
còn, xác anh hàng thịt cũng mất.
(Trích" Hồn Trương Ba, da hàng thịt "– Lưu Quang Vũ,
SGK Ngữ văn 12 tập hai, trang 149, NXB Giáo dục 2008, tr149)
Thời gian vẫn lạnh lùng trôi đi, cuộc đời này là gì? 80 năm? 100 năm? Cuộc sống
của con người chỉ là chớp mắt của vũ trụ bao la. Và cái chết, hiển nhiên trở thành
một điều thật đáng sợ! Nhưng" Chết chẳng là gì, không sống mới đáng sợ "(Victo
Hugo). Câu nói trên của nhà văn vĩ đại nước Pháp đã chứng minh cho ý nghĩa của
việc được sống thực sự. Bởi sống và tồn tại là hai định nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Đó cũng chính là quan niệm được nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ gửi gắm trong tác
phẩm" Hồn Trương Ba, da hàng thịt "qua sự tha hóa của nhân vật Trương Ba. Đặc
biệt, cuộc đối thoại dưới đây khắc họa vẻ đẹp của nhân vật này, từ đó ta thấy
được quan niệm sống trong kịch của Lưu Quang Vũ:
" Hồn Trương Ba :(một mình) Mày đã thắng thế rồi đấy [..] Ở đâu cũng được, chứ
không ở đây nữa. Nếu ông không giúp, tôi sẽ.. tôi sẽ.. nhảy xuống sông hay đâm
một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất. "
Có một kẻ sĩ từng đau đáu về một nỗi cớ sự: "Nếu một tác phẩm không thể
tự nói lên ngôn ngữ của chính nó thì đó là một tác phẩm thất bại". Nhà phát
ngôn giàu huyết tâm bằng nghệ thuật không ai khác ấy chính là
Lưu Quang Vũ. Ông vốn là người nghệ sĩ đa tài, đã từng sáng tác thơ nhưng được
biết đến nhiều hơn với tư cách là một nhà soạn kịch. Ngòi bút của
ông thể hiện nhiều cách tân độc đáo, quan tâm thể hiện xung đột trong cách sống
và quan niệm sống, bày tỏ khát vọng hoàn thiện nhân cách con người.
“Hồn Trương Ba da hàng thịt”được viết năm 1981 ra mắt công chúng năm
1984 gây chấn động dư luận về nội dung tư tưởng. Vở kịch được khơi nguồn từ
cảm hứng phê phán những tiêu cực trong con người, cuộc sống và xã hội Việt Nam
những năm 80 của thế kỉ XX, từ mối quan hệ triết học giữa thể xác và tâm hồn
trong một con người. Dựa theo cốt truyện dân gian, tác giả xây dựng thành vở kịch
nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn
sâu sắc., được coi là vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” gồm bảy hồi, đoạn đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích trích
từ hồi VII. Thông qua bi kịch Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người
đọc vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và
dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
- Tóm tắt diễn biến kịch dẫn đến vị trí đoạn trích:
Trương Ba một người làm vườn chăm chỉ, chơi cờ giỏi, bị chết oan vì sự tắc trách
của Nam Tào, Bắc Đẩu. Đế Thích vì mến mộ tài chơi cờ của Trương Ba nên
đề nghị Nam Tào Bắc Đẩu sửa sai bằng cách cho hồn Trương Ba sống nhờ trong
thân xác anh hàng thịt. Khi sống nhờ thể xác của hàng thịt, hồn Trương Ba phải
chiều theo những nhu cầu dung tục của xác thịt, khiến linh hồn nhân hậu, trong
sạch và bản tính ngay thẳng của Trương Ba có nguy cơ bị tha hóa. Nhận thức rõ sự
thay đổi tiêu cực của bản thân, thấm thía nghịch cảnh bi kịch sống không được là
chính mình, đau khổ tột cùng khi người thân trách móc cự tuyệt, Trương Ba đã
quyết định châm nhang gặp Đế Thích để trả lại thân xác cho hàng thịt, để thoát
khỏi nghịch cảnh “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Đoạn trích trên là cuộc
đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích, thuộc đoạn giữa phần ba cảnh VII, gần
màn kết của vở kịch. Ở đây, vẻ đẹp của nhân vật Trương Ba được thể hiện rõ nét:
Chính trực, quả quyết, dũng cảm; khát khao được thoát khỏi tình huống bi kịch của
mình và bày tỏ khát vọng được sống là chính mình
ld1: Nếu như M. L. Kalinine từng cho rằng:" Văn học làm cho con người thêm
phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn
"thì ở đây Lưu Quang Vũ đã làm được điều ấy khi ông mở ra trong lòng người đọc
hoàn cảnh trớ trêu và cuộc đời đầy ngang trái của nhân vật.

Như chta đã từng biết, Trương Ba là một người làm vườn, khoảng sau mươi tuổi,
tính tình hiền từ, nhân hậu và giỏi đánh cờ nhưng bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì
muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại và nhập vào
xác anh hàng thịt mới chết. Trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương ba gặp rất
nhiều phiền toái: Lý tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba
cũng cảm thấy xa lạ.. mà bản thân Trương Ba thì cảm thấy đau khổ vì phải sống
trái tự nhiên và giả tạo. Đặc biệt, thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số
thói xấu và những nhu cầu vốn không phải chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha
hóa về nhân cách và sự phieenftoais do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba
quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết. Đặc biệt, qua cuộc đối
thoại với Đế Thích, tác giả dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu
sâu hơn về Trương Ba.
LD2: Mở đầu đoạn trích, Trương Ba hiện lên là một người chính trực, thắng
thắn, dũng cảm, quả quyết, biết chấp nhận sự thật:
- Trong cuộc đối thoại giữa hồn và xác, TB đã rơi vào sự đuối lí và dường như
đã buộc phải nhìn nhận vào sự thật rằng mình có thể đang tha hóa dần và
đang chịu sự áp đặt đến từ xác thịt âm u đui mù kia. Nhà viết kịch đã để cho
hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình trong lỗi đau khổ, tuyệt vọng lên
đến đỉnh điểm, một mình với lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy
quyết liệt:" Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày
đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta.. " Qua lời nói ấy của hồn, người đọc cảm
nhận được ngay lúc này Trương Ba chằng còn phủ nhận sự chi phối của xác
hàng thịt nữa mà đã công nhận rằng mình bị cái dung tục trong nó lấn át, tha
hóa đi nhiều phần.
- Nếu Chí Phèo tha hóa mà không biết mình tha hóa, thì Trương Ba lại nhận
thấy rất rõ tình trạng khốn khổ của mình. Cho dù không muốn thừa nhận,
cho dù muốn bám víu vào trò chơi tâm hồn thì Trương Ba vẫn không thể
phủ nhận sự thật là ông đang đánh mất mình. Cuộc đối thoại thẳng thắn giữa
hồn Trương Ba và xác hàng thịt đã đã diễn tả khá sâu sắc nỗi hoang mang
hoài nghi, sự bất lực của con người. Mọi lí lẽ của Trương Ba không thể lung
lay thứ lập luận lấm láp bụi trần nhưng hùng hồn thuyết phục của xác hàng
thịt" Hai ta đã hòa vào nhau làm một rồi ". Dù khinh bỉ xác hàng thịt,
Trương Ba vẫn phải quay trở lại xác hàng thịt.
- Đến đây, dường như ta nghĩ rằng khi nhận ra mình đã bị tha hóa, hồn sẽ bỏ
cuộc và buông xuôi cuộc đời để xác muốn làm gì thì làm. Nhưng không!
Thừa nhận sự thật không phải để thỏa hiệp, để quy phục, để bần thần nhập
lại thân xác hàng thịt như màn đối thoại trước mà là đã dứt khoát thoát ra
khỏi sự chi phối và sức mạnh ghê gớm của xác hàng thịt. Hồn Trương Ba
không chấp nhận điều đó nên mới cất lên tiếng nói từ tận đáy lòng mình
rằng:" Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất
mình? Hồn Trương Ba tự tưởng tượng ra những lời chế nhạo của xác "chẳng
còn cách nào khác".
- Có lẽ từ tận sâu trong tiềm thức, từ trong trái tim của mình ông không chấp
nhận được việc xác phải là hoàn cảnh mà hồn phải quy phục thế nên ông đã
tự chất vấn bản thân: "Nhưng có thật là khong còn cách nào khác?" Câu nói
cho thấy sự phân vân, sự quan hoài, bối rối của Trương Ba "có phải thật sự
là hết cách rồi không? Mình phải sống trong xác hàng thịt mãi mãi hay sao?"
Nhưng rồi tự khẳng định bằng một lời nói chắc nịch, đầy sự kiên định vững
vàng: "Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!" Bằng
điệp ngữ "không cần" Lưu Quang Vũ như khẳng định và tô đậm khao khát
được giải thoát khỏi sự chi phối của thể xác trong Hồn Trương Ba. Ngay lúc
này đây, ông đã quá chán ghét xác dung tục ấy và muốn rời xa nó ngay lập
tức.
- Nếu độc thoại ở màn đầu tiên, HTB hiện lên trong trạng thái dằn vặt, đau
khổ thì màn độc thoại này, nỗi đau càng xót xa hơn nhưng nhân vật không
trăn trở về tình trạng xác-hồn bất nhất, mà đã có thái độ hoàn toàn chủ động.
Đây là lời độc thoại có tính quyết định, dẫn tới hành động châm hương gọi
ĐT một cách dứt khoát: "Đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột
nhà, lấy một nén hương châm lửa, thắp lên." Với một loạt ý văn ngắn, nhà
viết kịch LQV đã mở ra lối đi riêng cho hành động chẳng chút đắn đo, do dự
và suy nghĩ của nhân vật. Tại sao TB lại có hành động như vậy? Bởi lẽ ông
đã phải trải qua một thế giới nội tâm đầy bão tố với tất cả những cố gắng để
giành giật lại phần người từ đôi bàn tay của con quỷ bản năng. Sau lời độc
thoại này, Trương Ba đã dũng cảm từ bỏ sự sống của bản thân để giải quyết
bi kịch cho mình và những hgười xung quanh.
- Rõ ràng, "Cái quý giá nhất của con người là cuộc sống nhưng không phải bất
cứ cách sống, kiểu sống nào. Sống mà đánh mất bản thân, sống giả dối với
mọi người, với chính mình, sống như Hồn Trương Ba đang sống thì thà chết
còn hơn". Và hồn quyết định gọi mời tiên Đế Thích Xuống trần để thực hiện
mong muốn của mình. Quyết định đó đã khiến cho mâu thuẫn kịch được giải
quyết, đồng thời sẽ khiến cho số phận nhân vật đạt đến cái hữu hạn, nhưng
sẽ là cái hữu hạn trong sạch, cao cả, tốt đẹp.
Ld3: Không chỉ có nhân cách cao đẹp, ngay thẳng, dũng cảm, TB còn là người
có khát vọng cao đẹp, khát vọng sống tự do, sống là chính mình, biết tỉnh ngộ và
sửa sai:
- Một triết gia người Đức đã từng nói: "Anh phải trở về cái gì của chính anh".
Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con
người hoàn thiện và rất đúng đắn giống như lựa chọn của hồn Trương Ba
trong đoạn trích. Đế thích xuất hiện. Vị tiên nhìn thấy vẻ nhợt nhạt xanh xao
của TB và đã có lòng hỏi thăm, rồi giải thích lí do mấy hôm nay chẳng thể
xuống đánh cờ được. Nhưng đó không phải là những gì mà TB quan tâm ở
thời điểm này. TB đã hạ quyết tâm và quyết định nói lên nỗi lòng của mình"
"Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa!
Không thể được!" TB cố tình nhắc đi nhắc lại 2 lần từ "ko" như thể hiện sự
quyết tâm muốn rời khỏi thể xác ấy. Hồn Trương Ba không thể chấp nhận
sống chung với xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục. Lý do mà Trương Ba đưa ra
được Lưu Quang Vũ cô đúc trong một lời thoại có vai trò đặc biệt quan
trọng, có thể coi là chìa khóa cho toàn bộ nội dung tư tưởng của vở kịch:
"Không thế bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là
tôi toàn vẹn".
Lời thoại này trước hết cho thấy một bước trưởng thành, một bước ngoặt
quan trọng trong nhận thức của Trương Ba.
- Từ chỗ phủ nhận một cách quyết liệt: "Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không
có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!", từ chỗ cực đoan
"Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong mới là quan trọng",
Trương Ba đã đi đển một nhận thức vô cùng sáng rõ "Không thể bên trong
một đằng, bên ngoài một nẻo được". Như vậy, từ chỗ đánh giá phiến diện về
thân xác người, Trương Ba đã có cái nhìn đúng đắn, đó là cuộc sống tốt đẹp
của người chỉ có thể được tạo nên từ sự hài hòa giữa hai đời sống của thể
xác và tâm hồn. Nhận thức tưởng chừng như đơn giản đó của Trương Ba đã
phải đánh đổi bằng rất nhiều đau khổ, nước mắt của chính bản thân ông và
người thân nên nó là một nhận thức đáng quý.
- Và có thể nói, đó cũng chính là thông điệp quan trọng nhất mà nhà văn
muốn chuyển tải đến người đọc qua vở kịch. Thông điệp đó là gì? "Bên
trong", nghĩa đen dùng để chỉ nơi khuất tầm mắt, nơi không nhìn thấy được,
nhưng ở đây lại có nghĩa là phần nội tâm, phần sâu sắc trong tâm hồn của
mỗi con người, nơi chứa đựng tất cả những suy nghĩ, đánh giá của con người
về những gì diễn ra xung quanh. Còn "bên ngoài", là nơi có thể quan sát
được rõ ràng, nơi không có gì che lấp, nhưng ở đây, ta hiểu "bên ngoài" là
nơi con người dùng để biểu lộ cảm xúc của trái tim, cảm xúc của tâm hồn.
"Toàn vẹn", toàn vẹn không phải là không có sai sót, toàn vẹn không phải là
phải hoàn hảo đến từng chi tiết nhỏ nhặt, toàn vẹn ở đây chỉ đơn giản là con
người ta được sông thật với lương tâm, với bản thân của mình. Phải nói
rằng, đây là một câu thoại rất hay và có tính triết lí sâu sắc của nhân vật. Bởi
đó là tiếng lòng được cất lên từ sâu thẳm trong tâm hồn ông, trải qua một
loạt các cuộc đối thoại và những sự đấu tranh tâm lí. Ngay lúc này đây ông
chẳng muốn phải ở trong một cái xác bị nó chế ngự, lấn át và tha hóa đi
những phẩm chất thanh cao, tốt đẹp của mình.
- TB muốn kđ vs ĐT rằng: Trái tim tôi chẳng muốn trú ngụ trong cái bình
chứa đựng linh hồn kia nữa. Bởi bình ấy vốn chẳng phải là của nó. Nó cũng
được bộc lộ và thể hiện nỗi lòng, tình yêu thương của riêng mình, không
phải là những thói quen dung tục, đầy sự đối lập, khác biệt với vẻ bề ngoài
kia. Đó là lí do mà TB khao khát muốn là mình "toàn vẹn", thống nhất và
đồng điệu giữa tâm hồn - thể xác. Đó cũng là điều dễ hiểu thôi bởi có ai
trong chúng ta lại muốn mình ăn nói một đằng, suy nghĩ một nẻo, lại muốn
mình cứ lấp mãi đằng sau một vẻ ngoài giả tạo để tồn tại. Huống hồ, cái hồn
tội nghiệp kia phải sống không bằng chết trong cái xác đầy mâu thuẫn và
khác biệt.

LD4: Khao khát mãnh liệt, cháy bỏng "Được là tôi toàn vẹn" của Trương Ba
còn cho thấy nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Nhân vật đã không còn chấp
nhận chung đụng với cái thô lỗ tầm thường, dung tục và để nó sai khiến, mà
muốn được trở về sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có.
Khao khát đó đã làm sáng lên nhân cách tốt đẹp, cao cả của Trương Ba:
- Tuy nhiên, để được sống là mình lại là một điều không hề dễ dàng. Nó đòi
hỏi Trương Ba phải chấp nhận từ bỏ trò chơi tâm hồn, nghĩa là không thể
làm điều xấu để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn, rồi sau đó lại đổ lỗi cho
xác hàng thịt. Điều đó cho thấy, để được sống là mình còn đồng nghĩa với
việc phải tự chịu trách nhiệm với hành động, suy nghĩ của bản thân. Trên
thực tế việc sống kiểu hồn Trương Ba - xác hàng thịt chỉ là một hư cấu, còn
phần lớn là do người bị ép buộc hoặc cố tạo cho mình một vỏ bọc. Bởi vậy,
dám tự chịu trách nhiệm để được sống là mình đòi hỏi mỗi người không chỉ
có nhận thức, khao khát mà còn cần bản lĩnh và lòng dũng cảm. Nhưng khi
đối diện với câu nói ấy của hồn, ĐT lại có vẻ ngạc nhiên và sững sờ lắm.
Thế nên ông mới hỏi: "Sao thế, có gì không ổn đâu?" Đó đâu chỉ là một câu
hỏi, đó còn là một lời chất vấn rằng: "Tôi thấy ổn mà! Có gì mà không thể
sống chứ?" Đối với ĐT, việc "bên trong một đằng bên ngoài một nẻo là điều
đương nhiên.

- Thái độ đó thôi chưa đủ, ĐT lại tiếp tục đưa ra những lí lẽ chối bỏ bi kịch
của người đáng thương:" Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình
toàn vẹn ư? "ĐT dường như đang cố lấy những nhân chứng cho thấy rõ nỗi
đau mà TB gặp phải chẳng phải là điều đáng lo ngại. Bởi đấy là một lẽ
thường tình, cả vị tiên cờ ấy và cả ngọc hoàng cũng đang phải sống như vậy"
Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ
bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép
mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. "Lời nói của Đế Thích đã chỉ ra
một bi kịch mang tính nhân loại về việc số đông người không được sống là
mình. Ở đó, tác giả đã mạnh dạn chỉ ra một sự thật xót xa trong xã hội nói
riêng và nhân loại nói chung, về việc người vì địa vị ham muốn, quyền lực
danh vọng mà đánh mất mình. Khi đưa ra dẫn chứng là Ngọc Hoàng, nhà
văn đã thể hiện rất rõ tư tưởng" giải thiêng thần thánh ". Thần thánh không
còn được đặt ở vị trí tối cao để mọi người phải ngưỡng vọng mà được đặt
trong tư thế hoàn toàn bình đẳng với người, nghĩa là có đầy đủ tốt - xấu,
đúng - sai, tì vết.
- Phải thấy rằng, câu nói này đã để lại trong mỗi chúng ta quá nhiều day dứt,
trăn trở mà có lẽ khi khép lại tác phẩm ta chẳng thể nào quên được. Tại sao
ngay cả vị tiên cờ, ngay cả những người ở trên trời, ngay cả Ngọc Hoàng là
người đứng đầu trời đất, những con người tưởng chừng vốn trong sạch,
thẳng thắn để làm tiêu chuẩn sống cho con người nay lại chấp nhận" bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo ", chấp nhận một cuộc sống giả tạo và
gượng ép. Thật chẳng thể nào hiểu được! Có lẽ họ cũng như TB, mặc dù
không phải sống trong thân xác lạ lẫm của người khác, nhưng chính họ cũng
phải sống giả tạo trong cái vẻ bề ngoài của chính mình tạo nên.
- Nhưng điều khác biệt và đáng nói ở đây là ĐT, NH có thể chấp nhận và làm
quen với lẽ trái ấy, còn TB thì không. Điều này cũng là một yếu tố góp phần
khắc họa vẻ đẹp nhân vật Trương Ba: Nhân cách cao đẹp:
Đó là lí do mà dù ĐT có giảng giải rằng:" Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam
Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của
ông đâu! "Câu nói ấy như một con dao sắc đâm thẳng vào trái tim TB. Bởi
ngay lúc này đây, hồn thật sự hết hi vọng. Không còn cơ hội để được trở lại
là chính mình, để được tái sinh và nối dài những ước mơ dang dở. TB sẽ
chẳng thể nào sống trong cái thân thể vốn là của mình được nữa. Khi nghe
đến đây, tôi chợt nghĩ có lẽ TB sẽ dần chấp nhận con đường mới này mà ở
trong cái xác không phải của chính mình bởi đó là cơ hội duy nhất để ông
được sống.
Ld5: Vẻ đẹp nhân vật TB còn được thể hiện ở việc ông mạnh dạn, thẳng thắn
chỉ ra sai lầm của Đế Thích:
- Lý lẽ mà vị tiên cờ đưa ra không thể thuyết phục được Trương Ba bởi tất cả
những lý lẽ mà Đế Thích đưa ra đều là để ngụy biện cho khát vọng được
sống của người, còn điều mà Trương Ba quan tâm không chỉ đơn giản là
được sống mà là sống như thế nào. Đến đây, Trương Ba đã có một lời thoại
rất quan trọng:" Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện
không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. "Câu
nói ấy đã bộc lộ hết tất thảy những niềm đau trong trái tim một kẻ ăn nhờ ở
đậu, của một kiếp tầm gửi đầy đáng thương.
- Để rồi, một câu nói mà để lại niềm day dứt, ám ảnh trong lòng độc giả:" Ông
chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần
biết! "Tuy chỉ là một người bình thường nhưng hồn đã mạnh dạn, thẳng thắn
chỉ ra sai lầm của vị tiên trên trời khi ông chỉ nghĩ cho chính mình mà không
hề nghĩ đến hoàn cảnh của những người khác, không hề biết rằng những
người mà ông ta ban ơn ấy sẽ sống ra sao? Sẽ sống như thế nào? Mặc dù
LQV không có ý văn nào để khắc họa dáng vẻ của TB khi ấy, nhưng bằng sự
đồng cảm với cả trái tim của mình, tôi vẫn cảm nhận được những giọt nước
mắt lạ chã rơi trên khuôn mặt TB tội nghiệp.
- Chưa hết, Lời thoại của TB đã đưa ra hai vấn đề quan trọng, một là lòng tự
trọng cần phải có trong quá trình sống của mỗi người, điều đó sẽ quyết định
việc người không sống nhờ vào tiền bạc, của cải cũng như danh vị, nhân
phẩm của người khác. Có như vậy mỗi người mới không đi sau cái bóng của
người khác để được sống là mình. Vấn đề thứ hai mà lời thoại đề cập đến
chính là ý nghĩa của sự sống. Ở đây, Lưu Quang Vũ tiếp tục đối thoại với tư
tưởng đã mặc nhiên tồn tại, được thừa nhận trong đời sống cũng như trong
văn học từ ngàn năm nay để cho thấy: Ý nghĩa của sự sống không phải do độ
dài ngắn quyết định mà quan trọng là chất lượng của cuộc sống ấy như thế
nào. Nhà biên kịch đã chỉ ra được sống thôi chưa đủ bởi cuộc sống kéo dài
nhưng chỉ là cuộc sống nhợt nhạt, buồn tẻ thì cuộc sống đó cũng không có
mấy giá trị. Ý nghĩa của sự sống không do sự dài ngắn quyết định mà quan
trọng là sống như thế nào và sống để làm gì.

LD6: Nếu như tính cách ngay thẳng, phẩm chất dũng cảm, tâm hồn trong sáng
và khát vọng sống cao đẹp của TB làm ta ngưỡng mộ thì đến đây nhân cách cao
thượng, vị tha của ông càng làm ta nể phục:
- Để tiếp tục thuyết phục Trương Ba, Đế Thích đã phân biệt phần hồn trong
sáng, cao quý của Trương Ba với phần hồn tầm thường, thấp kém của anh
hàng thịt vì Đế Thích cho rằng chỉ có cái phần hồn trong sáng tốt đẹp của
Trương Ba mới đáng được sống, đáng được tồn tại trên đời. Nhưng lý lẽ này
cũng không thể thuyết phục Trương Ba tiếp tục sống nhờ trong thân xác
hàng thịt bởi tất cả những trải nghiệm thực tế, những đau khổ, mất mát, bi
kịch từ khi sống trong thân xác anh hàng thịt đã khiến Trương Ba thấm thía
hơn bao giờ hết. Hậu quả giữa việc vênh lệch, giữa hồn và xác đã giúp ông
thấu hiếu sâu sắc:" Tầm thường nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận
được với thân anh ta, chúng sinh ra ỉà để sông với nhau "nghĩa là Trương Ba
đã thấu hiểu: Thà để phần hồn tầm thường của anh hàng thịt hòa hợp với
thân xác thô lỗ, dung tục của anh ta còn hơn con quái vật mang tên hôn
Trương Ba - da hàng thịt.
- Cuối cùng, Trương Ba thà chết thật để được là chính mình còn hơn sống
trong cảnh hồn này, xác nọ. Ông muốn trả lại thân xác cho hàng thịt để mình
không còn phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu, bi hài. Việc trả lại thân xác
cho anh hàng thịt đã chứng minh TB có tấm lòng thật cao cả, cao thượng.
Bởi lẽ chẳng ai có thể làm được điều đó. Vì sống, vì muốn được tồn tại
người ta sẽ tìm mọi cách dù nó có trái với luân thường đạo lý chứ không
phải giống như TB: Trả lại thân xác cho chủ nhân thực sự của nó, còn mình
thì tan biến.
- Mỗi tp NT chân chính phải là sự đồng điệu mang ngòi bút của những người
cùng khổ. Thật vậy, ta cũng bắt gặp sự phản kháng mạnh mẽ khi không
được sống là chính mình của TB với 1 số nv trong những áng văn khác như
hình ảnh cô Mị của TH trong VCAP. Nếu TB chẳng thể nào chấp nhận việc"
sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo "thì Mị cũng chẳng thể sống khi
không thể làm những điều mình thích, sống trong một cuộc sống mình muốn
và gần bên người mà mình thương. Đó là lí do mà cô từng phản kháng mạnh
mẽ với kiếp sống" nàng dâu gạt nợ "ấy, đã từng khóc hàng mấy tháng trời,
sẵn sàng ăn lá ngón tự tử để kết thúc đời mình. Tuy nhiên Mị may mắn hơn
TB ở chỗ, nếu như cái hồn ấy đáng thương phải chọn tan biến trong đất trời
khi không thể trở về với thân xác của mình thì Mị vẫn có thể quay trở lại
sống là chính mình, gạt bỏ đi cái vỏ bọc chỉ là bề ngoài khi sống trong nhà
thống lí. Chính giọt nước mắt của A Phủ là liều thuốc để Mị tự giải thoát cho
chính mình. Đó là những sự đồng điệu và khác biệt giữa HTB và cô gái mèo
xinh đẹp ấy.

Qua đoạn trích, ta thấy rõ được quan niệm sống trong kịch của LQV. Cũng giống
như màn đối thoại trước, màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc
sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt lõi nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống
vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một
người vẫn còn đầy khao khát sống như Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn
đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về mình cái chết đã cho thấy để sống
cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể sống bằng bất cứ giá nào,
người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp giữa hoạt động bên
ngoài với tâm trạng, cảm xúc mà còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh
cho hạnh phúc của những người xung quanh. Rõ ràng ở đây Lưu Quang Vũ đã đề
cao lối sống vị tha, cao thượng. Ai đó từng nói rằng:" Nhân vật là phương tiện để
phản ánh đời sống, khái quát hiện thực. Chức năng của nhân vật là khái quát những
quy luật của cuộc sống và của con người, thể hiện những hiểu biết, những ước mơ,
kì vọng về đời sống ". Thật vậy, Bi kịch và cách xử lí trước bi kịch của nhân vật
Trương Ba có ý nghĩa nhân văn sâu sắc và ý nghĩa phê phán một số hiện tượng tiêu
cực trong xã hội đương đại (sống ích kỉ, vụ lợi cá nhân). Không những vậy, Nhân
vật Trương Ba trong đoạn trích còn thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật mới mẻ,
độc đáo của Lưu Quang Vũ.
Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang
Vũ đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật độc đáo. Từ cốt truyện dân gian, nhà
văn đã sáng tạo nên vở kịch mang đậm chất hiện đại mà vẫn giữa được những giá
trị truyền thống qua đó gửi gắm những tư tưởng mang chiều sâu triết lí. Nghệ thuật
phát triển kịch tính vừa hấp dẫn vừa làm rõ cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt trong
mỗi con người để chiến thắng bản thân, chiến thắng nghịch cảnh. Đoạn trích phê
phán mạnh mẽ những hiện tượng tiêu cực trong đời sống đương thời và đưa ra triết
lí về quan niệm sống tiến bộ. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội
tâm, hành động lời nói của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần
làm nên thành công của vở kịch. Xây dựng những hình tượng nhân vật phong phú
đa nghĩa: Hồn Trương Ba ẩn dụ cho phần tâm hồn, xác hàng thịt ẩn dụ cho thể xác
của một con người nhằm cụ thể hóa sự gắn bó hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn
trong một con người cần thiết như thế nào. Ngôn ngữ trau chuốt gợi cảm, có chiều
sâu triết lí, đặc biệt đoạn kết vừa giàu chất thơ vừa lãng mạn bay bổng mang đậm
phong cách nghệ thuật kịch nói Lưu Quang Vũ.
Thời gian không ngừng chảy trôi, bụi thời gian có thể phủ dày lên mọi giá trị.
Nhưng văn học nghệ thuật sẽ không bao giờ phải chịu lớp bụi ấy. Bởi tác phẩm
nghệ thuật chân chính bao giờ cũng thấm đượm những giá trị nhân văn, nhân bản,
đồng thời in đậm dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ, Và với những kết tinh nghệ
thuật đặc sắc, những giá trị tư tưởng cao đẹp mà nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gửi
gắm, tác phẩm" HTB, DHT"sẽ sống mãi với thời gian trong lòng bạn đọc.

LD1: Sông Đà hung bạo không chỉ ở những cảnh đá bờ dựng vách thành, những
ghềnh sông, hút nước đầy nguy hiểm mà hùng vĩ và dữ dội nhất trên sông Đà là
những thác đá:
- Sự hung bạo của con Sông Đà được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả qua tiếng
thác nước “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo
gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
+ Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng một hệ thống
từ ngữ phong phú, truyền cảm. Cùng với nghệ thuật nhân hóa được sử dụng
một cách đắc địa, nhà văn đã truyền hồn sống cho dòng sông, biến thác nước
sông Đà thực sự trở thành một loài thủy quái đang giận dữ, gầm gào, đe dọa
con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Khi thì nhà văn nghe thấy nó như
"oán trách gì", rồi lại như là "van xin", khi lại thấy nó đang "khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo".. Nhà văn đã tung ra hàng loạt những ngôn từ sống
động để miêu tả âm thanh thác nước theo những cung bậc tăng dần của cảm
xúc giận dữ. Đó vừa là cách nhà văn nói đến khoảng cách rút ngắn dần khi
tiếp cận con sông, vừa là cách tạo ấn tượng về sự dữ dội của sông Đà và tăng
dần cảm giác hồi hộp, sợ hãi trong tâm trí người đọc
+ Tiếng thác nước đa thanh đa điệu của một tên lưu manh tiểu nhân bỉ ổi lúc
thế này lúc thế kia không có lập trường của một chính nhân quân tử "không
nói hai lời". Nghe tiếng thác nước như tiếng ma kêu quỷ khóc, tiếng của
những linh hồn oan khuất bị vùi lấp dưới lòng sông. Tiếng thác ấy vang
vọng vào vách đá, thấm sâu vào kẽ lá nó gợi lên sự huyên bí ghê rợn của
một chốn rừng thiêng nước độc. Có lẽ ai nghe tiếng thác ấy đêù thất thần sơ
hãi, ám ảnh khôn nguôi. Cũng giống như người lính Tây Tiến của nhà thơ
Quang Dũng ám ảnh mãi bởi âm thanh tiếng thác nước:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Đặt hai thứ âm thanh ấy cạnh nhau, ta mới thấy tiếng thác nước Sông Đà ám
ảnh biết chừng nào.
- Tuy nhiên, đối với Nguyễn Tuân, những câu văn vừa phân tích trên chưa đủ
để diễn tả hết sự hung bạo dữ dội của thác nước Sông Đà nên ông đã phải
bồi thêm một hình ảnh liên tưởng so sánh rất độc đáo, bất ngờ khi ông nghe
thấy tiếng thác nước "rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng", một cảnh tượng dữ dội có một không
hai, một trí tưởng tượng kiệt xuất! Một câu văn so sánh thật độc đáo! Tất cả
những gì tài hoa, độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân có lẽ đã dồn tụ trong
câu văn trên: Âm thanh, hình ảnh của một cảnh hỗn loạn ghê gớm diễn ra
trước mắt người đọc tạo nên một cảnh tưởng kinh hoàng, ám ảnh khó quên.
Điều đặc biệt ở đây nhà văn đã lấy lửa để miêu tả nước thì quả thực là tài
tình và vi diệu, điều xưa nay chưa từng có.

-> Nói tóm lại, bằng một đoạn văn ngắn, nhà văn Nguyễn Tuân đã làm sống
dậy một không gian Tây Bắc hùng vĩ, dự dội, hiểm trở. Với câu văn giàu
chất tạo hình biểu cảm, giọng văn dồn dập, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc
cảm nhận đầy đủ nhất sự dữ dội của tiếng thác nước Sông Đà. Chắc chắn âm
thanh ấy sẽ còn ám ánh bạn đọc, còn vang vọng mãi trong không gian nghệ
thuật.
LD2: Tiếp theo là những ấn tượng từ sự quan sát trực quan của tác giả khi đã "Tới
cái thác rồi". Cảnh tượng những thác đá trên Sông Đà cũng thật dữ dội.
- Khi cái thác hiện ra trước mắt, nhà văn như reo lên đầy ngờ ngàng, thích
thú: "Tới cái thác rồi" – cảm giác gặp lại sông Đà hệt như gặp lại "cố nhân"
vậy
- Ngoặt tới khúc sông ấy là cảnh “sóng bọt đã trắng cả một chân trời đá”.
+ Tính từ "trắng xóa" vừa chính xác vừa tạo hình gây ấn tượng về sự trào sôi
dữ dội của dàn giao hưởng của sóng, gió, bọt nước.. Đồng thời gợi tả điệp
trùng những con sóng trắng cuồn cuộn xô nhau trên mặt nước mênh mông
+ Cách nói phóng đại, khoa trương, mang đến cảm giác choáng ngợp về đá.
Sóng nước vấp phải đá tung bọt trắng xóa. Đá ở đây lớp lớp, miên man,
trùng điệp, lại ẩn hiện trong bọt sóng và chiếm lĩnh suốt chiều dài dòng sông

Các dòng sông là cái nôi của những vùng, các nền văn hóa đa sắc màu nên viết về
nó các nhà thơ, nhà văn thường viết bằng cả sự am tường, bằng một tình yêu tha
thiết, sâu lắng. Từ lâu, con sông Hương của xứ Huế cũng đã rất nhiều lần đi vào
các tác phẩm văn hóa, thơ ca. Dòng sông ấy đã từng được nhà thơ Hàn Mặc Tử
miêu tả :
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng bắp buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay“
Hay một nhà thơ nào đó cũng ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế:
“Thiếu nữ thẫn thờ vê áo mỏng
Nghiêng nghiêng vành nón đứng chờ ai
Ven dòng sông phẳng con đò mộng
Lả lướt đi về trong nắng mai”
Bởi vậy, viết về dòng sông Hương là một thử thách. May thay nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã vượt qua thử thách ấy để tặng cho đời bút kí “Ai đã đặt tên cho
dòng sông”. Trong tác phẩm này nhà văn đã cảm nhận về đẹp của sông Hương từ
nhiều góc độ, phương diện. Nhà văn đã tìm hiểu thủy trình, khám phá vẻ đẹp của
cảnh sắc thiên nhiên sông Hương và nhìn dòng sông trong sự gắn bó với nền văn
hóa của xứ Huế, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cảm nhận về nó một cách
đầy đủ, trọn vẹn nhất với một tâm hồn nghệ sĩ đầy rung cảm. Trong bài kí, vẻ đẹp
của sông Hương trước hết được tác giả cảm nhận từ góc nhìn địa lí qua thủy trình,
cảnh sắc thiên nhiên của dòng Hương giang từ vùng thượng lưu qua vùng đồng
bằng rồi về thành phố Huế. Ở mỗi khúc đoạn dòng sông lại hiện lên với một vẻ đẹp
riêng đầy cuốn hút.Trong đó, đoạn văn này miêu tả vẻ đẹp của sông Hương ở khúc
thượng nguồn

1. Sông Hương là bản trường ca của rừng già


Với tình yêu tha thiết với Hương giang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngược dòng
tìm về nguồn cội của dòng sông để rồi phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo, hoang dã, man
dại nhưng cũng rất trữ tình của nó. Khởi nguồn của dòng chảy là từ Trường Sơn
hùng vĩ và đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có phát hiện vô cùng mới mẻ, đặc sắc: dòng sông
Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già”. Ở đây, rừng già là hình ảnh của
những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông. Hình ảnh này đem đến sắc
thái hoang dại cho dòng sông nơi thượng nguồn. Trường ca là bản hợp âm có độ
dài và giai điệu phong phú nên có thể hiểu dòng sông khi trôi chảy trong lòng dãy
Trường Sơn đã nhận vào nó tất cả những sắc thái phong phú đa dạng. Khi so sánh
sông Hương với bản trường ca của rừng già, người đọc có thể liên tưởng Sông
Hương ở đại ngàn mang nhiều vẻ đẹp khác nhau nhưng vẻ đẹp nổi bật của nó là
sự mãnh liệt, man dại và huyền bí khi nó “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn”,
“mãnh liệt qua những ghềnh thác” và “cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”.
Nghệ thuật so sánh được đặt trong một câu văn dài, được chia làm nhiều vế, có sử
dụng thủ pháp điệp cấu trúc vừa để gợi dậy cái dư vang của trường ca, vừa tạo nên
âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già
Nhưng sông Hương ở rừng già có khi lại mang vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ
tình khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán. Trong lòng Trường Sơn, Hương
giang trở nên “dịu dàng, say đắm” khi chảy giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ
của hoa đỗ quyên rừng”. Sắc đỏ “chói lọi” của loài đỗ quyên càng làm nổi bật lên
vẻ đẹp của một dòng sông giữa lòng Trường Sơn hoang dã và bí ẩn. Dường như
chỉ có duy nhất màu đỏ, một màu sắc đầy hoang dại ấy mới làm toát lên được vẻ
đẹp đầy ám ảnh, mê đắm nhưng lại rất đỗi bình dị của sông Hương giữa đại ngàn.
Đặc biệt, thủ pháp đối lập (giữa sự mãnh liệt, man dại, huyền bí và sự dịu dàng,
say đắm) được sử dụng một cách điêu luyện vừa thể hiện được vẻ đẹp phong phú
sắc thái, vừa thể hiện được sức mạnh hoang sơ của sông Hương khi nằm giữa rừng
già, núi non, khơi gợi lên vẻ bí ẩn, đầy say mê của dòng sông xứ Huế. Vẻ đẹp ấy
của dòng sông Hương đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua lối hành văn
mang đậm dấu ấn cá nhân: hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng rất nhiều từ ngữ gợi hình và gợi cảm
như bản trường ca của rừng già, rầm rộ, mãnh liệt, dịu dàng, say đắm, cuộn xoáy
như cơn lốc, đáy vực bí ẩn… để tô đậm vẻ đẹp đầy gợi cảm của dòng sông. Nhưng
đáng chú ý nhất là biện pháp so sánh nhân hóa ví dòng sông như một cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm
hồn tự do, phóng khoáng… Nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật vẻ đẹp căng đầy
sức sống của dòng sông khi nó giống như người con gái tuổi đôi mươi, tinh nghịch
nhảy xoay tròn bằng đôi chân trần linh hoạt, với nụ cười lanh lảnh trong vắt, tựa
tiếng chim… Hơn nữa, cô gái ấy là một cô gái Di gan. Hình ảnh cô gái Di-gan
khiến người đọc liên tưởng đến một cô gái thuộc tộc người nổi tiếng trên thế giới,
một tộc người thích sống du mục, nhảy múa, ca hát và giỏi bùa chú. Các cô gái của
tộc người Di gan thường đem lời ca, điệu múa củ mình “đốt cháy” bao người. Bởi
vậy có thể nói đây là lối so sánh - liên tưởng táo bạo, bất ngờ, lấp lánh trí tuệ, thể
hiện được cái nhìn đa chiều của tác giả trong sự hội nhập văn hóa của thời đại mới.
Tác giả đã mang văn hóa phương Tây vào văn hóa Việt Nam; mang thượng nguồn
sông Hương của Việt Nam ra thế giới một cách cụ thể, dễ hình dung nhất qua hình
ảnh so sánh này. Lối ẩn dụ, nhân hóa sâu sắc, trí tuệ khi chạm đến chiều sâu tâm
hồn của sông Hương như tâm hồn của một con người, một cô gái với “một tâm hồn
tự do và trong sáng”. Những liên tưởng thú vị và độc đáo ấy đã chạm khắc vào tâm
trí người đọc ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng đầy quyến rũ,
tình tứ, tinh tế, đầy cá tính của sông Hương, khiến sông Hương khúc thượng
nguồn càng trở nên quyến rũ say đắm.
Chính rừng già đã hun đúc cho sông Hương bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do,
trong sáng, vẻ đẹp thiên tạo với sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính. Đó là
phần tâm hồn sâu thẳm mà sông Hương không muốn bộc lộ nên luôn giấu kín khi
ra khỏi rừng nó đóng cửa rừng và ném chìa khóa dưới chân núi Kim Phụng. Cũng
chính rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để ngay
khi ra khỏi rừng sông Hương khoác lên mình “một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Như vậy, nhà văn đã xem
sông Hương như một đấng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa
của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Đây là một phát hiện độc đáo về sông Hương chỉ
có thể có ở một người gắn bó và am tường về mảnh đất cố đô

2.1. Sông Hương được nhân hóa, mang tâm trạng như con người
Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế được nhân hóa mang tâm trạng
như con
người. Khi biết đã tìm đúng đường để về gặp thành phố thân yêu, sông Hương vui
tươi lên hẳn lên giữa biền bãi vùng ngoại ô Kim Long. Qua lăng kính tình yêu,
nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã luôn nhìn sông Hương với thành phố Huế như
một cặp đôi tình nhân và dòng Hương giang khi gặp người tình trong mộng đã
không che giấu niềm vui của nó.
Khi biết đã tìm đúng đường về để gặp người tình mong đợi, sông Hương
cũng không còn băn khoăn, trăn trở “đổi dòng”, “uốn mình” liên tục nữa mà “kéo
một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc” thật yên tâm bởi nó
đã nhìn thấy cây cầu trắng của thành phố. Như vậy dưới ngòi bút của Hoàng Phủ
Ngọc Tường sông Hương lúc này đã là một cô gái có tâm hồn, ý thức tìm được
chính mình, đi tìm tình yêu đích thực của mình để được ôm ấp trong lòng một cố
đô cổ kính.
Khi gặp người yêu, có cô gái nào lại không làm duyên, làm dáng và sông
Hương ở đây cũng vậy. Khi giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên “sông Hương uốn
một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn
đi, như một tiếng “ vâng” không nói ra của tình yêu”. Quả thực, đây là một câu văn
súc tích, mang vẻ đẹp lãng mạn và đầy mê đắm của tình yêu miêu tả dòng sông
Hương khi gặp người tình của nó trở nên đầy e ấp, tình tứ, thể hiện sự chấp nhận
tình yêu một cách đầy kín đáo và nữ
tính.
2.2. Sông Hương ở Huế gắn liền với hình ảnh cây cầu trắng
Nổi bật trên nền xanh của dòng Hương giang ở Huế là hình ảnh đầy ấn
tượng: “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành
trăng non”. Ai đã từng đến Huế đều biết đến cây cầu Tràng Tiền nổi tiếng vẫn soi
bóng trên dòng Hương giang, gợi một vẻ đẹp rất riêng mà chỉ có xứ Huế mộng và
thơ mới có. Hình ảnh cây cầu ấy của đất cố đô đã đi vào thi ca với vẻ đẹp quyến rũ
kì lạ:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ”
(Nguyễn Bính)
Nguyễn Bính và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều cảm nhận được đường cong
gợi cảm của cây cầu vắt ngang dòng sông Hương. Nhưng nếu nhà thơ Nguyễn
Bính so sánh cầu Tràng Tiền như chiếc lược ngà thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại so
sánh với vành trăng non – một so sánh độc đáo, mới lạ để gợi tả thêm vẻ đẹp duyên
dáng, tươi sáng của cây cầu. Khi sông Hương gặp Huế, vẻ đẹp của dòng sông và
cây cầu như hoà vào làm một. Cây cầu như một nét đẹp bừng sáng tô điểm cho vẻ
đẹp của của dòng sông cũng như thành phố Huế.
2.3. Sông Hương được so sánh với các dòng sông đẹp trên thế giới
Để làm nổi bật vẻ đẹp đặc trưng của dòng sông Hương ở Huế, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã so sánh sông Hương với một số dòng sông đẹp và nổi tiếng trên
thế giới. Nhà văn so sánh sông Hương với sông Xen của Pa-ri và sông Đa-nuýp
của Bu-đa-pét để thấy vẻ đẹp riêng của dòng sông Hương là nó thuộc về một thành
phố duy nhất và chỉ một mình nó còn nằm trong tổng thể một đô thị cổ. Nó trôi đi
bên cạnh những cây đa cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền
xúm xít, mà ở đó vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một
linh hồn mô tê xưa cũ. Vẻ đẹp cổ kính ấy của Huế, của sông Hương “không có một
thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Có thể nói lời nhận xét tràn đầy tình
yêu say đắm ấy không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng mà còn thể hiện niềm
tự hào, kiêu hãnh của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với dòng sông thuộc về quê
hương xứ sở mình sinh ra và lớn lên.
Sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn so sánh sông Hương với dòng sông
Nê-va ở Lê-nin-grat để nhấn mạnh điểm khác biệt là nếu như dòng sông Nê-va
chảy rất nhanh, thì sông Hương có dòng chảy chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là
một mặt hồ yên tĩnh. Nhà văn cảm nhận dòng chảy nhanh của sông Nê-va qua hình
ảnh những chú hải âu tinh nghịch co một chân trên đám băng lô xô trôi theo dòng
chảy ra bể Ban-tích. Nước sông Nê-va chảy nhanh đến mức cuốn trôi băng băng
những con tàu bằng thủy tinh chở theo những hành khách tí hon khiến tác giả chỉ
biết ngẩn ngơ trông theo.
Và có như thế tác giả mới thấy quý điệu chảy chậm của dòng Hương giang
khi ở Huế. Nếu như dòng sông Nê-va ở nước Nga xa xôi chảy qua thành phố với
tốc độ rất nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì” với người bạn của nó thì
sông Hương lại chảy lặng lờ và được so sánh như một “điệu slow” tình cảm mà
Hương giang dành riêng cho xứ Huế. Sông Hương chậm rãi, lặng lờ mang đậm khí
vị của xứ Huế mộng mơ qua sự miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây cũng
rất giống với sự miêu tả của nhà thơ Thu Bồn:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Nhà văn còn tô đậm dòng chảy chậm của Hương giang một lần nữa bằng
cảm nhận của thị giác qua hàng nghìn ánh đèn hoa đăng bồng bềnh trên sông
Hương vào dịp rằm tháng bảy, từ điện Hòn Chén trôi về đến Huế thì ngập ngừng
như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi lòng.
Đặc điểm dòng chảy chậm ấy được nhà văn lí giải từ nhiều góc nhìn khác nhau. Từ
đặc điểm địa lí tự nhiên thì những chi lưu tỏa ra khắp phố thị cùng với hai hòn đảo
nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước. Nhưng mặt khác, bằng lí lẽ
của trái tim tác giả cho rằng “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở”
của sông Hương là do tình cảm của nó dành riêng cho Huế. Sông Hương do quá
yêu thành phố thân thương của mình nên dùng dằng không nỡ rời xa, nó chảy
chậm, thật chậm để được ở bên người tình mong đợi.
Và chính dòng chảy chậm đầy tình yêu ấy của dòng Hương giang đã tạo nên
vẻ đẹp sâu lắng, trầm mặc và rất đỗi thơ mộng cho xứ Huế. Nên có thể nói sông
Hương dường như đang hòa điệu tâm hồn mình vào Huế để tôn lên vẻ đẹp thơ
mộng của cố đô. Đứng trước sông Hương, người ta không chỉ cảm nhận trước một
bức tranh sông nước diễm lệ mà còn đứng trước một biểu tượng của Huế, tâm hồn
Huế, văn hóa Huế.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí, từng được nhà văn Nguyên
Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện
nay”. Ông là cây bút tài hoa, uyên bác, kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất
trí tuệ, vừa giàu chất thơ và thường gắn liền với xứ Huế. Bài kí thể hiện rõ phong
cách bút kí của ông ở các đặc điểm:
3.1. Đậm chất Huế: Chất Huế trong bài kí thể hiện ở tình yêu và sự gắn bó sâu sắc
của nhà văn với dòng sông quê hương. Vì yêu Huế, yêu sông Hương nên Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã chọn sông Hương làm đối tượng chính cho bài kí của mình. “
Phải lòng” dòng sông, nhà văn viết về nó với tất cả sự gắn bó, đắm say của một
người con với dòng sông quê hương, với vẻ đẹp của quê hương, xứ sở.
3.2. Sự hòa quyện giữa chất trí tuệ và chất thơ
Chất trí tuệ thể hiện qua sự nghiêm túc, cẩn trọng trong tìm kiếm, phát hiện; sự
kết hợp giữa nghị luận và suy tư đa chiều và vốn hiểu biết phong phú trên nhiều
lĩnh vực…. Những kiến thức liên ngành đã giúp nhà văn khám phá vẻ đẹp đa dạng
của sông Hương trên nhiều phương diện: địa lí, lịch sử, văn hóa… Chất thơ trong
kí Hoàng Phủ Ngọc Tường trước hết thể hiện ở phương diện nghệ thuật: Hình
tượng sông Hương được miêu tả bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu chất thơ; nghệ thuật
so sánh, nhân hóa sáng tạo, những liên tưởng độc đáo,… sử dụng rộng rãi đặc sắc
những phép tu từ gợi cảm vốn là quen thuộc trong thơ như so sánh kết hợp với
nhân hóa, ẩn dụ. Vẻ đẹp nên thơ của Hương giang được bộc lộ khi Hoàng Phủ
Ngọc Tường không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy địa lí tự nhiên
của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm
người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là
cảm nhận riêng, độc đáo và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó
chảy vào lòng thành phố thân yêu. Chất thơ của đoạn kí còn thể hiện rõ qua cái tôi
đầy xúc cảm của tác giả. Cảm hứng xuyên suốt trong đoạn trích cũng như trong tác
phẩm là niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ
riêng của con sông xứ Huế. Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm
thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng
văn như một bài ca tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương. Vì thế cái dễ nhận thấy từ
những trang văn là chất thơ, chất trữ tình đậm đà, đằm thắm.
3.3. Lối hành văn hướng nội, xúc tích, lãng mạn và mê đắm
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện vẻ đẹp của dòng sông ở các lớp
trầm tích, văn hóa. Không chỉ cảm nhận vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng mà còn viết về
sông Hương từ góc nhìn lịch sử, khai thác vẻ đẹp anh hùng của con sông từ những
sự kiện còn vang bóng trong tâm hồn mỗi con người Huế và nhìn sông Hương như
một dòng sông khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho thi ca. Lối văn hướng nội xúc
tích, lãng mạn và mê đắm đã làm nên nét riêng rất độc đáo cho kí Hoàng Phủ Ngọc
Tường
Tố Hữu là lá cờ đầu của thơ ca
cách mạng Việt Nam. Các
chặng đường sáng tác của Tố
Hữu song hành
với những chặng đường lịch sử
gian khổ, hi sinh nhưng cũng
đầy những thắng lợi vẻ vang
của dân tộc. Nhận
xét về thơ Tố Hữu, Xuân Diệu
viết: “Tố Hữu đã đưa thơ chính
trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ
tình”. Đọc
những vần thơ đầy tính chính trị
những ta không hề thấy khô
khan, thi nhân đã thổi vào đó
những nhịp điệu
của tâm hồn của một trái tim
nhỏ bé lúc nào cũng rung lên
thổn thức suy nghĩ cho vận
mệnh của quê hương
trong tâm hồn đã tạo ra những
rung động mạnh mẽ, mãnh liệt
trong cảm xúc để những vần thơ
của Tố Hữu
nở hoa trên trang giấy. Những
dòng cảm xúc sâu lắng, thân
thương nỗi nhớ về một mảnh
đất, miền quê đã kết
tinh hội tụ tràn ra để hôm nay
chúng ta có một “Việt Bắc” để
thương để nhớ. Tác phẩm sáng
tác tháng 10 năm
1954 nhân sự kiện lị
trong tâm hồn đã tạo ra những
rung động mạnh mẽ, mãnh liệt
trong cảm xúc để những vần thơ
của Tố Hữu
nở hoa trên trang giấy. Những
dòng cảm xúc sâu lắng, thân
thương nỗi nhớ về một mảnh
đất, miền quê đã kết
tinh hội tụ tràn ra để hôm nay
chúng ta có một “Việt Bắc” để
thương để nhớ. Tác phẩm sáng
tác tháng 10 năm
1954 nhân sự kiện lịch sử:
trong tâm hồn đã tạo ra những
rung động mạnh mẽ, mãnh liệt
trong cảm xúc để những vần thơ
của Tố Hữu
nở hoa trên trang giấy. Những
dòng cảm xúc sâu lắng, thân
thương nỗi nhớ về một mảnh
đất, miền quê đã kết
tinh hội tụ tràn ra để hôm nay
chúng ta có một “Việt Bắc” để
thương để nhớ. Tác phẩm sáng
tác tháng 10 năm
1954 nhân sự inlc ử
Trong cuộc chia ly bịn rịn,
đầy quyến luyến, nhân dân
miền núi lại cất lên
những câu hỏi tu từ gợi nhắc
những kỉ niệm gian khổ nào
ai dễ nguôi quên :
“Mình đi, có nhớ những
ngày
Mưa nguồn suối lũ, những
mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối,
mối thù nặng vai?”
Ở khổ thơ, xuất hiện
một loạt cụm từ có nhớ gợi
cho ta cảm nhận được
tâm trạng của người ở lại -
một tâm trạng quan tâm, lo
lắng không biết : Mình
đi có nhớ những ngày mà
“ta” và “mình” đã sống
chung với lũ, cùng chịu đựng
thời tiết khắc nghiệt “những
mây cùng mù” hay không?
Người ở lại hỏi là để
nhắc nhớ những kỉ niệm,
khơi gợi lại những ngày
kháng chiến gian khổ.
Thiên nhiên Việt Bắc
hiện lên với hình ảnh “mưa
nguồn suối lũ những mây
cùng mù”. Câu thơ chỉ có tám
chữ mà lột tả được tất cả sự
khắc nghiệt của núi
rừng. Cùng với từ ngữ bổ trợ,
nhấn mạnh “những” “cùng”
đã đặc tả được cảnh
thiên nhiên hoang sơ, thời tiết
khắc nghiệt nơi núi rừng Việt
Bắc đó là những
trận mưa nguồn xối xả, là
sương mù dày đặc mang theo
cái lạnh thấu
xương.“Mưa nguồn”, “suối
lũ”, “mây cùng mù” là những
hình ảnh ẩn dụ nói đến
những tháng này vất vả, cực
khổ gian nan, những ngày
cán bộ và nhân dân
Việt Bắc đã phải rút vào rừng
sâu chịu cảnh “ăn tuyết nằm
sương” , “nếm mực
nằm gai” chờ thời cơ đến.
Ngoài việc phải đối mặt với
sự khắc nghiệt, khó khăn của
thiên
nhiên, mình và ta còn phải
đối diện với cuộc sống thiếu
thốn, đầy gian khổ với
miếng cơm chấm muối thể
hiện sự nghèo đói, những
gian khổ và thiếu thốn
của quân và dân Việt Bắc.
Tuy nhiên, họ tạm thời quên
đi những khó khăn ấy
bởi một nhiệm vụ nặng nề, to
lớn đang phải gánh vác. Hình
ảnh hoán dụ mối
thù nặng vai, gợi liên tưởng
đến mối thù sâu nặng của
nhân dân , đó là mối thù
giặc Pháp đang đè nặng lên
đôi vai của dân tộc. Thế mới
biết, quyết tâm của
Việt Bắc, của dân tộc ta cao
độ đến chừng nào! Họ sẵn
sàng quên đi cái riêng,
cái cá nhân dể hòa vào cái
chung, cái cộng đồng lớn.

You might also like