You are on page 1of 27

Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Dàn ý vẻ đẹp trữ tình của sông Đà


Dàn ý số 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân là
một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam).

2. Thân bài

Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc,
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"

"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến".
Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"

→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì
gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi
áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt:
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng
một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông
đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.

3. Kết bài

Khẳng định lại vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà và giá trị nội dung, nghệ
thuật của tác phẩm.

Dàn ý số 2

I. Mở bài

- “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông
Đà.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

- Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả
khắc họa đậm nét trong tùy bút. Nổi bật lên là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông
Đà.

II. Thân bài

* Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Đà

- Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu
văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ
nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.

- Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra
những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.

- So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa
mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.

- Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng
đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc
động trong thực và mơ.

* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh
sống động, ấn tượng sâu sắc:

- Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.

- Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ
ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật
đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc
sống nhiều chiều

* Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống
cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:

- Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về
tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.

- Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.

- Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ
thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

III. Kết bài

Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những
đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài
năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần
của tất cả độc giả chúng ta.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - Mẫu 1


Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang
viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông
Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút
của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và
độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.

“Người lái đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên vùng
núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc. Đặc biệt là trong chuyến đi vào năm 1958, Nguyễn Tuân được sống hòa mình
với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn để
ông sáng tác.

Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của
một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh
ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng
rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn
trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống
- với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như
một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Hình ảnh so sánh “sông Đà như một áng tóc” kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn
dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà
giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng.
Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ
đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng”
thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc
trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp
diễm tuyệt của sông Đà - của người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

“bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực
hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như
cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.

Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện
qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân
về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước
sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không
trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm
và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp
như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông
Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu
xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh
sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi,
của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn
sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến
người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu
văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng
nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.

Tác giả đã quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân
đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân
đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt,
trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong
ánh sáng “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn
Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” - Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ
đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường
đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. Trong
cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy nắng
giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo,
nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi
ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ
đợi người đi xa trở về. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như
lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”
toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Sự hướng nội này càng
làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã
so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở
rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.

Cảnh vật hai bên bờ sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết. Trong cảnh lặng như tờ
của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp
đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một
bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng
bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy
chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy
khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo
thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên. Chất thơ trong đoạn văn viết
về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí
của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc - nơi khởi nguồn cho tình yêu đất
nước.

Đoạn trích được khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và
con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu
cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh
dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.

Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác
phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở
phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà
dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - Mẫu 2


Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất,
ngôi làng đã đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương
thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một
sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của
Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi
trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.

Nếu ví người lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc
réo rắt ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn
văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những
giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con
thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền
thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào
tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sánh.

Các nhà văn khác thường so sánh cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để
làm vạn vật trở nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sánh của
ông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông” gợi đến bao cái
vô hình “ bờ tiền sử”, “ nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm.
Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc.

Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khi tả Sông Đà “loang
loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như
khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là
tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc
nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự
vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “lặng tờ”
của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử
của mấy trăm năm cộng lại.

Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “thèm
được giật mình vì tiếng còi xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn
Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến thế giới khác một cách uyển chuyển
khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm về thơ của
ông “từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm
nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông
như vậy?

Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sánh với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa hay như “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương… Con
sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe
và xúc động, lòng dâng đầy chất thơ. Mơ mộng thay khi nối tiếp những vần thơ bập
bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật chất, thế
giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang
“nhớ thương”, đang “lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe
những tâm tình của cuộc sống?.

Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu
mở đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

trong thơ lục bát. Vần lưng “ tôi trôi” và điệp âm “t” gợi hình ảnh con thuyền nổi bênh
trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo
một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như không trôi, như tình cảm
cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “ thuyền tôi trôi” ấy cứ như một điệp
khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ
hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc.

“Thuyền tôi trôi qua một nương ngô..”, “thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng
như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ
bỗng như thế. Hồn người như tan ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một
dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy dài theo những
câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh
lúc chậm của con sông?

Câu “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những
thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dâng trào. Ngoài câu văn mở
đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “chăm chăm nhìn tôi
lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh
khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “chăm chăm”, “lừ lừ” chỉ trong một vế câu
ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “lững lờ”, xa xôi,
êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một
điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ chở đầy tâm trạng.

Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất:
“lá ngô non đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ
ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa
chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “cỏ
gianh đẫm sương đêm”, “áng cỏ sương” và cả “tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm
hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống.

Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một
ý thơ của Xuân Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có thể hình dung đây là
một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng
người. Mỗi câu văn “đẫm sương” ấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau song tách
bạch rất rõ ràng. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như nhắc nhở bao
huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây
ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba
thanh trắc “nhú”, “mấy”, “ lá”, có một cái gì mềm mại trong “đầu nhung”. Và ấn
tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ngọn cỏ”, “sóng cỏ” nhưng “búp cỏ”, “áng cỏ sương”
thì có lẽ chưa bao giờ.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến
kỳ lạ của thiên nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía
cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm đen cả đoạn
văn – bài thơ của Nguyễn Tuân.

Bài thơ cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh.
Khung cảnh lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “Tiếng cá đập
nước sông đùi mất đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm
hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một sự sống
trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước của cá?

Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn Tuân,
mọi vật đều trở nên hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ một cái diện mênh mang
một điệp khúc xanh của ngô non, áng cỏ, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá.
Nghệ thuật hội họa cổ điển đã được vận dụng, khám phá mọi vẻ thơ ngây của cuộc
sống.

Trong không gian u huyền ấy bỗng tác giả “thèm được giật mình vì một tiếng còi
sương”. Đặt vào hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu,
câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc
(1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ đẹp.

Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát

Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non

Yêu biết mấy những con đường ca hát

Qua công trường mới dựng mái nhà son.

Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất
thực tế của nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xe lửa đã quý, như Chế Lan Viên.

Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.

(Tiếng hát con tàu).

Nhưng “thèm giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm
giác khi được nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì
phẩm giá “thương mình xót xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú
Xương khi “vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng niu thêm một cái giật mình ước

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của Nguyễn Tuân đã
là văn chương mới của một thời đại mới.

Trước Cách mạng, ông đã từng “xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh
trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc, ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và
nhận chân trách nhiệm của mình. Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc
sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “hợp lưu” với lòng người đọc dễ dàng nhờ
những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng
còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “Ngói mới” của Xuân Diệu…
đã góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc
sống mới đã ngấm vào cảnh vật, và con hươu thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương.
Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong tâm tưởng.

Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “Dải sông Đà bọt
nước lênh đênh. Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết
sức trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy
hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề thơ” vào sóng nước Đà
giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như một bạn
đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm,
quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo
chất chứa cảm xúc “nhớ thương”, “ lắng nghe những giọng nói êm êm”.

Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của
sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn
chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng
với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi
người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.

Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà - Mẫu 3


Là người tự do, phóng túng, Nguyễn Tuân quan niệm "đời là một trường du hý", sống
là chơi mà viết cũng là chơi. Đi đã trở thành một lý tưởng, một triết lý sống của ông
ngay từ thời trai tráng trước Cách mạng. Trong "Vang bóng một thời", thời vàng son
mà Nguyễn Tuân nhận thấy có khi là những sinh hoạt bình thường gần gũi xung
quanh con người, do hờ hững mà người ta đã vô tình bỏ quên. Đó là những thú chơi
tao nhã, những nét đẹp cổ truyền của dân tộc Việt Nam như: uống trà ("Những chiếc
ấm đất", "Chén trà trong sương sớm"); uống rượu ("Hương cuội"), chơi đẹp ("Thả
thơ", "Đánh thơ", "Một cảnh thu muộn"); hoa tay đẹp ("Trên đỉnh non tản"), tài nghệ
đẹp ("Chém treo ngành", "Ném bút chì") và nhân cách đẹp ("Chữ người tử tù") ...
những cái đẹp mà con người đã vô tình quên đi và có lẽ đời sau sẽ không biết đến nữa.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Cái đẹp luôn tồn tại muôn đời trong tâm tưởng chúng ta, và cái đẹp của "Vang bóng
một thời" như Vũ Ngọc Phan từng nói: "Cái tiếng vang của thời đã qua, cái bóng của
thời đã qua, mà ngày nay tưởng như văng vẳng". Suốt dọc đường chân trời góc bể, dù
lạ người lạ cảnh, nhà văn vẫn có thể chuyển biến thành "quen người quen cảnh". Ấy là
nhờ tài quan sát, tỉ mỉ trong từng khâu nhìn ngắm, cảm nhận, ghi chép của ông. Nhà
văn nguyện được đi mãi trên con đường vô định: "Tôi sống với ngoài đường, với
những con người đi trên đường, với cái luân lý của người khách bộ hành" (Chiếc vali
mới). Tâm hồn cô đơn, bất lực và quẩn quanh của ông trước Cách mạng được bộc lộ
rõ trong "Thiếu quê hương", khi nhân vật Bạch chỉ luôn thèm muốn được đổi chỗ,
rong ruổi trên những con đường dài hun hút, không có chỗ bắt đầu mà cũng chẳng có
điểm kết thúc. Họ tha lê cái đầu rỗng tuếch, cái thân tàn tạ trên đường đời, cái phẫn
uất ngàn năm không gột rửa, chỉ biết lấy xe dịch làm cứu cánh.

Lướt dài trên hành trình của Nguyên Tuân như thế để mỗi người nhận ra rằng, nhà văn
đã "lột xác" thế nào trong "Tùy bút sông Đà" sáng tác năm 1960, khi từ hình ảnh một
"Tây Bắc đầy của chìm, của nổi, với những phong cảnh bao la một niềm lãng mạn xã
hội chủ nghĩa" với "Với tất cả cái nhộn nhịp tươi trẻ của tất cả con người làm ruộng xã
hội chủ nghĩa, làm đường xã hội chủ nghĩa" đã hiện ra dài hun hút trên trang văn sau
Cách mạng. Và tiêu biểu trong đó không thể không kể đến tùy bút "Người lái đò sông
Đà" với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội song cũng rất trữ tình, thơ mộng.

Nhà văn Pautopxki từng khẳng định: "Nhà văn là người dẫn đường đến xử sở của cái
đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp." Quả
thật vậy, Nguyễn Tuân là một nhà văn chân chính khi dẫn người đọc đến với vẻ đẹp
của dòng sông Đà, không chỉ hung bạo dữ dội mà còn rất trữ tình, thơ mộng.

Hình tượng con sông Đà trữ tình hiện lên với ba góc nhìn. Đầu tiên là góc nhìn từ trên
cao nhìn xuống khi đi tàu bay, tiếp đến là góc nhìn của người đi rừng lâu ngày gặp lại
sông Đà và của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu; và cuối cùng là góc nhìn của
một cố nhân, tình nhân. Nhà văn đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật,
một tác phẩm hội họa mà tạo hóa ban tặng tô điểm cho đất nước, ông khám phá dòng
sông ở phương diện thẩm mỹ với phong cách tài hoa. Dù ở góc nhìn nào, nhà văn
cũng đều thể hiện được kiến thức phong phú của mình trên nhiều lĩnh vực: văn hóa,
điêu khắc, điện ảnh, lịch sử, hội họa, văn học,... Mỗi câu văn tuôn ra đều giống như
một áng tóc dài tha thiết, mượt mà và êm ả đến độ người ta phải bật thốt lên vì tài
năng văn chương của người nghệ sĩ họ Nguyễn.

Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều mà
sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người thiếu nữ đang khao khát thanh xuân
này. Nguyễn Tuân đã nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của con sông Đà tựa như một áng

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

tóc trữ tình buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ. Đẹp lắm, duy dáng lắm! Nhà
văn sử dụng câu văn dài, ít ngắt quãng để gợi tả độ dài của sông Đà và mái tóc của
người thiếu nữ. Đồng thời sử dụng từ ngữ gợi tả dòng chảy êm đềm của sông Đà
mang cái linh hồn của Tây Bắc "Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc cuồn cuộn mùi khói mèo đốt nương
xuân". Điệp ngữ "tuôn dài' cùng nhịp văn mềm mại như ru tạo nên vẻ đẹp uyển
chuyển, thướt tha của dòng sông. Phép so sánh dòng sông như một "áng tóc trữ tình"
là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh ấy đầy chất thơ, chất họa, chẳng
những phô ra được vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng, kiêu sa, kiều diễm của dòng sông Đà
mà còn bộc lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Dòng Đà giang giờ đây
tựa như một nàng thiếu nữ xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa
mùa hoa ban, hoa gạo dưới vẻ đẹp bồng bềnh của mây khói. Thần sắc của thiên nhiên
nơi đây được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ đẹp rất riêng, rất lạ, rất thơ. Khói núi Mèo
mà người đồng bào đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến người ta nao lòng đến lạ.
Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà hung bạo đến đâu cũng có lúc kiều diễm như cô
gái trẻ bùng cháy sức xuân trong khoảnh khắc thanh xuân. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng,
trữ tình quyến rũ của đất trời đã ùa về thức dậy trong câu văn của Nguyễn Tuân -
"Người thợ kim hoàn của chữ" (Hoài Thanh)

Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà còn được thể hiện ở màu sắc đặc biệt của dòng
sông. Mê đắm trước vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra sự thay đổi và
biến chuyển của màu nước trên sông. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp lạ lùng, quyến rũ
như một mỹ nhân với những điệu nghệ làm say đắm lòng người. Sông Đà luôn làm
mới, làm đẹp với chính mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa một
vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đã say sưa mê đắm, chiêm nghiệm vẻ đẹp của con sông
này để cất lên những trang viết như thứ men say gửi đến bạn đọc. Con sông Tây Bắc
thật bay bổng và lãng mạn biết bao! "Tôi đã say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông
Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống sông Đà", lúc này đây người
nghệ sĩ ấy đã phó amwjc thả trôi tâm hồn mình cùng với sóng nước sông Đà, chính vẻ
đẹp của mây trời Tây Bắc bung nở hoa đã gieo nên những hạt mầm xanh tốt tạo nên
cái sắc riêng không trộn lẫn của thiên nhiên nơi đây Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường
nhìn thấy dòng sông Hương với ánh nắng ban mai rực rỡ tạo nên cái sắc "sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím", tạo nên từ cảnh sắc thiên nhiên đôi bờ và sự phản quang của đất
trời vạn vật để tạo nên một đóa hoa phù dung mĩ miều, thì Nguyễn Tuân lại viết về
sông Đà với những cảm quan nhạy bén.

Mùa xuân nước sông Đà xanh ngọc bích chứ không "xanh màu xanh canh hến của
nước sông Gâm, sông Lô". Cũng là xanh đấy, nhưng xanh ở đây là sự kết đọng của vẻ
đẹp toàn bích, trong sáng, xanh một màu xanh gợi cảm, trong lành, rung rinh trong
nắng sớm mà lấp loáng bóng cây rợp quang dòng sông. Sắc xanh ấy phải chăng là cái

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

điệu xanh của xanh cây, xanh rừng, xanh núi, xanh mây trời, xanh như cái sức mạnh
kì diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho thiên nhiên hùng vĩ nơi đây. Mùa thu, nước sông
Đà "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"; "lừ lừ cái màu đỏ giận
dữ ở một người bất mãn bực bội mỗi độ thu về'. Câu văn sử dụng phép so sánh đặc sắc
khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của màu nước sông Đà. Lần đầu tiên
có người dùng màu sắc của da người để miêu tả vẻ đẹp của dòng sông. Cái màu đỏ "lừ
lừ" ấy có lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới thấy, mới cảm mới viết nên được. Nó chỉ có thể tạo
nên từ bàn tay của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác. Đặc biệt, phải khẳng định rằng,
dù có đa sắc màu nhưng nước sông Đà chưa bao giờ màu đen như bọn "thực dân Pháp
đã đè ngửa con sông ra đổ thức mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu". Qua
những câu văn miêu tả về màu nước sông Đà, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được
cái trữ tình, thơ mộng của dòng nước còn cả cái dữ dội ngàn đời của con sông nơi đầu
tổ quốc. Nguyễn Tuân đã dựng lên cả một thế giới thiên nhiên rộng mở, tươi đẹp sống
động và giãy giụa trên trang giấy, những trang viết ấy tựa như "một bức họa để cảm
nhận thay vì để ngắm".

"Con sông Đà gợi cảm" - câu văn như một lời khẳng định chắc chắn. Qua góc nhìn
của người đi rừng lâu ngày gặp lại sông Đà, của người trôi thuyền trên sông phía hạ
lưu và góc nhìn của cố nhân, sông Đà hiện lên bởi những hình ảnh của quá khứ hiện
tại và tương lai với điểm nhìn cận cảnh. Trong tầm mắt người thưởng ngoạn, dòng
sông hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, "đối với mỗi người, sông Đà gợi một cách". Và đối
với nhà văn, đã có lần ông nhìn sông Đà như một cố nhân, như một người bạn cũ lâu
ngày gặp lại. Nhà văn kể rằng: chuyến ấy, ông đi rừng núi cũng hơi lâu, và khi về,
nhìn thấy sông Đà loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ
chạy, từ xa lại gần, ông háo hức như tìm lại được người tri kỉ cũ. Một màu nắng tháng
ba Đường Thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" hiện lên trang văn, nhưng cũng
như một bức vẽ nắng sinh động, ta cũng như thấy vui khi nghĩ đến cảnh tượng nắng
lấp lánh trải lên nước sông xanh biếc. Và ta lại chẳng lạ gì khi cảm nhận được niềm
vui sum vầy "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Lòng ta cũng rộn rã "giòn tan" như nắng, lòng
ta cũng như đi vào cơn mộng đẹp vô ngần trong giấc say. Và khi ấy, cảm giác của
người đi xa về nhận mặt từng cảnh vật, từ "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn
bươm bướm trên sông Đà" thật sự khiến người nghệ sĩ phải đắm say: "đúng thế, nó
đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dù người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh
lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy". Sông
Đà đã trở thành người bạn thủy chung, nặng tình nặng nghĩa luôn đợi người lữ khách
Nguyễn Tuân.

Leonit Leonop đã từng khẳng định: "Một tác phẩm phải là một phát minh về hình thức,
một khám phá về nội dung." Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ của con sông, Nguyễn Tuân còn

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

đưa người đọc lạc vào thế giới cổ tích, thế giới tiền sử. Câu văn "thuyền tôi trôi trên
sông Đà" toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng
đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: "Hình như từ đời Trần, đời
Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi." Sự yên tĩnh, "lặng tờ" ấy
càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác
giả đã so sánh "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích xưa". Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở
rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thủy của buổi sơ khai.
Hai chữ "lặng tờ" được nhắc đi nhắc lại tới hai lần theo kiểu trùng điệp rất đặc thù của
thơ, không gian vắng lặng nhưng không thể "lặng tờ" hơn được nữa. Du khách đang đi
thuyền trên quãng sông này nhưng lại có cảm giác mình đang đi ngược về quá khứ xa
xôi.

Theo dòng trôi của con thuyền, người đọc đi vào thế giới hoang sơ, tĩnh mịch, bao
trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô "nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa", đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy,
nhưng thật vô cùng ngạc nhiên "mà không một bóng người". Chỉ có đồi gianh nối tiếp
đồi gianh trùng điệp với những "nõn búp" ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện
trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên
nhiên sông Đà đượm màu "hoang dại" và "cổ tích". Không phải chú nai vàng ngơ
ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào mà ở đây chỉ có: "Cỏ gianh đồi núi đang
ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm". "Bờ
sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa".
Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng
hóa cảnh vật. "Bờ tiền sử", "nỗi niềm cổ tích xưa" là chữ của nhà văn bậc thầy ngôn
ngữ này. Nhà văn không dựa vào trực giác để so sánh, ông đã dùng tưởng tượng để
tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kỳ thú, gieo vào tâm hồn
người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp "hoang dại" và hồn nhiên"
của Đà giang. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh con sông Đà trong sự liên tưởng đến
thơ Tản Đà "Dải Đà bọt nước lênh đênh/ Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình" của một
người tình nhân chưa quen biết càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có
linh hồn, giàu sức hút. Áng văn sông Đà thơ mộng trữ tình tựa như một đoạn phim
chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn.

Quãng hạ nguồn với khúc sông êm đềm, trở thành dòng sông thi ca với cái nắng tháng
ba Đường thi, với cái nắng giòn tan sau ki mưa dầm, với cả cái nắng rực rỡ đã chiếu
rọi "xuyên tim" những người đọc tùy bút của Nguyễn Tuân. Người ta đã không thể
nhìn ngắm hết cái vẻ đẹp trù phú của sông Đà đến thế nếu không được nhà văn mở
đường đi tìm cái đẹp, dù cái đẹp ấy còn hoang sơ của đất trời Tây Bắc.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - Mẫu 4


Sông Đà đâu chỉ hung bạo, mà còn là một dòng sông tuyệt vời thơ mộng. Đặc biệt, từ
mạn Thác Bờ về xuôi, Sông Đà chỉ còn vẻ dịu dàng như bất kì một dòng sông nào ở
vùng đồng bằng. Bởi vậy, bên cạnh tính hung bạo, Nguyễn Tuân rất chú trọng khắc
họa tính trữ tình của dòng sông này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng
tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà
như những dòng thơ.

Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của dòng sông, trước hết Nguyễn Tuân miêu tả
sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu: “Con Sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”. Có thể coi đây là một bức tranh tổng thể về Sông Đà, lúc đầu chảy ngoằn
ngoèo giữa điệp trùng núi đá và đại ngàn Tây Bắc nhưng khi về dần đến miền trung
du, Đà giang chảy êm ả thẳng dòng?

Tác giả ngắm nhìn sông Đà ở nhiều thời gian, nhiều không gian khác nhau. Với tình
cảm trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dòng
sông biến đổi theo từng mùa. Xuân về, Đà giang xanh ngọc bích, tức là màu xanh rất
đẹp, vừa trong xanh lại vừa óng ánh, chứ không xanh như màu xanh canh hến. Khi thu
sang, nước Sông Đà một vẻ đẹp riêng.

Tác giả đã dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sông Đà để tôn thêm tính trữ
tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất
thơ. Nhịp điệu câu văn lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp:
“Bờ Đông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” để diễn tả niềm sung sướng
đang trào dâng trong lòng tác giả, lúc thì chậm rãi, như dãi ra để diễn tả cái vắng lặng
rất nên thơ của con sông này: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô
non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hình ảnh
một bà tiên sứ, một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc họa được
vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên nhiên. Với cách liên tưởng và ví von
ấy, dường như Sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua bao tháng
năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc.

Qua phân tích trên, có thể thấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh con sông Đà ở
đây với những nét đẹp đầy thơ mộng, khác hẳn con sông Đà nơi thượng nguồn hung
bạo.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - Mẫu 5


Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác
phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống. Và tùy bút “Người lái đò sông
Đà” là một tùy bút như vậy. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với
hai nét tính cách tiêu biểu, đó là hung bạo và trữ tình, thơ mộng. Với sự hiểu biết sâu,
gắn bó và niềm đam mê cháy bỏng bừng vào trang văn, Nguyễn Tuân đã biến dòng
sông của tự nhiên thành dòng sông nghệ thuật, thành một sinh thể có tâm hồn tính
cách, trước hết là những đẹp thơ mộng, trữ tình được tái hiện qua ngòi bút của Nguyễn
Tuân làm say mê bao trái tim bạn đọc.

Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều tầm nhìn khác nhau, lúc
thì nhìn từ trên cao xuống - lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng ra
và đi thuyền trực tiếp trên sông nước. Trước hết là cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp
của sông Đà khi nhìn từ trên cao xuống, tác giả so sánh từ trên máy bay sông Đà “như
chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”, phép so sánh cụ thể hóa dáng hình mềm mại của sông
Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn trên núi rừng Tây Bắc. Tác giả tiếp
tục sử dụng trùng điệp các đối so sánh liên hoàn để tô đậm thêm vẻ đẹp muôn hình
muôn vẻ muôn sắc của dòng sông, “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai…”. Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều dài sông Đà
chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc. Phép so sánh sông Đà như một áng
tóc trữ tình lại nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm mại óng ả, mượt mà, duyên dáng
uyển chuyển, yêu kiều, hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời
ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ
hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông. Động từ “bung nở” là một động từ mạnh
đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết
làm tăng thêm cảm nhận về sự vận động của sắc màu cứ xôn xao rạo rực rồi bừng lên
lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông đẹp tuyệt diệu cuốn hút lòng người. Những phép
tu từ giúp Nguyễn Tuân vừa tả sông Đà lại vừa gợi lên vẻ đẹp lộng lẫy giống như một
cô gái Tây Bắc e ấp tình tứ. Nguyễn Tuân phải rất yêu sông Đà thì mới có cái nhìn
đắm đuối say mê xuyên qua làn mây mùa xuân thấy “mùa xuân dòng sông xanh ngọc
bích”, phép so sánh tài hoa làm nổi bật màu nước sông Đà vừa có sắc xanh lại vừa có
ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành
một khối ngọc bích khổng lồ. Còn khi qua làn sương mùa thu thì nước sông Đà màu
đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”, gợi cho ta cảm giác nước sông
Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu
thương tự hào. Khi đi từ rừng ra nhà văn lại thấy nước sông Đà chói lóa như trẻ con
nghịch miếng gương chiếu vào mặt trời, ánh sáng này cũng cho ta cảm nhận rằng

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

nước sông Đà rất trong, phản chiếu ánh mặt trời chói lóa gợi cảm giác ấm áp. Trên bờ
bãi sông còn có sắc màu lộng lẫy của chuồn chuồn, bươm bướm.

Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt
sông ở những quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính
huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh
lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh”, “những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai
biến mất”, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dòng sông
vừa đẹp vừa giàu.

Với đôi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên
nhiên sông Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dòng sông lúc thì như một cố nhân,
lúc lại đắm say như một tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi xa thì nhớ,
gặp lại thì vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa
dầm” có cảm giác đằm đằm, ấm ấm rất hạnh phúc. Tài hoa của Nguyễn Tuân đã
truyền đến cho người đọc bao yêu thương trìu mến để sông Đà mãi sống trong lòng
người đọc.

Thành công xuất sắc của tùy bút “Người lái đò sông Đà” đó là bức tranh thiên nhiên
rất thực hòa quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân.
Những đặc sắc nghệ thuật với rất nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú
ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dòng sông Đà của thiên nhiên vĩnh viễn trở thành
dòng sông nghệ thuật.

Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - Mẫu 6


Nguyễn Tuân là một con người hết mực tài hoa, uyên bác. Dù chỉ viết văn nhưng ông
lại có sự am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh…
Biết vận dụng con mắt nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác để tăng cường khả năng
quan sát, biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngôn từ. Và “Người lái đò Sông Đà” là một
tác phẩm đỉnh cao, thể hiện sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ, cũng như những
quan sát tinh tế của Nguyễn Tuân.

Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác
nhau mang lại ấn tượng độc đáo. Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà ở nhiều
góc độ tầm nhìn khác nhau, có lúc ông quan sát con sông từ trên cao xuống tức là lúc
đi máy bay trên sông Đà, lúc thì tầm nhìn của ông lại gần hơn khi ông đi thuyền trực
tiếp trên con sông. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà thật “lắm bệnh lắm chứng,
chốc dịu dàng đấy, rồi chuộc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Con Sông Đà hùng
vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và
thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt
khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp
trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình - một nét
tính khác của Sông Đà được Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang đậm
chất chữ tình.

Từ trên tàu bay nhìn xuống “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc,
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”. Phép so sánh
sông Đà như một áng tóc trữ tình như nhấn mạnh hình dáng dòng sông mềm mại,
mượt mà, lại duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều như áng tóc của người con gái. Cùng
với hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù
khói núi mèo đốt nương xuân, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp
tình tứ của dòng sông.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu
sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh
canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng,
xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi
lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như
da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn
bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người
bầm đi vì rượu bữa” thật độc đáo. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế
nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ
mộng chân thực của dòng sông.

Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, tác giả ví sông Đà như
một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Mượn một câu thơ trong bài
thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” -
“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” của Lý Bạch, Nguyễn Tuân dường như đã
ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên
tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn
nhiên thanh bình. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà,
chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà
bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người
ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Nguyễn Tuân
còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai
bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu
đang ngốn búp cỏ gianh” hiền lành như muốn hỏi ông khách sông Đà…, những tiếng
cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc
rơi thoi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa giàu. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm
chủ vẻ đẹp của chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng
ngoạn cái đẹp.

Ngòi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ
đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa. Màu
sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Qua đôi mắt người lái đò, hay là đôi
mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dòng cảm xúc thật lạ kỳ, thần tiên và mộng mơ
quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều toát lên vẻ đẹp
không phải nơi nào cũng có được. Và sông Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người đọc
phải ngỡ ngàng.

Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - Mẫu 7


Ham thích xê dịch, tôn thờ cái đẹp độc đáo như một thứ tôn giáo, cả cuộc đời Nguyễn
Tuân say mê tìm kiếm cái đẹp muôn màu của thiên nhiên, cuộc sống, con người.
Trong hành trình khám phá bất tận ấy, Nguyễn Tuân đã gặp sông Đà như một mối
duyên kì ngộ… Bởi sông Đà mang vẻ trong mình vẻ đẹp lạ thường, vừa vô cùng hung
bạo vừa rất đỗi thơ mộng. Tất cả vẻ đẹp độc đáo, quyến rũ đến mê hồn của sông Đà đã
được Nguyễn Tuân phóng bút trong “Người lái đó sông Đà” - một thành quả đẹp mà
nhà văn thu hoạch trong chuyến đi gian khổ mà đầy hứng khởi tới miền Tây Bắc xa
xôi. Là người nghệ sĩ suốt đời săn tìm cái đẹp, hứng thú với những cái phi thường,
khác lạ, đối nghịch, trái khoáy, Nguyễn Tuân không chỉ kì công miêu tả vẻ độc đáo
của sông Đà mà còn say mê đắm đuối vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của nó. Nhiều lần,
Nguyễn Tuân đã đến với sông Đà, bước chân phiêu lãng của in dấu trên mọi nẻo bến
bờ. Mỗi lần đến với dòng sông là thêm một phát hiện về vẻ duyên dáng của con sông
Tây Bắc.

Từ trên tàu bay nhìn xuống, Nguyễn Tuân thấy “Con sông Đà tuôn dài như một áng
tóc trữ tình. Đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Điệp từ “tuôn dài” cùng
nhịp văn mềm mại như du như ngân đã gợi ra vẻ êm đềm lững lờ thướt tha của sông.
Phép so sáng dòng sông như một “áng tóc trữ tình” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa này chẳng những phô ra vẻ dịu dang, duyên dáng
kiêu sa, kiều diễm của sông Đà mà còn bộ lộ chất phong tình, lãng mạn của người

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

nghệ sĩ. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của thiếu nữ, một nữ nhân xuân sắc
đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa, hoa gạo và vẻ bồng
bềnh mây khói. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, quyến rũ của đất trời đã ùa về thực dậy
trong câu văn Nguyễn Tuân. Hình ảnh so sáng của Nguyễn Tuân gợi ta nhớ đế dòng
sông trữ tình, diễm lệ à bóng dáng của những dòng sông ấy đã in sâu trong những
trang văn, trang thơ. Đó là dòng sông Hương trong nét vẽ của Hoàng Phủ Ngọc Tường
như “người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng duyên dáng”. Đó là “con sông
duyên dáng như áng tóc huyền dưới chân núi Dục Thúy” trong ngòi bút thơ Nguyễn
Trãi. Mê dắm vẻ đẹp kiều diễm của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra mĩ nhân
sông Đà luôn muốn làm đẹp với mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa
một sắc. Mùa xuân nước sông xanh màu xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ.
Chưa bao giờ sông Đà có màu đen xấu xí như cách thực dân Pháp đã từng nói về nó.
Chỉ bằng vài nét phác họa, chấm phá, thiên nhiên Tây Bắc mà linh hồn của sông Đà
hiện lên như bức họa nên thơ quyễn rũ.

Với Nguyễn Tuân, đi rừng lâu này gặp lại thấy con sông Đà đằm đằm ấm ấm như một
“cố nhân”. Gương mặt cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ lóe lên màu nắng tháng ba
Đường: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Gặp lại cố nhân, người nghệ sĩ không
giấu được niềm hân hoan, háo hức: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn
tan sau kì mưa dần, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Chỉ bằng vài nét chấm phá
mà diện mạo của cố nhân bỗng hiện lên sống động, tâm trạng, cảm xúc của người
nghệ sĩ cũng chan chứa, tràn khắp câu văn.

Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của Đà giang, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao
vẻ nên thơ, nên họa của dòng sông. Xuôi về hạ lưu, dòng sông lững lời, êm trôi như
nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên phía thượng nguồn Tây Bắc. Cảnh
ven sông ở đây lặng tờ, cổ kính, hoang sơ. Tưởng như “từ đời Lí, Trần, Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Con sông Đà dường như chỉ biết tồn tại trong
không gian mà không hề biết đến thời gian. Thời gian mải miết trôi, sông Đà vẫn mãi
vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dại bở tiền sử, bờ sông hồn nhiêu như nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa. Hai bên bờ sông tịnh không một bóng người. Chỉ có những nương ngô mới nhú
lên những là ngô non đầu mùa, những đồi cỏ gianh đang ra nõn búp. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng, con hươu thơ ngẩng đầu
nhung khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn ông khách sông Đà mà như muốn hỏi rằng:
“Có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng cói sương?”. Vạn vật như đang chìm vào
cõi mộng mơ. Dưới lòng sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt lên bụng
trắng như bạc rơi thoi. Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ
mềm mại, du dương, như nét vẽ thanh nhẹ, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt dào, chất thơ,
chất họa, vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như những thước phim huyền ảo.
Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế giới cổ tích thần tiên đầy mơ mộng.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Không phải đến “Người lái đò sông Đà” dòng sông Đà mới được đi vào văn chương
nghệ thuật. Mà từ lâu, sông Đà đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho cá văn nghệ
sĩ. Thế nhưng, chỉ dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, vẻ đẹp hoang dại
mà thơ mộng, bí ẩn mà diễn lệ của con sông Tây Bắc mới thực sự hiện ra, nổi hình,
nối sắc, mới trẻ nên có thần, có hồn và lay động người đọc. Khám phá vẻ đẹp sông Đà
trong trang văn Nguyễn Tuân, ta mới thêm thấm thía chân lí nghệ thuật: “Thế giới
không phải được tạo lập một lần mà mỗi một lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là
một lần thế giới lại được tạo lập”.

Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà - Mẫu 8


Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định rằng:
“Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. “Người lái đò sông Đà” rất tiêu
biểu cho phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nổi bật trong tác phẩm là
hình tượng con sông Đà với nét đẹp thơ mộng, trữ tình.

Trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát qua câu văn: “Con Sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân”. Hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài” mở ra trước mắt
người đọc một con sông dài vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh của núi rừng.
Đặc biệt là cách kết hợp từ rất độc đáo, từ “áng” thường được sử dụng để nói về áng
thơ, áng văn. Nhưng ở đây, Nguyễn Tuân lại sử dụng là “áng tóc trữ tình” - sông Đà
giống như một người thiếu nữ trẻ trung với mái tóc dài thật đẹp đẽ. Điểm lên đó là
những bông hoa gạo đỏ rực hai bên bờ sông - khiến ta hình dung rằng mái tóc như
được trang trí với hoa ban trắng tinh, họa gạo đỏ rực. Một vẻ đẹp tràn đầy sức sống.

Không chỉ vậy, vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân miêu tả qua màu
sắc của nước sông: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm
Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn
Tuân giống như một người họa sĩ, đang kiên nhẫn ngắm nhìn sự thay đổi từ dòng
nước sông Đà để vẽ nên tác phẩm nghệ thuật của mình. Cách miêu tả dòng nước sông
Đà của nhà văn đầy sáng tạo. Vào mùa xuân, nước sông mang màu “xanh ngọc bích” -
vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian
khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Đến mùa thu thì nước
sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” gợi cho ta cảm

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

giác nước sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú
gọi bao yêu thương tự hào. Nhưng nước sông Đà không có màu đen như “thực dân
Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu,
rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ” - câu văn không chỉ nói về màu nước sông mà
còn kín đáo gửi gắm tấm lòng tự yêu nước của nhà văn.

Từ không gian bao quát - trên cao nhìn xuống, Nguyễn Tuân đưa người đọc ngắm
nhìn sông Đà ở không gian cụ thể - nhìn gần trực diện. Tác giả ví con sông giống như
“một cố nhân” - người bạn cũ, từng rất thân thiết đã lâu không gặp, nay được gặp lại
cảm thấy vui mừng khôn xiết. Để rồi, khi bắt gặp ánh nắng, nhà văn cảm nhận được
vẻ đẹp mang đậm dấu ấn cổ điển của Đường thi: “Yên ba tam nguyệt há dương châu”.
Đặc biệt là những câu văn diễn tả được niềm vui của tác giả khi gặp lại sông Đà: “Bờ
sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con
sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng”. Cách so sánh độc đáo cùng với điệp ngữ “sông Đà” bộc lộ niềm vui khôn xiết
- có cái hạnh phúc nào bằng sau những ngày mưa dầm được nhìn thấy ánh nắng ấm áo,
có cái hạnh phúc nào bằng được mơ lại giấc mơ đẹp đứt quãng. Niềm hạnh phúc khi
bắt gặp sông Đà cũng giống như vậy. Và dòng sông thì vẫn đang chờ đợi người bạn tri
kỷ đi xa trở về.

Đoạn văn tiếp theo tiếp tục khắc họa vẻ đẹp trữ tình của con sông: Với câu thơ
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu văn toàn thanh bằng đọc lên nghe thật nhẹ nhàng,
gợi sự thanh bình, sự tĩnh lặng. Nguyễn Tuân tiếp tục so sánh “bờ sông hoang dại như
một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn khéo
léo dùng không gian để gợi mở thời gian. Hình ảnh “một bờ tiền sử” hay “một nỗi
niềm cổ tích thời xưa” nhằm thể hiện vẻ đẹp hoang sơ của con sông.

Cùng với đó, Nguyễn Tuân còn khắc họa bức tranh thiên nhiên hai bên bờ sông Đà.
Nhà văn đã vẽ lên một khung cảnh đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô
non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp”. Cùng với “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Bức tranh
thiên nhiên lúc này giống như một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp. “Thỉnh thoảng, con
hươu thơ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn ông khách sông Đà mà
như muốn hỏi rằng: Có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng cói sương. Dưới lòng
sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi thoi”.
Dòng sông hiện lên thật nhẹ nhàng, quyến rũ.

Con sông Đà qua cái nhìn của Nguyễn Tuân không chỉ là một con sông hung bạo, dữ
dội. Mà nó còn mang nét đẹp đầy thơ mộng, nhẹ nhàng. Hình ảnh sông Đà là một
trong những sáng tạo thể hiện phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Phân tích vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - Mẫu 9


Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học.
Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và
phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945.
Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng những
hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân
với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống,
cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được.

Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của
Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con
người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường
nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc
họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua
hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca
ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người
lái đò sông Đà.

Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì chẳng có gì đáng để tác giả
yêu quý, chính dòng sông này lại mang vẻ đẹp khác biệt vô cùng thơ mộng, trữ tình
làm người ta xao xuyến: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đến đây, Nguyễn Tuân giúp bạn
đọc hình dung ra con sông Đà như một người thiếu nữ của Tây Bắc với mái tóc tuôn
dài giữa núi rừng mộng mơ mang màu sắc thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô.
Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.

Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu”, còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ
mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô
nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.

Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân
say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên
nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn
đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác
“ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm
đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người
đón nhận.

Phân tích vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà - Mẫu 10


Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ – “suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp” (Gs.
Nguyễn Đăng Mạnh). Tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người
và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu
cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên
hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và
say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc. Đoạn văn ta sắp phân tích sau đây là đoạn văn
tiêu biểu cho vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đó của Đà giang.

Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” được trích trong tùy bút sông Đà (1960). Tác phẩm
này là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng mà Nguyễn Tuân đã đến với Tây Bắc. Tây
Bắc hùng vĩ mà dạt dào chất thơ đã tạo ấn tượng cho nhà văn, nhất là con sông Đà.
Nguyễn Tuân sau khi trở về Hà Nội đã bắt tay vào sáng tác tùy bút Sông Đà. Tác
phẩm nhanh chóng đến với bạn đọc và được đón nhận nồng nhiệt. Tùy bút đã thật sự
gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi chất liệu ngôn từ phong phú và đa dạng. Nhà
văn đã huy động cả kho tàng tiếng Việt, cả nhiều ngành nghề, lĩnh vực để tái hiện một
sông Đà hung bạo, trữ tình và một người lái đò mang cốt cách nghệ sĩ.

Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của
một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh
ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng
rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích
tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên cao nhìn
xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà
kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn
dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà
giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ
đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng”
thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc
trữ tình”. Nguyên cả cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ
mộng của dòng sông. Cảnh vì thế mà vừa thực lại vừa mộng. Hai chữ “ẩn hiện” càng
tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của
người đàn bà kiều diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy
“cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người
đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa
gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân. Sự nhân cách hóa đó làm sông Đà
gợi cảm biết bao!

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc
thật bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà,
tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp
của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng
Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù
dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo
mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến
của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc –
một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa
thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so
sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung
được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân
cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội
ngàn đời của con sông Tây Bắc.

Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để cho
ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì
nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự
hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng
“lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo
Nhiên đi Quảng Lăng” – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi
của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả
được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy
nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh
độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng
phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm
tĩnh chờ đợi người đi xa trở về.

Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ
tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo
cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của những buổi
đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ
và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so
sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ
đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.

Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng
như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một
vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không
một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn
tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật
đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều
ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo
thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào nguyên. Chất
thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích
ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi
nguồn cho tình yêu đất nước.

Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con
sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh…bao nhiêu cảnh
bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng
sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.

Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên
tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến
thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống
mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

Sông Đà là dòng sông của Tây Bắc, dòng sông với trữ lượng thủy điện lớn nhất cả
nước. Đó cũng là một dòng sông hiểm nguy rình rập với “ trăm bảy cái thác, trăm ba

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

cái ghềnh “. Nhưng đó cũng là một dòng sông lai láng chất thơ trong cảm nhận của
Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một
tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông
ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi
mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông
“hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Phân tích nét trữ tình của sông Đà - Mẫu 11


Nguyễn Tuân được biết đến là nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch. Ở những tác phẩm
của ông ta nhận thấy rõ sự thay đổi trong phong cách văn chương qua từng giai đoạn,
đặc biệt là tác phẩm Người lái đò sông Đà. Tác phẩm không chỉ mang đến cho bạn
đọc vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của con sông Đà mà còn nêu lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ
tình của nó.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà với nhiều góc độ. Đầu tiên là góc từ trên cao nhìn
xuống, con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo. Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa đã
phô ra vẻ dịu dàng, duyên dáng kiêu sa, kiều diễm của sông Đà và bộ lộ chất phong
tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Sông Đà mang dáng vẻ của thiếu nữ, một nữ nhân
xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa, hoa gạo và
vẻ bồng bềnh mây khói. Mùa xuân màu nước xanh màu ngọc bích, khác với sông
Gâm, sông Lô màu xanh canh hến. Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa"

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì
gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi
áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt:
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.
Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng
đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc
động trong thực và mơ.

Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng
một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông
đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có. Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa,
tinh tế. Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp
sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước.

Tổng hợp: Download.vn


Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Tác phẩm là một áng văn tiêu biểu của Nguyễn Tuân. Qua ngòi bút tài tình của ông,
dòng sông Đà hiện lên mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình vô cùng đáng yêu, dịu dàng và
cũng rất xinh đẹp. Tác phẩm đã góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm
giàu đẹp, phong phú hơn và để lại nhiều giá trị, bài học cho thế hệ mai sau.

Tổng hợp: Download.vn

You might also like