You are on page 1of 62

NGƯỜI LÁI ĐÒ TRÊN SÔNG ĐÀ

(NGUYỄN TUÂN)
I. Khái quát
1. Tác giả
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Nói đến ông người ta nghĩ luôn đến một
cây bút rất mực tài hoa và độc đáo. Nền văn học hiện
đại của nước ta nếu không có Nguyễn Tuân sẽ mất đi
một màu sắc, một hương vị đậm đà không gì có thể
thay thế được.
- Ni – cu - lin nhà văn, nhà lí luận và phê bình của
nước Nga đã nói: “Nguyễn Tuân là bậc thầy của ngôn
ngữ sống động”.
+ Ông là tín đồ của cái đẹp, là nhà văn của chủ
nghĩa xê dịch, ông coi đời là một chuyến đi và đi là hạnh
phúc: “khi tôi chết hãy thuộc da tôi làm một tấm va li”
(Nguyễn Tuân)
+ Phong cách: nói đến Nguyễn Tuân là nói đến
một cây bút khơi sáng lại nguồn tình yêu đã chìm khuất
và nhắc nhớ đến một vùng trời xôn xao của thanh âm
ngôn ngữ. Hành trình vào tác phẩm của Nguyễn Tuân
phải đi thật chậm để cảm nhận bằng mọi giác quan về
cái đẹp có thể bị chìm khuất hay bị choáng ngợp như
một cung điện tráng lệ đầy màu sắc diễm ảo. Phong
cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ
“ngông” thể hiện phong cách này mỗi trang văn của
Nguyễn Tuân đều cho thấy sự tài hoa và uyên bác, mỗi
nhân vật dù làm nghề gì cũng đều là nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình và mọi sự vật đều nhìn ở phương diện
thẩm mĩ.
2. Tác phẩm
a. Thể loại
- Tùy bút có nghĩa là ghi chép, là một thể loại kí văn
học, trong khi ghi chép người viết bộc lộ suy tư, nhận
xét và đánh giá về con người và cuộc sống hiện tại.
Như vậy thể tùy bút vừa mang tính chính xác của khoa
học lại vừa mang tính trữ tình.
- Trong thể tùy bút cái tôi của người nghệ sĩ được
thể hiện một cách độc đáo, ngôn ngữ và hình ảnh trong
tùy bút rất giàu chất thơ.
b. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Tập Tùy bút “Sông Đà” gồm 15 bài tùy bút và một bài
thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút “Người
lái đò sông Đà”.

- Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc


của Nguyễn Tuân những năm 1958 – 1960. Trở lại vùng
đất đã từng gắn bó với ông những năm kháng chiến chống
Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những
kỉ niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong
tâm hồn ông.

- Mục đích của chuyến đi, như NT chia sẻ là để tìm


kiếm “chất vàng” ở thiên nhiên TB và “chất vàng mười đã
qua thử lửa” ở con người Tây Bắc.

c. Ý nghĩa câu đề từ
- Đề từ là gì? Trong các tác phẩm văn học thường xuất
hiện đề từ nằm ở phần đầu sau nhan đề, lời đề từ có khi
là câu thơ, câu văn, câu châm ngôn…, hình thức biểu
hiện rất phong phú và đa dạng. Các nhà văn, nhà thơ
thường tạo ra câu đề từ nhằm khái quát cô đọng nội
dung của tác phẩm và gửi gắm ý đồ nghệ thuật của tác
giả.
- Ý nghĩa 2 câu đề từ trong tác phẩm:
+ Câu đề từ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng
sông”. Đây là câu thơ của nhà thơ cách mạng Ba Lan.
Lời đề từ này không chỉ làm đẹp thêm cho bài kí, không
chỉ thể hiện sự uyên bác của nhà văn mà còn giàu ý
nghĩa biểu cảm. “Tiếng hát” là tiếng lòng, là kết tinh
những xúc cảm tâm hồn con người. “Tiếng hát trên
dòng sông” là tiếng hát của những người lái đò, chèo đò
của con người lao động, bình dị. Như vậy, với câu đề từ
này, Nguyễn Tuân cho ta biết cảm hứng chủ đạo của
tác phẩm là đi tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn của
người lao động, cụ thể ở đây là hình tượng người
lái đò trên sông Đà. Đồng thời mượn câu thơ của nhà
thơ yêu nước Ba Lan làm câu đề từ cho bài kí của mình
là Nguyễn Tuân còn thể hiện những rung cảm trong tâm
hồn yêu tha thiết say đắm vẻ đẹp con người bình dị và
vẻ đẹp trữ tình của những dòng sông quê hương trong
đó có sông Đà.
+ Câu đề từ thứ 2: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang
độc bắc lưu” (Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông.
Chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc.)
++ Đó là câu thơ của Nguyễn Quang Bích nói về vẻ
đẹp độc đáo của dòng sông Đà. Với lời đề từ này, nhà
văn tiếp tục cho chúng ta biết chủ đề tư tưởng và hình
tượng trung tâm của bài kí không chỉ có người lái
đò mà còn một hình tượng nữa được nhà văn khám
phá và thể hiện thành công đó là vẻ đẹp độc đáo
của dòng sông Đà.
++ Lời đề từ con thể hiện một ẩn ý sâu sắc của
nhà văn Nguyễn Tuân: thông qua hình ảnh “Đà giang
độc bắc lưu” để ngầm thể hiện và khẳng định một cá
tính, một phong cách nghệ thuật độc đáo, trong dòng
sông văn học Việt Nam.
II. PHÂN TÍCH
1. Hình tượng người lái đò
a. Mở bài:
*Ý:
- Giới thiệu nguyễn Tuân qua nhận định của Nguyễn
Minh Châu hoặc của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh.
- Giới thiệu hai chặng đường sáng tác của nhà văn
gắn với chủ nghĩa xê dịch
- Giới thiệu nội dung bài kí gắn với yêu cầu bài thi
*Lời văn:
Nguyễn Minh Châu đã coi Nguyễn Tuân là “cái định
nghĩa về người nghệ sĩ “. Ông là nhà văn tài hoa,
uyên bác, suốt đời đi tìm vẻ đẹp của đời sống. Nếu
trước cách mạng, Nguyễn Tuân xê dịch để khuây
khỏa cảm giác của con người “thiếu quê hương”, thì
sau cách mạng, Nguyễn Tuân lại xê dịch để tìm “chất
vàng mười” còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và
ông đã tìm được “chất vàng mười” ấy ở hình tượng
người lái đò sông Đà trong tùy bút cùng tên của nhà
văn rút từ tập bút kí “Sông Đà” (1930). Bài kí có hai
nhân vật – hai hình tượng, đó là dòng sông Đà và
người lái đò trên dòng sông ấy. Thế nhưng, theo cách
cảm nhận của nhà văn Nguyễn Tuân, bức tranh sông
Đà hùng vĩ, diễm lệ cũng chỉ là cái nền để nhà văn ca
ngợi vẻ đẹp tài hoa, trí dũng với hồn nghệ sĩ tỏa ra từ
hình tượng ông lái đò Tây Bắc.
b. Thân bài:
* Tên người lái đò
- Ý:
+ Xóa mờ những nét riêng và gọi theo nghề
nghiệp
+ Đó là dụng ý nghệ thuật nhằm tạo ra một chân
dung vô danh dễ lẫn vào đám đông. Điều đó cho
thấy cảm hứng của Nguyễn Tuân hướng vào những
con người bình dị, hướng vào “chất vàng mười”
khuất lấp trong con người lao động Tây Bắc.
- Lời văn:
+ Đọc bài kí “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân, ta thấy nhà văn đã xóa mờ gần hết những nét
riêng biệt về ông lái đò. Ông lái đò không tên tuổi, không
tiểu sử mà được gọi theo nghề nghiệp, được nhà văn
giới thiệu bằng giọng thân mật, gần gũi “ông lái đò Lai
Châu bạn tôi”.
+ Việc nhà văn không đặt tên cho người lái đò ,xóa
mờ nét về tiểu sử không phải ngẫu nhiên vô tình mà là
dụng ý nghệ thuật của tác giả. Nguyễn Tuân đã tạo ra
một chân dung vô danh, dễ lẫn vào đám đông, ông lái
đò chỉ là một trong vô số những người bình dị trên sông
nước, nhưng chính con người bình dị, ẩn khuất giữa núi
rừng Tây Bắc ấy lại chứa đựng “chất vàng mười” đích
thực của tâm hồn và tài năng. Qua đây ta thấy cảm
hứng ca ngợi lao động, con người của Nguyễn Tuân
sau cách mạng là hướng vào những vẻ đẹp đời thường,
khuất lấp ấy.
II. Ngoại hình ông lái đò
Ý:
- Tay lêu nghêu, chân khuỳnh khuỳnh, nhỡn với vòi
vọi, giọng ào ào – vẻ đẹp của người lao động đời
thường
- Cao to, gọn, quánh, bịt đầu bạc hói => ông trở
thành chàng trai – vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn
mang bóng dáng của người anh hùng nơi sông
nước
Lời văn:
+ Nguyễn Tuân đã chạm khắc nhân vật của mình
bằng những đường nét sắc sảo và đầy ấn tượng,
phải có vốn sống và sự hiểu biết tường tận về người
lao động và nghề chèo đò nhà văn mới có những chi
tiết vừa sống động vừa hấp dẫn, lý thú, từ chi tiết rất
cụ thể: tay lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào
cũng khuỳnh khuỳnh như muốn kẹp lấy cái cuống lái
trong tưởng tượng, giọng ào ào như giếng nước mặt
ghềnh, nhỡn giới vòi vọi… Đặc điểm ngoại hình với
những tố chất được tạo nên bỏi tố chất đặc thù của
môi trường lao động trên sông nước hay nói một cách
khác ngoại hình của ông lái đò mang đậm dấu ấn
nghề nghiệp sâu sắc.
+ Nhưng ở ông lái đò ta còn bắt gặp những nét
đẹp ngoại hình: cao to đẹp ,quánh, da ánh lên lên
chất sừng, chất mùn… Những hình ảnh này gợi ra
một sức vóc vạm vỡ, khỏe mạnh, trẻ tráng khiến cho
nhà văn liên tưởng nếu bị cái đầu bạc hói của ông lạ
thì không ai nghĩ rằng đó là một ông lão mà là một
chàng trai ngồi trên bến sông ngóng vọng. Như vậy ở
ngoại hình ông lái đò vừa mang vẻ đẹp đời thường,
bình dị lại vừa ánh lên chất khác thường phi thường,
đó là bóng dáng của người anh hùng trên sông nước
Đà Giang.
III, Vẻ đẹp của ông lái đò
1,Vẻ đẹp tài hoa
Ý:
-Ông thuộc tường tận tính nết của dòng sông, nhớ tỉ
mỉ ,như đóng đánh vào lòng tất cả những luồng nước
và con thác hiểm trở.
- Bả vai ông nổi lên những củ nâu, dấu vết chứng tích
của những ngày chèo đò vượt thác – huân chương
lao động siêu hạng .
- Ông có sở thích đặc biệt chạy thuyền trên những
đoạn sông có ghềnh thác: sở thích của một con người
có tài và có đầy đủ ý thức về tài năng .
Lời văn:
+ Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả vẻ đẹp của ông lái đò
Tây Bắc đó chính là vẻ đẹp tài hoa. Ông hiểu biết
tường tận về tính nết của dòng sông, nhớ tỉ mỉ như
đóng đanh vào lòng tất cả những luồn nước của
con thác hiểm trở, nắm chắc binh pháp của thần
sông ,thần đá ,biết rõ từng cửa tử cửa sinh, boong
ke chìm, pháo đài đá, thạch trận sông đà đến mức
sông đà đến với người lái đò ấy như một bản anh
hùng ca mà ông đã thuộc cả những dấu chấm than,
chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Phải yêu
nghề, phải chuyên tâm với nghề và gắn bó với sông
Đà thì ông lái đò mới thuộc dòng sông đến thế.
+ Bả vai ông nổi lên những củ nâu - dấu vết chứng
tích của những ngày trèo đèo vượt suối. Những “củ
nâu” ấy chính là huân chương siêu hạng mà Nguyễn
Tuân đã ưu ái sáng tạo ra dành tặng cho người lái đò.
+ Đặc biệt ông lái đò sông Đà là người so sánh rất thú
vị về nghề vận tải trên sông nước và nghề vận tải
đường bộ đi xa trên những đoạn đường nguy hiểm
còn có phanh có rẽ lùi, chiếc đò không có những điều
đó. Vẫn biết là nghề lái đò trên Sông Đà là cực kì
nguy hiểm nhưng ông lái đò dọc trên sông Đà là cực
kì nguy hiểm nhưng ông lái đò Lai Châu vẫn có một
sở thích đặc biệt chạy thuyền trên khúc sông không
có thác dại tay, dại chân và buồn ngủ nghĩa là thích
ghềnh thác ,thích mạo hiểm. Đó là sở thích của một
con người có tài ,có ý thức đầy đủ về tài năng của
mình ,một hình mẫu quen thuộc trong thế giới nhân
vật của Nguyễn Tuân – thế giới con người cá tính và
tài hoa.
2, Vẻ đẹp trí dũng (thể hiện ở ba cuộc vượt thác)
Ý: Nguyễn Tuân miêu tả ba cuộc vượt thác của ông
lái đò
- Theo tiêu chí của người xưa ông lái đò là một anh
hùng.
- Khi miêu tả ba cuộc vượt thác Nguyễn Tuân đã vận
dụng mọi sự hiểu biết về thể thao võ thuật và binh pháp,
quân sự hình ảnh, động từ mạnh, tạo ra cuộc giao
tranh kịch tính hồi hộp.
Lời văn:
Đọc tác phẩm người lái đò sông đà của Nguyễn
Tuân, ta thấy ông lái đò không chỉ tỏ sáng vẻ đẹp tài
hoa mà còn là con người mang vẻ đẹp trí dũng. Điều
đó được thể hiện ở ba cuộc vượt thác của ông lái đò.
Người xưa quan niệm cơn gió mạnh đạp đầu sóng dữ
chém cá kình ở biển đông là biểu hiện của những
hành động phi thường của người anh hùng. Ở đây
ông lái đò tuy không chém cá kình ở biển đông nhưng
lại là người cưỡi cơn gió mạnh đạp đầu sóng dữ. Ông
lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả như một người anh
hùng nơi sông nước Đà giang với vẻ đẹp trí dũng tài
nghệ. Nhà văn đã thể hiện mọi sự hiểu biết uyên bác
về thể thao, võ thuật, binh pháp, quân sự điện ảnh….
Chỉ trong vài trang Nguyễn Tuân đã vốc tới ngót 300
động từ mạnh để ganh đua với cuồng nộ của sông
đà. tạo ra những ẩn dụ so sánh nhân hóa, liên tưởng
đem đến cho bạn đọc thước phim bằng ngôn từ đắt
giá về cuộc giao tranh giữa ông lái đò và dòng sông
Đà.
A, Cuộc giao tranh thứ nhất

Sông Đà Ông lái đò

- 5 cửa trận, 4 tử 1 - Thạch trận dàn bày


sinh vừa xong thì con thuyền
vụt tới.
- Phối hơp với đá
nước reo hò thanh niên - Mặt sông trong tích
tắc lòa sáng lên như một
- Đánh đòn tỉa ,đòn
cửa bể đom đóm rừng,
âm ,đoàn độc hiểm.
mặt ông lái đò méo bệch
đi.
- Tiếng chỉ huy tỉnh táo
của người cầm lái đưa
con thuyền vượt qua 4
Con thủy quái nham cửa tử để vào cửa sinh.
hiểm và xảo quyệt.
=> vị thuyền trưởng
mưu trí ,dũng cảm và tài
ba.

Lời văn:
Nguyễn Tuân đã tạo được một cảnh tượng mang không
khí chiến trận thực sự. Ban đầu nhà văn giới thiệu bao
quát về thế lực của hai bên: một cái thuyền và sáu tay
chèo mà nổi bật nhất là ông lái đò. Đối thủ của người lái
đò này là dòng sông Đà với những con thác với những
trùng vi thạch trận.
Ở vòng giao đấu thứ nhất Sông Đà bày ra năm cửa trận
trong đó có bốn cửa tử, một cửa sinh. Với chi tiết này
nhà văn cho ta cảm nhận ban đầu đó là cuộc chiến
không cân sức giữa thiên nhiên man dại và con người
nhỏ bé thời đường .Đội quân thạch trận hết sức hùng
hậu có đá tướng đá quân ,đá tiền vệ đá hậu vệ với
những bộ mặt giữ tợn ,ngỗ ngược,hất hàm,chúng bày
thạch trận có tổ chức quy mô… Nguyễn Tuân đã tận
dụng sức mạnh điêu khắc bằng ngôn từ để truyền hồn
sống cho những thớ đá, truyền cho đá cái linh động của
ma quái, biến chúng thành một bãi thạch tinh hung hãn.
Khi giao đấu giáp lá cà chúng tấn công từ nhiều phía
đánh những đòn hiểm độc : đá trái, thúc gối, túm lấy, đội
thuyền lên, đánh chỗ hiểm…nước reo hò thanh hiện. Có
thể nói Nguyễn Tuân giống như nhà quay phim lão
luyện đang ghé ống kính điện ảnh của mình, quay cận
cảnh làm rõ sự hung bạo của Đà Giang. Con sông giống
như một con thủy quái nham hiểm với dã tâm ăn hết
con thuyền của người lái đò.
+ Nguyễn Tuân đã dừng lại những khoảnh khắc cần
thiết để diễn tả khả năng tránh đòn, chống đỡ của người
lái đò trí dũng ,bản lĩnh thạo nghề sông nước thạch trận
giàn bày xong thì cái thuyền vụt tới biểu hiện một tinh
thần chủ động, nghênh chiến quyết thắng. Trong một
không khí với đầy những âm thanh đầy hỗn chiến với
những món đòn độc hiểm của con sông đà, ông lái đò
tránh đòn ,chống không dễ dàng gì, tả xung hữu đột
trước những trùng vi thạch trận mặt sông trong tích tắc
lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống
mà châm lửa vào đầu song. Nguyễn Tuân đã sử dụng
thành ngữ theo lối phóng đại “tát nổ đom đóm mắt” để
thấy giây phút nguy hiểm mà ông lái đò phải trải qua
“mặt ông lái đò méo bệch đi” ông lái đò kiên cường vượt
lên nỗi đau thể xác do cuộc vật lộn với con thác nhưng
vẫn giữ được tiếng chỉ huy tỉnh táo của người cầm lái
đưa con thuyền vượt qua bốn cửa tử ,vào cửa sinh bình
yên, qua đây ta cảm nhận ông lái đò không chỉ có sức
mạnh về thể chất mà còn có sự tỉnh táo can đảm. Ở
vòng giao đấu thứ nhất này ông hiện lên với vẻ đẹp của
vị thuyền trưởng bản lĩnh, tài trí và dũng cảm.
B,Vòng đấu thứ hai.
Ý:

Sông Đà Ông lái đò


- Dòng thác bùm beo - Thay đổi chiến thuật
đang hồng hộc tế mạnh
- Nắm chặt bờm
trên sông đá
sóng ,nhì cương lái
- Phải cưỡi đến cùng
- Nhớ mặt bọn thủy
như là cưỡi hổ
quân của ải nước : đứa
- thid ông tránh đứa thì đè
sấn,lái miết một đường
- Bốn năm bọn thủy
chéo rồi đi vào cửa sinh
quân của ải nước.
- => người anh hùng
-
trên chiến trận sông đà

Lời văn: Để tô đậm hình ảnh ông lái đò trí dũng Nguyễn
Tuân Tiếp tục miêu tả cuộc vượt sóng thứ 2.
+Ở cuộc giao tranh lần thứ hai ta thấy ngòi bút và óc
tưởng tượng cực kì phong phú của nhà văn Sông Đà
hiện lên như một vị thần chiến tranh đầy tham vọng và
dã tâm nó tang nhiều cửa tử ,bố trí lệch cửa sinh cùng
với dòng thác hùm beo đang hùng hục tế mạnh trên
sông đá dần như đã đến lúc dồn toàn bộ sinh lực cho
cuộc chiến sinh tử này. Vì vậy ở dòng giao đấu thứ hai
này sông Đà hiện lên dữ dội hung bạo thác nước giống
như một con thú hoang dại đầy bản năng nó hiện thân
cho sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự.
+ Nhưng cũng như lần trước ông lái đò không hề nao
núng, ông không phải con người có phép màu nhiệm,
không có cách tay của Héc –quyn cánh tay sánh ngang
với thần nước trong thần thoại Hy Lạp, ông cũng không
có sức mạnh của Sơn Tinh trong thần thoại Việt Nam đã
bốc từng quả đồi ngăn dòng nước lũ. Nhưng để đấu lại
vị thần chiến tranh sông đà lái đò có một vũ khí là con
thuyền, mái chèo trí tuệ, với những động tác chuẩn xác,
mạch lạc ông thay đổi chiến thuật ./ Mặc cho sông Đà
ác hiểm ông lái đò vẫn cương lái, nắm chặt bờm sóng
một hình ảnh ẩn dụ khiến con thuyền thành một con
chiến mã còn người lái đò vụt lớn lao, trở thành người
kỵ binh anh hùng tung hoành trên chiến trận trên sông
Đà. Ông lái đò chiến thắng thằng giặc đá, giặc
nước .đọc đến đây ta liên tưởng đến Đăm Săn trong sử
thi Tây Nguyên, Đăm Săn vượt qua đầm lầy, rừng sâu
diệt tê giác để chinh phục thần mặt trời. Ở đây ông lái
đò cũng chinh phục thần nhưng là thần sông, thần đá –
loài thủy quái độc ác. Ông lái đò xứng đáng là một anh
hùng trong công cuộc chinh phục thiên nhiên man dại.
C, Vòng đấu thứ 3
Ý:

Sông Đà Ông lái đò


“ít cửa hơn ,bên phải bên “thuyền như một mũi tên
trái,đều là luông chết cả” tre xuyên nhanh qua hơi
cái luồng sống ở giữa hai nước ,vừa xuyên vừa tự
cổng đá cánh mở cánh động lái được lượn
khép được .thế là hết thác

Lời văn :
+Ở cuộc giao tranh thứ ba mà ông lái đò vượt qua thực
sự là một cuộc giao tranh đầy kịch tính .Ở đây,ngoaì bút
của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng ,linh hoạt bởi những
liên tưởng tạt ngang đầy thú vị khi miêu tả cảnh vượt
thác của người lái đò Sông Đà lái đò đã bị thua ở hai
cuộc giao tranh nói trên ,nó trở nên hung dữ nham hiểm
và xảo quyệt hơn bao giờ hết ,hiện thân như kẻ thù số
một của con người .Bên phải bên trái đều là nguồn
chết ,luồng sống ở giữa hai cổng đá cánh mở cánh
khép
+ Nhưng chính trong giây phút nguy hiểm đó người đọc
nhận ra ông lái đò là một con người tài trí đưa con
thuyền xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự
động lái được lượn được. Thế là hết thác. Ông lái đò
thực sự là một tay lái ra hoa. Hoa là tài hoa là cái đẹp,
tay lái đã đạt đến trình độ điêu luyện trở thành cái đẹp
cái sang.
Đọc đoạn văn tả cảnh ông lái đò vượt thác, làm ta nhớ
đến SA DẠ SA ĐỒNG trong truyện thơ “vượt biển” của
dân tộc Tày – Nùng. Các sa dạ sa đồng phải vượt qua
những thác nước dữ dội :
“Nước sôi to phùn phụt
Nước dựng đứng thấm chân trời”
Và khi gặp các thác nước như vậy các sa dạ sa đồng
chỉ còn biết van xin :
“Biển ơi đừng giết tôi
Nước hỡi đừng xô lấy thuyền”
Làm cho ta cảm thương với kiếp người nô lệ. Còn ở đây
ông lái đò cũng vượt qua những ghềnh thác dữ dội với
cửa tử , cửa sinh và ông cũng chỉ là một con người bình
dị , đời thường bình dị , đời thường nhưng tuyệt nhiên
không thấy một tiếng kêu xin van nỉ mà tỏa sáng là
người anh hùng bách chiến bách thắng trên chiến trận
Sông Đà. Ông lái đò là m,ột hình tượng đẹp về người
lao động mới. Qua hình tượng này nhà văn muốn khẳng
định: Người anh hùng không không phải chỉ có trong
chiến đấu mà còn là cả cuộc sống lao động thường
ngày, ông lái đò chính là một người anh hùng như thế!
3) Vẻ đẹp ung dung nghệ sĩ
Nếu ở trận giao tranh với thần sông , thần đá ông lái đò
hiện là một vị tướng bách chiến bách thắng thì khi
ngừng mái chèo trở về với cuộc sống hàng ngày ông lái
đò lại có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: “đêm ấy
nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam toàn
bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh , chả thấy ai bàn
thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua’’.
Như vậy với cuộc vượt thác mà chúng ta nhìn thấy đó là
chiến thắng, là anh hùng thì họ lại coi đó là một chuyện
bình thường mỗi ngày ‘không có gì là hồi hộp đáng
nhớ’. Đây là nét khác biệt giữa người anh hùng trong
văn học VN hiện đại với người anh hùng trong văn học
cổ.
Đối với sông Đà hung bạo ông không xem nó là kẻ thù
mà như một người bạn lắm chứng nhiều tật. Những khi
gặp dòng sông trữ tình ông xuôi chèo, đắm hồn mình
vào dòng sông yên tĩnh.
IV) Nghệ thuật độc đáo trong cách miêu tả ông lái đò
của NT
Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ ở ông lái
đò.
Đây là cách viết phù hợp với quan niệm nghệ thuật về
con người của nhà văn, phù hợp với cái nhìn rộng mở
của ông về phẩm chất tài hoa nghệ sĩ. Theo Nguyễn
Tuân vẻ đẹp nghệ sĩ của con người không chỉ thể hiện
trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà còn trong lĩnh
vực khác nữa. khi con người đạt đến trình độ điêu luyện
trong công việc của mình và biết thưởng thức cái đẹp,
đó là khi họ bộc lộ nét tài hoa nghệ sĩ rất đáng được đề
cao. Trong bài kí này ông lái đò được Nguyễn Tuân
miêu tả là một nghệ sĩ trong nghề nghiệp chèo đò vượt
thác.
Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống thử thách để
nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất của mình. Điều đáng chú ý
là nhà văn đã miêu tả cuộc vượt thác như một trận thủy
chiến. Càng nhấn mạnh thách thức ghê gớm của thạch
trận Sông Đà tác giả càng khắc họa được sinh động
bản lĩnh trí dũng, tài hoa của ông lái đò.
Ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, sự
uyên bác, tài hoa trong ngòi bút. Tác phẩm có rất nhiều
từ dùng mới mẻ cùng với lối nhân hóa độc đáo, ví von
ẩn dụ bất ngờ mà vô cùng chính xác “nắm chặt bờ
sóng”, “ghì cương lái” ,”mặt méo bệch”, “thuyền như một
mũi tên tre…”. Nhà văn có cả một kho từ vựng phong
phú để tạo ra những ẩn dụ so sánh, nhân hóa, liên
tưởng đặc biệt đồng thời Nguyễn Tuân còn sử dụng vốn
hiểu biết uyên bác của mình về các lĩnh vực thể thao, võ
thuật, binh pháp, quân sự, điện ảnh…để miêu tả, tôn
vinh vẻ đẹp của ông lái đò.
Kết bài: Với bản lĩnh của một nhà văn tài hoa có phong
cách nghệ thuật độc đáo, với vốn tri thức sâu rộng, miêu
tả hoạt động sáng tạo nhà văn đã khắc họa thành công
vẻ đẹp hình tượng người lái đò, con người tài hoa trí
dũng, nghệ sĩ để từ đó khẳng định chủ nghĩa anh hùng
không chỉ có nơi chiến trường mưa bom bão đạn mà
còn ngay cả trong cuộc sống của người dân – những
con người bình dị , đời thường đang hàng ngày vật lộn
với thiên nhiên để sinh tồn. Hình tượng người lái đò
sông Đà mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân, để lại cho độc giả những ấn tượng mạnh
mẽ.
ĐỀ 3
Mở bài :
Ý:
- Giới thiệu Nguyễn Tuân.
- Giới thiệu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
- Định hướng vào yêu cầu đề thi con sông Đà.
Lời văn :
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Ông có một phong cách nghệ thuật độc đáo,
vừa uyên bác vừa tài hoa. Là nhà văn ông không chấp
nhận những cái bằng phẳng, nhợt nhạt, ông là nhà văn
của cảm xúc, cảm giác mãnh liệt, của sông sâu thác
giữ… theo ông đó là cách để thay đổi thực đơn cho giác
quan. Viết về những cảnh tượng đó dường như Nguyễn
Tuân có một cảm hứng đặc biệt, nhà văn dốc toàn bộ
cho chủ nghĩa giàu có của mình để ganh đua với tạo
vật. Dưới ngòi bút của ông mọi con người dù làm nghề
gì đều là nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình, mọi sự
vật được khám phá ở phương diện văn hóa, mỹ thuật
phong cách nghệ thuật của nguyễn Tuân được thể hiện
roc trong bài kí “Người lái đò trên sông Đà” rút từ tập tùy
bút “Sông Đà” (1960). Ở tác phẩm này nhà văn đã thể
hiện thành công hình tượng con sông Đà tiêu biểu cho
vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên miền Tây Bắc.
THÂN BÀI:
I, Khái quát:
Ý:
- Bên cạnh hình tượng người lái đò dòng sông Đà
cũng được nhà văn tập trung khai thác.
- Tiêu biểu cho vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên Tây
Bắc.
- Một sinh thể có diện mạo có cá tính ,đặc biệt là hai
nét tính cách nổi bật: HUNG BẠO VÀ TRỮ TÌNH.
LỜI VĂN:
+ “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà”
một đỉnh cao sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân giai
đoạn cách mạng. Tác phẩm là kết quả đi thực tế Tây
Bắc của nhà văn năm 1958.
+ Đọc bài kí “Người lái đò sông Đà”, ta thấy bên cạnh
hình tượng người lái đò còn có một nhân vật nữa cũng
được nhà văn tập trung bút lực và thể hiện ấn tượng
thành công đối với độc giả đó là dòng sông Đà.
+ Theo cách cảm nhận của nhà văn Nguyễn Tuân Sông
Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên miền
Tây Bắc vẻ đẹp ấy được hé mở ở ngay câu đề từ của
tác phẩm:
“đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”
Đó là câu thơ của một nhà văn thơ yêu nước Ba Lan
đã thể hiện rung cảm tâm hồn tha thiết, đắm say trước
vẻ đẹp nên thơ của những dòng sông.
Và câu thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Bích:
“Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc đắc lưu”
như một khám phá về nét độc đáo không giống ai chỉ có
ở Sông Đà, mọi dòng sông chảy về hướng đông, chỉ có
sông Đà chảy theo hướng bắc ‘’.
Sông Đà vốn đã đẹp đã độc đáo nhưng khi chảy vào
trang văn của Nguyễn Tuân nó không chỉ đẹp mà còn lạ
hơn nhiều bởi nhà văn đã vận dụng mọi sự hiểu biết
uyên bác của mình cùng với vốn từ ngữ sinh động để
tạo ra những ẩn dụ sinh động, so sánh, liên tưởng khiến
dòng sông không còn là sự vật vô tri vô giác, vô hồn mà
trở thành một sinh thể có diện mạo, có cá tính. Đặc biệt
là hai nét tính cách nổi bật “hung bạo” và “trữ tình”. Có
thể nói Nguyễn Tuân đã tạo ra một dải sông văn không
kém thác ghềnh, đem đến những hứng thú thẩm mĩ mới
lạ cho người đọc.
II) Xuất xứ của con sông
Với sự hiểu biết của mình , nhà văn văn đã nói về xuất
xứ của dòng Sông Đà đem đến cho bạn đọc một vốn tri
thức về Đà Giang. Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam,
Trung Quốc , tính từ biên giới Việt Trung đến ngã ba
Trung Hà , lượn rồng rắn 500 cây số. Sông Đà tên xưa
là Li Tiên, sau bao lần đổi tên con sông có tên là sông
Đà như ngày nay. Chỉ qua một vài chi tiết nói về xuất xứ
sông Đà, ta thấy Nguyễn Tuân có một vốn hiểu biết sâu
sắc về lịch sử, địa lí. Ông từa như một người cha đẻ
đang làm giấy khai sinh cho đứa con tinh thần của mình.
Song với tư cách là một nhà văn ông không nhìn con
sông bằng con mắt nhà địa lí học, thủy văn học, nhà sử
học mà nghiêng về bình diện khai thác vẻ đẹp của dòng
sông này có hai nét tính cách ‘hung bạo và trữ tình’.
III) Tính cách hung bạo của dòng sông Đà
Khái quát chung: Sự dữ dội, hung bạo của Đà Giang là
ở những khúc thượng nguồn Tây Bắc. Nhà văn gọi đó
là con sông hung bạo là con sông ác ,dòng sông đá, kẻ
thù số một của con người, là mụ dì ghẻ độc ác, là tên
chúa đất tham tàn. Từ xa xưa, cha ông ta đã diễn tả sự
dữ đội của Đà Giang nằng biểu tượng của Sơn Tinh,
Thủy Tinh:
“Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”
Nhà văn Nguyễn Tuân không dùng lối miêu tả huyền
thoại ấy mà vẫn dựng lên , tái hiện trước mắt người đọc
hình ảnh một dòng sông Đà hung bạo hùng vĩ và dữ dội.
Ý:
- Độ cao : “đá bờ sông , dựng vách thành”: cheo leo,
hiểm trở, âm u, nguy hiểm.
- Độ hẹp : ‘có vách đá chẹt lòng sông Sông Đà như
một cái yết hầu’ sức nước chảy xiết, cảm giác chèn đến
nghẹt thở.
- Độ sâu:
- Sông Đà: con thủy quái
- Con thuyền: vật hiến tế tội nghiệp cho tử thần
Lời văn:
Để gây ấn tượng về dòng sông hung bạo con mắt
SÀNH NGHỆ THUẬT của Nguyễn Tuân đã tìm đến
những vật chứng ghê người ngoài những con thác dữ
đó là cảnh vách đá sông Đà: “đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông ở đấy chỉ lúc đúng ngọ mới thấy mặt
trời….Ngồi trong khoang đò ấy ,đang mùa hè mà cũng
cảm thấy lạnh, cảm thấy như đang đứng ở hè…vừa tắt
vụt đèn điện”. Ở những câu văn này Nguyễn Tuân
không chỉ cho chúng ta thấy óc quan sát tài hoa cảm
nhận thiên nhiên sông Đà bằng tất cả giác quan mà còn
gây ấn tượng trong tâm trí người đọc về những vách đá
dựng đứng, cheo leo hiểm trở, một không gian chứa
đầy sự nguy hiểm, dữ dội bí ẩn và âm u.
+Bên cạnh những vách đá cao vút nhà văn còn tiếp tục
miêu tả: “có vách đá thành chẹt lòng sông đà như một
cái yết hầu đứng bên bờ này nhẹ tay ném hòn đá sang
bên kia vách…có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ
bờ này sang bờ kia”. Những so sánh liên tưởng thú vị
mới mẻ ,táo bạo của nhà văn so sánh độ hẹp của dòng
sông với cái yết hầu của con người. Nguyễn Tuân đã
giúp người đọc hình dung cụ thể về độ hẹp của lòng
sông đà ,sức nước chảy xiết hung dữ ,tạo cảm giác
chèn kẹp đến nghẹt thở.
+ Sắc nét nhất vẫn là hình ảnh các bút nước ghê
rợn: hút nước hiện ra trong hình ảnh của cái giếng bê
tông. Đặc biệt là nguyễn Tuân đã miêu tả cụ thể một cái
hút nước nuốt con thuyền vào bụng, gây cảm giác lạnh
người: “Trên sông bỗng có cái hút nước giống như
những cái giếng bê tông thả xuống sông... Có những
thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị chìm và đi ngầm dưới
dòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới. Hình ảnh của Nguyễn Tuân vô cùng
sống động, ông giống như một nhà quay phim gợi dậy
trong lòng người đọc con thủy quái sông đà hung hãn
và con thuyền như một vật hiến tế hiền lành đến tội
nghiệp ,đem tấm thân nhỏ bé để cống nạp cho tử thần
sông Đà, tương quan giữa dòng sông và con thuyền
đem đến cho người đọc về cuộc chiến đấu giữa người
nhỏ bé và thiên nhiên man dại Đà giang .

1,Thác nước sông Đà


Ý:
- “Nước xô đá,đá xô sóng,sóng xô gió”: gối đầu câu văn
trùng điệp sóng to gió lớn.
- Nó rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông
rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng, bút pháp ngông: “lửa tả nước, rừng tả sông,
hình ảnh tả âm thanh.”

Lời văn
+ Bút pháp tạo hình ảnh còn gắn với bút pháp tạo âm
làm nên những câu văn giàu giá trị thẩm mĩ, có sức lôi
cuốn người đọc nhà văn miêu tả tiếng thác từ xa cho
đến gần “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
sặc” rồi có lúc nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió
cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt. Nghệ thuật gối đầu câu văn với những câu văn
trùng điệp liên hoàn, nhịp văn ngắn mạch đi nhanh, câu
chữ như va đập vào nhau. Đặc biệt là láy “gùn ghè” và
hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa. Nguyễn
Tuân đã miêu tả thành công sự vận động của sóng to
gió lớn, Đà giang ở thượng nguồn không một lúc nào
bình yên.
Ấn tượng và tài hoa nhất là đoạn tác giả gợi tả âm
thanh của thác nước với một hình ảnh so sánh “tiếng
thác nước nghe như là oán trách gì”. Thế rồi nó rống lên
như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tướng rừng lửa
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng, bút pháp ngông của nhà văn bộc lộ rõ ông lửa để
tả cái vốn đối lập với nó là nước. lấy rừng để tả cái vốn
đối lập với nó là sông, lấy hình ảnh để tả âm thanh,
cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ
được cảm nhận bằng thính giác mà còn hiện ra trong
những ấn tượng đặc biệt sống động của thị giác. Từ đó
người đọc cảm nhận được sự man dại của Đà giang.

2, Đá bày thạch trận


Đá cùng với nước ,với gió với sông đà được miêu tả
qua hình ảnh nhân hóa đặc sắc : đá tướng đá quân,đá
tiền vệ, đá hậu vệ oai phong, ngỗ ngược nhất năm với
những cửa sinh cửa tử, boong ke chìm, pháo đài nổi,….
Nguyễn Tuân đã có một sự linh hoạt biến hóa đối với
việc miêu tả sông Đà, đem đến cho người đọc cảm
nhận sông Đà qua cái nhìn của nhà văn Nguyễn Tuân
quả thực là một mụ dì ghẻ ác nghiệt, là tên chúa đất
tham tàn.
Tiểu kết :
Quả là nhà văn Nguyễn Tuân vừa như muốn đua tài với
tạo hóa lại muốn ganh đua với nhà thơ Hy Lạp Hô-me-
rơ trong trường ca Ô-đi –xê. Nguyễn Tuân đã đưa cơn
giận dữ của Đà Giang lên ngang tầm cơn thịnh nộ của
đại dương đang giáng những đòn bão táp lên chiếc
thuyền của Uy-lít-xơ khi vượt biển.
IV) Tính cách trữ tình của Sông Đà
1) Dòng sông thiếu nữ
Ý:
- Cái dây thừng ngoằn ngoèo >< từng nét sông tôi ra
đại dương đá, bắt đầu gợi ra vẻ đẹp mềm mại của dòng
sông.
- Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình
- Điệp từ “tuôn dài” diễn tả dòng sông trải dài đến vô
tận
- Là mái tóc trữ tình tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ
Tây Bắc
- Từ “áng” sông Đà là một công trình tuyệt mĩ của tạo
hóa
- Màu nước sông đà thay đổi theo mùa với những vẻ
đẹp mới lạ và hấp dẫn
Chuyển ý :
Với ngòi bút sắc sảo tài hoa, biến hóa linh hoạt của nhà
văn sông đà lại hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng thơ
mộng khi xuôi dòng lưu hạ êm đềm. Dưới ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà tựa như một người
thiếu nữ, một mỹ nhân đẹp mà đỏng đảnh với nét mới lạ
hấp dẫn.
Lời văn :
Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà không ai nghĩ rằng
cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính
là con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình
làm mẩy với con người Tây Bắc… Càng ngày càng
quen thuộc với từng nét sông tôi ra trên đại dương đá lờ
lờ bóng mây’. Nếu như hình ảnh đại dương đá gợi lên
vẻ đẹp dữ dội, mạnh mẽ, hùng vĩ thì hình ảnh “sợi dây
thừng” lại gợi lên vẻ đẹp mềm mại của Đà giang giữa
không gian khoáng đạt hùng vĩ.
Sông Đà khoe mình dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa
“con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi
Mèo đốt nương xuân”. Câu văn miên man, phá vỡ trật
tự thông thường cùng với sự lặp lại của từ “tuôn dài” gợi
ra trước mắt bạn đọc dòng sông trải dài đến mênh
mang vô tận. Không chỉ vậy Nguyễn Tuân còn so sánh
rất tài hoa Sông Đà như áng tóc trữ tình.
Với những “áng” đó, sông Đà cũng là công trình nghệ
thuật mà tạo hóa ban tặng cho thiên nhiên Tây Bắc.
Đồng thời gợi ra một liên tưởng rất đẹp nếu đất trời Tây
Bắc là một giai nhân tuyệt sắc thì sông đà chính là mái
tóc thơ mộng tô lên vẻ đẹp của Mỹ Nhân Tây Bắc
Theo dòng chảy thời gian của mùa Nguyễn Tuân khiến
người đọc ngỡ ngàng khi chợt nhận ra ở sông Đà một
vẻ đẹp rất đỗi gợi cảm, liệu mấy ai công phu kiên nhẫn
như Nguyễn Tuân khi quan sát những biến ảo tinh tế
của màu nước sông đà mùa xuân sông đà mang dòng
sông ngọc bích – một màu xanh trong sáng quý giá lung
linh, mùa thu nước sông đà lại “lừ lừ chín đỏ như mặt
người bầm đi vì rượu bữa” ẩn chứa một sức mạnh tiềm
tàng. Vậy là khi nhà văn dừng lại để miêu tả nét thơ
mộng trữ tình qua màu sắc dòng sông thì hình ảnh về
một dòng sông hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây
sông Đà mang một vẻ đẹp của một mỹ nhân tuyệt sắc,
đẹp mà đỏng đảnh với những đường nét mới lạ hấp
dẫn.
2, Dòng sông cố nhân (điểm nhìn trong cảm giác của
người đi rừng mong tìm chỗ thoáng và bất chợt gặp
sông Đà)
Ý:
“cố nhân” người bạn đầy tri kỉ
-“Bờ sông đà ,bãi sông đà,chuồn chuồn ,bươm bướm
trên sông đà”.
“sông Đà” lấy lại không gian thoáng đạt ,niềm vui hân
hoan của tác giả.
- Cảm xúc của nhà văn khi gặp sông Đà: Lần nào
cũng tươi mới lần nào cũng như lần đầu tiên, duy nhất
và cuối cùng.
Lời văn:
Nếu ngắm con sông từ trên tàu bay nhìn xuống nhà văn
đã khám phá và cảm nhận được nét đẹp duyên dáng
của Đà giang thì khi ngắm con sông miền tây của tổ
quốc trong cảm giác của một người đi rừng lâu ngày
mong tìm được chỗ thoáng nhà văn. Nguyễn Tuân chợt
phát hiện sông Đà như một người cố nhân. “Cố nhân”
ấy là người bạn thân xưa cũ tri âm tri kỷ khi xa lâu thì
nhớ, gặp lại thì ấm áp thân thương và tràn ngập niềm
vui. ‘Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan
sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng’.
Một lối so sánh tài hoa , câu văn giàu nhạc điệu cảm
xúc và tràn đầy chất thơ. Nhịp văn như chứa đựng cả
nhịp bước chân, nhịp tim hân hoan vui sướng của con
người đang đắm say trước cảnh vật thiên nhiên sông
nước. Chính lúc đó nhà thơ trong nhà tùy bút Nguyễn
Tuân mới trỗi dậy trong câu văn miêu tả nắng Sông Đà,
nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con nghịch
chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy’’. Đó là cái nhìn
của con người mới chỉ thấy dòng sông lấp lánh trong
nắng, ẩn hiện giữa núi rừng để rồi nhà văn liên tưởng
mặt sông giống như một miếng sáng lóe lên một “màu
nắng tháng ba Đường Thi”, “Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu”.
Cảnh bờ sông được nhà văn miêu tả rất sống động “bờ
sông Đà, bãi sông Đà chuồn chuồn, bươm bướm trên
sông Đà”. Hai chữ “Sông Đà” được láy đi láy lại đến hai
ba lần như nhân lên những khoảng không gian gợi ra
một không gian rộng rãi, khoáng đạt thơ mộng mà ở đó
ta cảm nhận được bước chân chứa đựng niềm vui
sướng hân hoan, phấn khởi của tác giả khi gặp lại dòng
sông Đà mà nhà văn gọi đó là dòng sông cố nhân.
Niềm vui và cảm xúc của nhà văn khi gặp lại sông đà
đã được Nguyễn Tuân thể hiện rõ trong những câu văn
giàu chất nhạc thơ “chao ôi, trông con sông, vui như
thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng”. Nắng giòn tan “có không là cái
nắng thật trong thật sáng, thật đẹp, thật quý giá , nó
tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời trong
những ngày mưa dầm! Cách so sánh này của Nguyễn
Tuân giúp người đọc nhận ra được cảm xúc lâng lâng
trìu mến, nâng niu của nhà văn khi gặp lại dòng sông Đà
cố nhân và nối lại giấc mơ ngày càng hy hữu, hiếm quý.
Có thể thấy cảm giác của nhà văn khi gặp dòng sông
lần nào cũng tươi mới, diệu kì, lần nào cũng đầy say
mê.
3) Dòng sông cổ tích (điểm nhìn: đi thuyền trên sông)
- Xuôi dòng hạ lưu êm đềm ngồi trên thuyền đi trên
mặt sông Nguyễn Tuân đã cảm nhận Sông Đà mang
vẻ đẹp của dòng sông cổ tích.
- “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà”, câu văn của Nguyễn
Tuân không vướng víu một thanh trắc nào cả, gợi tả
con thuyền trôi theo dòng nước đẩy đưa lâng lâng
êm đềm.
- Tiếp đến là cảnh không khí ven sông “Cảnh ven
sông ở đây lặng tờ….cũng lặng tờ đến thế mà thôi”.
+ Hai chữ ‘lặng tờ’ được điệp đi điệp lại máy lần
theo kiểu trùng điệp rất là đặc trưng của nhà thơ
khiến cho câu văn có sức quyến rũ của thanh điệu,
tiết tấu, gợi ra vẻ đẹp của Đà Giang. Con sông không
khác gì dòng sông trong cổ thi.
“Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ’’
+ Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn liên
tưởng “hình như từ đời Lí , đời Trần, đời Lê quãng
sông này cũng lặng như tờ đến thế mà thôi’’. Con
sông mang trong mình cả nét cổ kính, thiêng của hồn
thiêng sông nước Đại Việt từ ngàn xưa.
- Không chỉ vậy, thiên nhiên ở đây cũng thật hài hòa,
Nguyễn Tuân đã nhìn sông đà bằng cặp mắt “xanh non”
và tâm hồn “biếc rờn” để phát hiện ra những hình ảnh
kỳ thú của cảnh ven sông: “nương ngô nhú lên những lá
ngô non đầu mùa… Có ganh đồi núi đang ra những nõn
búp. Một đàn hươu cúi đón đầu ngón búp cỏ gianh đẫm
sương đêm”. Nguyễn Tuân đem đến cho ta cảm nhận
trong sự bao la của đất trời, cỏ cây lại đâm chồi nảy lộc
với sự sống của mình trong vũ trụ. Tất cả thấm đậm vẻ
tinh khôi và non tươi.
- Nhà văn tiếp tục so sánh “bờ sông hoang dại như
một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa”. Tác giả so sánh nhưng không làm cho nó
cụ thể hơn mà trừu tượng hóa sự vật, mộng hóa sự vật
khiến Đà giang mang vẻ đẹp lung linh huyền ảo, khó
nắm bắt.
- Đang không gian hoang sơ mà kỳ thú, Nguyễn Tuân
ước mơ được giật mình bởi tiếng còi xe lửa. Ông khao
khát được nghe tiếng còi xe bởi cảnh ở đây lặng tờ, êm
đềm, tĩnh quái. Nhà văn mún tiếng còi xe của thực tại
kéo mình ra khỏi vòng không gian mơ màng của Đà
giang. Sự hư ảo của giấc mơ phút chốc thành hiện thực
khi con hươu thơ ngây hỏi ông khách sông Đà về tiếng
còi sương. Không gian lặng như đi trong xanh , cá anh
vũ nhảy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thoi’.
Một bức tranh đầy màu sắc và sự sống. Trước cảnh ấy,
lòng người rạo lên một chất thơ sông nước: “Dải Sông
Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu
tình” của một người tình nhân chưa quen biết’’.
Tiểu kết:
Khép lại trang văn của Nguyễn Tuân ta không thể
nào quên dòng sông lững lờ như nhớ thương, những
hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc.Đó
là “chất vàng mười‘’ của thiên nhiên Tây Bắc – một hiện
diện cái đẹp mà nhà văn khao khát kiếm tìm và thể hiện.
Từ hình tượng Sông Đà người đọc nhận ra lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc mang sắc riêng của con người
cũng như sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
V) Rút ra phong cách nghệ thuật của nhà văn
Chuyển ý: Từ sự phân tích ở trên ta nhận ra phong cách
nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Ý: Uyên bác tài hoa khác thường phi thường, con người
là nghệ sĩ, sự vật là cái đẹp, thể tùy bút phát huy lợi
thế.
Lời văn:
- Ông là nhà văn rất mực uyên bác và tài hoa.
- Nguyễn Tuân hướng về cái khác thường, phi
thường gây cảm giác mạnh .
- Dưới ngòi bút của nhà văn mỗi con người dù làm
nghề nghiệp gì điều là nghệ sĩ trong nghề nghiệp của
mình , mọi sự vật điều được được khai thác, khám phá
với phương diện văn hóa, nghệ thuật.
- Sở trường của ông là thể tùy bút với những câu văn
co duỗi nhịp nhàng, giàu nhịp điệu, giàu hình ảnh, ngôn
ngữ sống động đặc sắc. Cùng với lối viết vừa đĩnh đạc
vừa trẻ trung, vừa cổ điển vừa hiện đại.
Ý: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sâu CM.
- Vẫn ổn định 4 nét trên.
- Nhưng có sự phát triển. Tài + Đẹp + Giọng văn
Lời văn:
- Từ tác phẩm: “Người lái đò con Sông Đà’’ người
đọc thêm một lần nữa hiểu được sự vận động đầy ý
nghĩa của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân được
thể hiện trong sáng qua hai giai đoạn trước và sau cách
mạng. Những trang văn của Nguyễn Tuân sau cách
mạng vẫn hấp dẫn , mê hoặc lòng người ở sự tài hoa
uyên bác, gắn bó với những cảm quan nghệ thuật sắc
bén được phô diễn bởi kho chữ giàu có của thể tùy bút.
Nhà văn hướng về cái khác thường, phi thường và dù
nhân vật làm nghề gì cũng phải là nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình, sự việc được nhìn nhận ở phương
diện văn hóa, mỹ thuật. Nhưng cũng chính từ những
trang văn đó mà người đọc đã cảm thấy được những
chuyển biến tích cực trong tư tưởng nghê thuật của
Nguyễn Tuân.
- ĐẸP: Nếu trước cách mạng Nguyễn Tuân chỉ tìm
thấy cái đẹp ở “Vang bóng một thời” thì nay ông đã tìm
thấy cái đẹp ở ngay cuộc sống hiện tại, ở ngay trong đời
sống lao động sản xuất .
+ TÀI: Đặc biệt những nhân vật của ông sau cách mạng
cũng có nhiều điểm khác so với giai đoạn sáng tác
trước cách mạng. Nếu trước cách mạng nhà văn chỉ
thấy cái tài hoa phi thường ở tầng lớp nhà tri thức,
những con người đặc tuyển thì nay trong trong bài kí
“Người lái đò sông Đà” nhà văn lại phát hiện ra cái phi
thường, tài hoa ở ngay những con người bình dị, đời
thường điều đó cho thấy ngòi bút của nhà văn đã
hướng về, quê hương, đất nước, nhân dân.
+GIỌNG VĂN: Trước cách mạng, giọng văn của
Nguyễn Tuân hướng nội, kiêu bạc thì sau cách mạng
giọng văn của ông hướng ngoại, ấm áp tin yêu. Nguyễn
Tuân từng nhận xét ngôn ngữ của mình trước cách
mạng tháng tám như sau: “Ngôn ngữ của Nguyễn lủng
củng, dấm dẳng như đấm vào họng ,đọc lên nghĩa tăm
tối quá, lời sống ông trạng Nguyễn cứ lập ngôn một
cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế không bướng sao
được, sau cách mạng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã là
ngôn ngữ của công dân đầy trách nhiệm trước nước
Việt Nam mới. Nỗi buồn cỡ nào cùng thái độ khênh
khang kiêu bạc đã được thay thế vào tình yêu và niềm
tin yêu vào cuộc sống.
KẾT BÀI:
Với một phong cách nghệ thuật độc đáo vừa uyên bác
vừa tài năng Nguyễn Tuân đã thể hiện thành công vẻ
đẹp của con sông Đà Tây Bắc. Con sông vừa mang vẻ
đẹp hung bạo hùng vĩ lại vừa thể hiện vẻ trữ tình, duyên
dáng dịu dàng mà ấm áp như một cố nhân. Viết về một
con sông như vậy quả là chỉ có Nguyễn Tuân – Nhà văn
của vang bóng một thời cây bút bậc thầy của nền văn
học việt nam hiện đại.
ĐỀ 4:
MỞ BÀI
THÂN BÀI
I, Giải thích khái niệm phong cách nghệ thuật và giới
thiệu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
1,Phong cách nghệ thuật
Ý:
- Cái nhìn mới
- Biểu hiện ở hình thức nội dung
- Yếu tố lặp lại bền vững
Lời văn:
Trong một lần trò truyện Nguyễn Tuân cho rằng phong
cách nghệ thuật của nhà văn là cái nhìn mới, cái nhãn
quan đặc biệt của nhà văn trước con người và cuộc đời
cái nhìn độc đáo ấy chi phối sáng tác của anh. Anh tạo
ra một hình tượng độc đáo không giống với bất kì cái
nhìn của nhà văn nào khác. Còn theo cách hiểu thông
thường nói đến phong cách nghệ thuật biểu hiện ở hình
thức và nội dung tác phẩm văn học. Nó là yếu tố bền
vững xuyên suốt trong các sáng tác của văn học nhà
văn.
2, Giới thiệu phong cách nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Tuân quả là người có cái nhìn độc đáo như
thể trong tác phẩm “Người lái đò sông đà” ta thấy ông là
nhà văn uyên bác tài hoa. Thiên nhiên và con người
hiện lên trước mắt ông luôn ở trạng thái phi thường
khác thường, gây cảm giác mạnh. Cảnh vật được quan
sát ở phương diện mĩ thuật. Thể tùy bút dưới tay ông
phát huy những vẻ đẹp tiềm năng của nó ,xét đến cùng
đó là niềm cảm hứng mê say suốt đời đi tìm cái đẹp,
một cái đẹp gắn liền với cái tâm tức là tình yêu đặc biệt
của ông đối với con người, đất nước Việt Nam. Tài
năng ấy, tình yêu ấy đã mở đường cho ông một lối đi
riêng không giống với bất kì ai trên con đường vinh
quang và đầy gai góc của văn chương nghệ thuật.

II, Chứng minh phong cách nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Tuân trong tác phẩm
1, Uyên bác và tài hoa
A, Tài hoa
Nhận xét : Từ tác phẩm người lái đò sông đà người đọc
nhận ra nét tài hoa của ngòi bút Nguyễn Tuân ở khả
năng phô diễn một kho ngôn ngữ phong phú được sử
dụng một cách tinh diệu, gây hứng thú bất ngờ với
người đọc. Tiến sĩ Ni-cu-lin nhận xét “Nguyễn Tuân là
bậc thầy của ngôn ngữ sống động” quả vậy đọc tác
phẩm người lái đò sông Đà ta có cảm giác nhà văn
truyền điện cho chữ, chữ truyền sức nóng cho dòng
sông, dòng sông truyền sức nóng cho bạn đọc.
Dùng từ: khi diễn tả dòng sông trữ tình Nguyễn Tuân đã
ví như một áng tóc trữ tình, mái tóc thường được kết
hợp với từ chỉ màu sắc, chữ sáng dùng để chỉ tác phẩm
văn chương nhưng ở đây nhà văn lại có sự kết hợp thú
vị nó khiến sông Đà cũng trở thành công trình tuyệt mỹ
của tạo hóa. Hay khi miêu tả ông lái đò kiên cường, nén
chịu vết thương Nguyễn Tuân đã viết “mặt méo bệch
đi”, méo bệch đi vừa diễn tả được sự biến dạng vừa làm
nổi bật nét da nhợt nhạt do sóng thác đánh vào. Đặc
biệt là lúc Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò “ghì cương
lái-nắm bờm sóng” một hình thức ẩn dụ tài hoa khiến
con thuyền trở thành chiến mã bất kham còn ông lái đò
vụt lớn lao, trở thành một người kỵ binh anh hùng tung
hoành trên chiến trận sông Đà.
Câu văn: Nhưng hơn hết tài hoa của Nguyễn Tuân còn
được thể hiện ở cách tổ chức câu văn linh hoạt, có khi
ngắn gọn bất ngờ, va đập xô đẩy vào nhau: “nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió” hay có khi phá vỡ quy tắc
chính tả để phản ánh đối tượng : “con sông Đà tuôn dài
tuôn dài” có lúc Nguyễn Tuân lại sáng tạo những câu
văn so sánh bất ngờ thú vị “có lúc rống lên như một
ngàn con trâu mộng”.
B, Uyên bác
Thể hiện trong bài kí là một kho kiến thức rộng lớn nàng
văn của Nguyễn Tuân thật quảng giao ,đón du khách
bốn phương trời kiến thức “lịch sử, địa lý, văn hóa, hội
họa, điêu khắc, quân sự, điện ảnh…
- Với tư cách là người hiểu biết địa lí Nguyễn Tuân đã
cho người đọc biết sông Đà bắt nguồn từ đâu, tên là gì,
dài bao nhiêu cây số.
- Với hiểu biết về lịch sử Nguyễn Tuân đã cho người
đọc thấy dòng sông này đổi tên bao nhiêu lần, qua các
triều đại nào những chiến công của của quân dân ta
trong kháng chiến chống Pháp.
- Là nhà văn, Nguyễn Tuân đã dẫn ra những câu thơ
hay liên quan đến dòng sông tạo vẻ quan trọng cho bài
kí.
“Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu.”
“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông.”
“Yên hoa tam nguyệt há dương châu.”
- Khi miêu tả hút nước, Nguyễn Tuân tận dụng sự
hiểu biết về điện ảnh. Ông như một nhà quay phim lão
luyện cống hiến cho người đọc những cảnh quay kịch
tính.
- Khi miêu tả cuộc giao chiến nhà văn sử dụng hiểu
biết về các lĩnh vực võ thuật, thể thao,quân sự điện ảnh,
gợi bao cảm hứng thẩm mĩ mới lạ cho người đọc.
2, Ông hướng tới cái khác thường, phi thường để gây
cảm giác mạnh.
+ Lí luận : Nguyễn Tuân là nhà văn thèm cảm giác mới
lạ. Điều này liên quan đến cái hứng thú xê dịch của nhà
văn, cái hứng thú làm nên câu nói nổi tiếng “khi tôi chết
hãy thuộc da tôi làm một tấm va li” để thỏa mãn cảm
giác xê dịch Nguyễn Tuân không chịu nổi cái bằng
phẳng, nhợt nhạt văn của ông là văn của đèo cao dốc
thẳm, của bạo lực dữ dội hay vẻ đẹp siêu phàm.
+ HUNG BẠO: Để lột tả cái hung bạo của Đà Giang con
mắt sành nghệ thuật của Nguyễn Tuân đã tìm đến
những vật chứng ghê người. Đó là những con thác dữ
trên thượng nguồn, là đoạn bờ sông đá cứng vách
thành hiểm trở, là vách đá chẹt dòng sông đà như một
cái yết hầu tạo cảm giác chèn kẹp đến nghẹt thở ,là cái
hút nước hung bạo, là tiếng thác nước rống lên như một
ngàn con trâu mộng… Đặc biệt là cảnh tượng đá bày
thạch trận với cửa sinh cửa tử, boong ke chìm pháo đài
nổi, với những binh đoàn đá nổi giăng vây thế trận trên
khe nước.
+Trữ tình : Ấy thế mà lúc con quái vật biến mất nhường
chỗ cho nàng tiên trên mặt đất. Sự biến hóa của Hình
ảnh Sông Đà cũng chính là sự biến hóa của ngòi bút có
tầm vóc: Từ nét bút tạo liệt chuyển sang nét bút mềm
mại ,đầy chất thơ với những hình ảnh so sánh tuyệt vời.
Sông Đà khoe mình dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân với
một vẻ đẹp lạ thường.
+Sông Đà cái dây thừng ngoằn ngoèo.
+Sông Đà như một áng tóc trữ tình.
+Sông Đà như một cố nhân.
+Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.
Những so sánh biến hóa không trùng lặp gây cho người
đọc cảm giác không thể so sánh hay hơn được nữa và
người đọc như bị thôi miên trước vẻ đẹp của Đà giang.
3, Con người là nghệ sĩ, sự vật được khám phá ở
phương diện văn hóa mỹ thuật
A, Sự vật cái đẹp
- Sông Đà khoe mình dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa.
Nhà văn ở đây tạo nên một áng thơ – văn xuôi đặc sắc.
- Sông Đà duyên dáng như một áng tóc trữ tình, cổ
kính như một áng thơ đường, hoang dại như một bờ
tiền sử, bồi hồi như một nỗi niềm cổ tích.
- Liệu mấy ai đủ công như như Nguyễn Tuân,quan
sát sự biến ảo tinh tế của màu sông nước, tạo nên một
vẻ đẹp quyến rũ.
B, Con người nghệ sĩ
- Khái niệm nghệ sĩ: theo Nguyễn Tuân khái niệm tài
hoa nghệ sĩ được hiểu theo nghĩa rộng ,không chỉ dành
riêng cho lĩnh vực nghệ thuật mà chỉ bất cứ người nào
đạt đến trình độ điêu luyện trong nghề nghiệp và biết
thưởng thức cái đẹp
- Ông lái đò: nhà văn xóa mờ những nét riêng biệt của
chân dung ông lái đò tay lêu nghêu, chân khuỳnh
khuỳnh giọng ào ào in đậm dấu ấn sông nước. Nhà văn
đã tạo ra một chân dung vô danh dễ lẫn và đám đông
nhưng chính con người ấy lại sừng sừng hiện lên như
một viên tướng chí dũng, như một nghệ sĩ tài hoa vượt
qua con thủy quái sông Đà. Nhà văn đã miêu tả cuộc
giao tranh giữa ông lái đò với dòng sông để làm nổi bật
nét tài hoa của người nghệ sĩ. Nguyễn Tuân đã huy
động ngót 300 động từ mạnh để ganh đua cùng cơn
cuồng nộ của sông đà người đọc như nghẹt thở khi
dòng sông rống lên “vồ lấy, đá trái’… Ngưỡng mộ hình
ảnh ông lái đò tả xung hữu đột nắm bờm sóng ghì
cương lái, chặt đôi, chọc lưng…, Nguyễn Tuân ca ngợi
ông lái đò là tay lái ra hoa. Hoa là tài hoa, là cái đẹp, là
tay lái đạt tới trình độ điêu luyện. Ông lái đò là một nghệ
sĩ trong nghề nghiệp chèo đò vượt thác.
4, Thể tùy bút
Sở trường của Nguyễn Tuân là thể tùy bút với những
câu văn có chuỗi nhịp nhàng với giọng văn vừa cổ điển
vừa hiện đại với một kho từ vựng phong phú, đem đến
những liên tưởng đặc sắc cho người đọc.

You might also like