You are on page 1of 23

I.

ĐỌC THÊM
1. Nguyễn Tuân là một cái tôi “ngông” vừa rất lạ, rất đặc biệt, vừa lấp lánh
không gì sánh nổi trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông là một con tằm rong
chơi qua ngàn dâu thắm, hóa kén mọng, nhả tơ vàng, dệt nên nhiều lụa óng,
lắm “trang hoa”, góp phần làm vẻ vang thêm cho nền văn học sớm đã rộn
ràng của nước nhà.
2. Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn
học Việt Nam. Ông có một kho từ vựng phong phú và một khả năng tổ chức câu
văn xuôi đầy giá trị tạo hình, lại có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng.
Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: “Không biết
chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc
thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô song mà
mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
=>Với gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, bằng ngòi bút đầy tài năng của
mình, Nguyễn Tuân đã có những đóng góp tto lớn, một vị trí quan trọng trong
lịch sử văn học Việt Nam: Thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt đến đỉnh
cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện
đại Việt Nam một phong cách tài hoa và độc đáo.Nguyễn Tuân đã thực sự
“vang bóng một thời” và những trang văn tài hoa, độc đáo của ông cũng sẽ bất
tử mãi tử mãi trong lòng bạn đọc.
3. Vẻ đẹp của trang viết Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ một cách viết
mang chiều sâu, bề rộng và tầm cao văn hóa. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc,
đặc biệt biểu hiện ở thái độ thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền
thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi, khơi
nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới. Ông xứng đáng được mệnh danh là
“chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố
Hữu). Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ
nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân

II. Ý NGHĨA NHAN ĐỀ


- Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung
tâm của tác phẩm đó là ông lái đò – một người lao động tại vùng sông nước Tây
Bắc. Ông lái đò vừa có những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có
phẩm chất của một người nghệ sĩ tài hoa. Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến
một hình tượng không kém phần quan trọng của tác phẩm là con sông Đà. Vẻ đẹp
thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng không kém
phần thơ mộng, trữ tình.
- Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp của con người lao động
ở vùng núi Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê
hương đất nước.
1. Bố cục tác phẩm
- Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Vẻ hung dữ của con sông Đà
- Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống của con người trên sông
Đà và hình ảnh người lái đò sông Đà
- Phần 3 (còn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà
2. Tóm tắt
Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng
khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào
để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Thiên nhiên Tây Bắc được tô
điểm bởi con sông đà vừa hung bạo vừa trữ tình. Sông Đà có lúc dịu dàng như
người phụ nữ kiều diễm. Nước sông Đà thay đổi theo mùa phản chiếu trời xuân
nắng thu “Mùa xuân dòn xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người
bầm đi vì rượu bữa”. Dọc theo sông Đà, có lắm thác nhiều ghềnh, có đá dựng vách
thành, có đá tảng, đá hòn bày thế thạch trận, tạo nên cửa sinh cửa tử. Nổi bật trên
bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đầy sức sống đó là hình ảnh ông lái đò sông Đà. Đó
là một người mang vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân lao động vùng sông nước với
thân hình cao to, nước da rám nắng. Ông làm nghề lái đò đã nhiều năm, từng gắn
bó với dòng sông Đà, hiểu được tính khí của nó. Ông thuộc nằm lòng từng con
thác lớn, thác nhỏ, từng vách đá, luồng nước, từng cửa sinh, cửa tử do thế thạch
trận tạo nên. Ông đã dùng kinh nghiệm nghề nghiệp cộng với sự cần cù gan dạ đưa
con thuyền vượt thác nước sông Đà đầy nguy hiểm. Ông đã đưa nhiều chuyến hàng
về xuôi an toàn để góp phần vào cuộc sống. Sau khi vượt sông Đà, ông lái đò trở
về cuộc sống đời thường thanh thản của mình, ông neo thuyền chổ khúc sông bình
lặng và nấu ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh
III. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Ý nghĩa lời đề từ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”

Đề từ không phải thứ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có vai
trò như chìa khóa để người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật tác
phẩm.Tiếp nhận tùy bút “Người lái đò sông Đà” bằng lời đề từ có thể giúp đọc giả
phần nào nhận thấy những gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà Nguyễn Tuân dày
công xây dựng.

2. Lời đề từ

Lời đề từ có thể do tác giả sáng tạo ra, cũng có thể do tác giả vay mượn từ
câu nói, lời thơ của một tác giả khác. Chẳng hạn, trong thi phẩm nổi tiếng “Tràng
giang”, Huy Cận có lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” . Hay câu nói
nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn
phải tiếp tục chiến đấu để quét sạch nó đi” được nhà văn Nguyễn Minh Châu làm
lời đề từ cho tác phẩm “Dâu chân người lính”.Trong bài thơ “Ngày gặp gỡ”, Hồ
Dzếnh đã mượn hai câu thơ của Tú Xương làm lời đề từ :

“Vẳng nghe tiếng ếch bên tai


Giật mình cứ tưởng tiếng ai gọi đò”

Hay lời đề từ cho tập “Nhật kí trong tù” in ở bìa sách:

“Thân thể ở trong lao


Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”

Chức năng cơ bản của lời đề từ là bổ sung và làm rõ tác phẩm, đề dẫn và
dự báo nội dung tư tưởng tác phẩm, chứa đựng cái hồn, cái thần thái của tác phẩm
văn học. Đối với chủ thể sáng tạo, lời đề từ không những khơi nguồn cảm hứng mà
còn thể hiện cảm xúc, phong cách nghệ thuật và chuyển tải ý đồ đến độc giả.Với
người đọc, đề từ là điểm nhấn, tín hiệu nghệ thuật mang ý nghĩa định hướng trong
quá trình tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ. Đề từ không phải là thứ
đồ trang sức tô điểm cho tác phẩm văn học mà nó có tác dụng như chìa khóa để
người đọc mở cánh cửa thâm nhập vào thế giới nghệ thuật. Có thể nói, tiếp cận lời
đề từ độc giả có thể phần nào nhận thấy những gợi ý về “tháp ngà nghệ thuật” mà
nhà văn xây dựng. Vì vậy, bỏ sót hoặc khai thác sơ sài lời đề từ chúng ta sẽ làm rơi
rụng không ít vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật.

3. Nhà văn Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo bậc nhất, là tác giả lớn của
văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc của cả hai giai đoạn trước
và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân là một cuộc hành
trình bền bỉ, không mệt mỏi kiếm tìm những cái đẹp của quá khứ mà hiện tại chỉ
còn vang bóng. Sau Cách mạng, ông kiếm tìm, khám phá cái đẹp trong hiện thực
cuộc sống đương thời.

Lời đề từ đầu tiên: Nguyễn Tuân đã lấy câu thơ của nhà cách mạng Ba
Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”. Tiếng hát
trên dòng sông phải chăng là tiếng của những người chèo đò, vượt thác, kéo
thuyền, tiếng hát cất lên từ những tâm hồn con người Tây Bác tha thiết với thiên
nhiên, đất nước, lạc quan, yêu đời. Người lái đò sông Đà là một trong hai hình
tượng trung tâm của thiên tùy bút.

Tiếng hát trên dòng sông là tiếng ca của những người lái đò trên sông nước
Đà giang - những người anh hùng lao động sông nước, nghệ sĩ ba lê giữa muôn
trùng thác đá. Cuộc đời người lái đò vô danh nơi ngọn thác khuất nẻo hoan vu là
thiên anh hùng ca, là pho nghệ thuật tuyệt vời. Sáng tạo nên nhân vật trung tâm của
bản tráng ca ấy, Nguyễn đã cất lên tiếng hát say mê, phấn khích và đầy ngưỡng
mộ, thể hiện một quan niệm mới của Nguyễn về con người: Con người bất kể nơi
đâu, bất kể địa vị và nghề nghiệp, sống trọn với bản tính tự nhiên của mình là đều
đáng được ngưỡng mộ và tôn vinh.

Lời đề từ thứ hai: Nguyễn Tuân mượn hai câu thơ của Nguyễn Quang
Bích để nói về sông Đà:

“Chúng thủy giai Đông tẩu


Đà giang độc Bắc lưu”
(Mọi dòng sông đều chảy về Đông
Chỉ có một dòng sông Đà theo hướng Bắc)

Lời đề từ ngắn gọn nhưng hàm ẩn nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, việc sử
dụng những câu thơ chữ Hán làm tăng thêm tính trang trọng, đồng thời nhấn mạnh
đến ý nghĩa khác biệt, độc đáo, những tương quan đối cực của một hiện tượng địa
lý của miền Tây Bắc Tổ quốc - Sông Đà như một sinh thể đa dạng, phức tạp. Mọi
con sông đều chảy về phía Đông như quy luật của tự nhiên, duy chỉ có sông Đà
chảy về phương Bắc. Từ “độc” được sử dụng vô cùng hiệu quả để thể hiện sự độc
nhất, cá tính khác biệt của con sông. Lời đề từ làm toát lên vẻ đệp hoang sơ nhưng
không kém phần độc đáo của sông Đà, đồng thời thể hiện sự mạnh mẽ của con
sông khi chảy qua một vùng núi non hiểm trở. Lời đề từ không phải của Nguyễn
Tuân nhưng lại được sử dụng rất đắt giá trong vị trí lời đề từ của tùy bút. Câu thơ
ấy không chỉ bộc lộ vẻ đẹp độc đáo, dữ dội của sông Đà mà còn khẳng định phong
cách “ngông” của Nguyễn Tuân, một con người luôn tìm tòi cái mới, sáng tạo
những gì chưa có bằng tài năng uyên bác, cá tính con người của mình.

Lời đề từ của thiên bút kí đặc sắc còn hé lộ khát vọng mãnh liệt của
Nguyễn Tuân trên hành trình khám phá hiện tượng thiên nhiên kì thú, đó là thể
hiện một dòng sông chữ, nghĩa là muốn thể hiện một phong cách nghệ thuật độc
đáo để khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác, không lặp lại cũng như dòng chảy
ngược hướng sông Đà khác với tất ca dòng sông khác. Những trang văn “Người
lái đò sông Đà” chính là những trang hoa, những tờ hoa kết tinh bao cái đẹp: cái
đẹp của thơ cơ, của hội họa và của những tác phẩm điêu khắc.

4. Hình tượng sông Đà

“ Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát


Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa
Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội
Thu chớm lạnh sóng nước lập lờ trôi”
(“Nhớ sông Đà”, Quang Lâm)

A. NÉT TÍNH CÁCH [HUNG BẠO] CỦA SÔNG ĐÀ

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” nổi bật lên với hai hình tượng chính:
hình tượng Sông Đà và hình tượng ông lái đò. Trong đó, dọc thiên tùy bút này, vẻ
dữ dội, hiểm trở và táo tợn của con Sông Đà đã làm không ít người phải khiếp đảm
mà hình dung rằng: “Đi tới sông Đà là nguy hiểm trùng trùng”. Nhưng ẩn sau
những hung bạo đó vẫn có sự hiền hào, trữ tình nên thơ. Hai tính cách đối lập như
một “cố nhân” khó chiều, và lại lịch của loài thủy quái ấy cũng không kém phần
đặc biệt: "Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên
(theo Dư địa chỉ của Nguyễn Trãi thì tên Trung Quốc của sông Đà lại là Bả Biên
Giang) mà đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch
Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thi cham hoa vào sông
Hồng. Từ biên giới Trung Việt tới ngã ba Trung Hoa là 500 cây số lượn rồng rắn,
và tinh toàn thân Sông Đà thi chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước
Việt Nam Trung Quốc xóm giềng" (Trích tùy bút Người Lái Đò Sông Đà). Sông
Đà đã hiện lên như thế, như một đứa con mang hai dòng máu, mà lại thích gắn bó
về một phía nên “nhập quốc tịch” về Việt Nam. Dưới ngòi bút của “nhà ngôn ngữ
học” Nguyễn Tuân, Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri vô giác, mà là một
sinh thể sống động, có tính cách và cảm xúc như một con người. Bởi vì thế, “Sông
Đà” cũng được viết hoa cả hai chữ cái đầu tiên như một danh từ tên riêng. Chính
lời đề từ của tác phẩm đã thể hiện sự độc đáo và khác biệt của Sông Đà ấy: "Chúng
thủy giai Đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu" - Mọi dòng sông đều chảy về hướng
đông, chỉ có Sông Đà chạy theo hướng bắc. Và nhà văn đã mượn câu của nhà thơ
cách mạng Ba Lan Wladyslaw Broniewski: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng
sông", đưa Nguyễn Tuân đến với lời khẳng định: nhà văn có một trong những lời
đề từ hay nhất của làng văn chương Việt Nam” (Trần Quỳnh Trang). Hai lời đề từ
đặc biệt ấy đã đưa người đọc vừa tò mò xen lẫn những hồ nghi về một con sông
được giới thiệu quá đỗi khác biệt- khiến độc giả muốn đi tiếp để tìm ngay lời giải
đáp thật thuyết phục.

- Viết về sông Đà, nghĩa là Nguyễn Tuân đã chấp nhận một thử thách bởi lẽ: Với
người Việt Nam thì vốn dĩ dòng sông ấy đã là một huyền thoại. Đó là huyền thoại
về chàng Thủy Tinh với nỗi oán hờn không lấy được người mình yêu nên cứ năm
năm báo oán đời đời đánh ghen. Điều đó chứng tỏ trí tưởng tưởng của người Việt
Nam hẳn là phải rất bay bổng còn tâm hồn người Việt Nam thì hẳn là rất lãng mạn
thì mới có thể gắm cho dòng sông thác lũ ấy hình ảnh người tình si và vì thế, khi
mà viết về sông Đà, bản thân Nguyễn Tuân đã chấp nhận tìm đến môt huyền thoại
mới cho dòng sông này.

Mặt khác, một thử thách nữa của Nguyễn Tuân là: Xưa nay, thơ văn viết
về sông nước là không hiếm. Thậm chí có cả kiệt tác để đời. Ví dụ không thể quên
được hai câu thơ của Lý Bạch:

“Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước


Ngỡ dải ngân hà tuột khỏi mây”

Còn trong “Bạch Đằng giang phú”, Trương Hán Siêu đã viết:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm


Thướt tha đuôi trĩ một màu”.

Nhưng dẫu sao, vẻ đẹp sông nước trong thơ xưa cũng chỉ là vẻ đẹp như
của một bức tranh và sự dữ dội cũng là sự dữ dội ở thế tĩnh. Còn với Nguyễn Tuân,
ông bắt sự dữ dội lia phải nổi lên thành hình khối và phải gào thét trong muôn vạn
âm thanh, phải náo động và sống động như một sinh thể. Nguyễn Tuân đã khiến
cho người ta khi đứng trước thiên nhiên ấy không hỉ chiêm ngưỡng mà còn khát
khao chế ngự nó.

* Sự dữ dội của sông Đà được thể hiện qua vách đá sông Đà
- Vách đá trên sông Đà: “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách
đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
+ “Vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu”.
+ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”.
+ Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn
đá từ bờ bên này qua bên kia vách…
+ “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

=>Cách so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như
Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng đầy ăm ắp để tìm cho
được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

* Sự dữ dội của Sông Đà ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

- Nếu như ở vách đá sông Đà, Nguyễn Tuân thiên về miêu tả hình ảnh thì ở quãng
măt ghềnh Hát Loóng, Nguyễn Tuân lại tạo nên một bản hòa tấu, một bản giao
hưởng tử thần với hàng cây số: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào
tóm được qua đấy”. Bản giao hưởng này khiến cho ta nhớ tới sử thi “Ô – đi – xê”
của Hermero. Trong bản sử thi đó, tiếng hát mê hồn của những nàng tiên cá Si –
men cũng là tiếng hát của thần chết. Bởi lẽ tất cả các thủy thủ khi nghe tiếng hát
này đều nhảy xuống biển.

*Sự dữ dội được thể hiện ở quãng Tà Mường Vát:

- Để miêu tả cái hút nước, Nguyễn Tuân đã dường như huy động mọi kiến thức từ
kiến thức thủy lợi, cầu đường khi miêu tả cái hút nước nó giống như cái giếng bê
tông được thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu cho đến kiến thức giao thông
khi miêu tả cảnh “không thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy, thuyền nào
cũng chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh
để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” . Lại có cả kiến thức của
ngành khai thác dầu khoan với so sánh: “Chèo cho nhanh và tay lái cho vững để
phóng qua một cái giếng sâu”, những cái giếng sâu mà “nước ặc ặc lên như rót
dầu sôi vào”. Nhưng có lẽ, thú vị nhất là cách mà Nguyễn Tuân đã sử dụng kiến
thức về điện ảnh để làm nổi bật lên cái hút nước đáng sợ kia và Nguyễn Tuân cũng
đã rất giỏi để chọn góc quay khác nhau. Có những góc quay mang tính biểu tượng
khi quay trên cái mặt xoáy hút nước ấy những “cánh quạ bay lừ lừ”. Cái ngôn ngữ
ấy đủ để chúng ta hiểu là dưới những cái hút đáy chẳng khác nào một cái cối xay
thịt. Lại có góc quay khác ấn tượng và táo bạo hơn khi quay được cảnh “nhiều bè
gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là bị cái hút ấy hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở dưới khuỷu sông dưới”. Bè gỗ còn là thế, huống chi là con người
nhỏ bé. Hình như ở cái quãng sông ấy, nếu ai phải lao động trên nó thì không khác
gì phải lao vào một trận tử chiến. Nhưng Nguyễn Tuân có vẻ không bằng lòng ở
cảm giác ấy, nhà văn còn tưởng tượng đến một cảnh quay mạo hiểm hơn, đáng sợ
hơn khi nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho
khan giả đã dám dung cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả
thuyền, cả mình, cả máy quay xuống tận cái đáy của hút sông Đà để thu máy trong
điều kiện: “cái thuyền xoay tít, những thước phim cũng quay tít. Cái máy đã lia
ngược lên trên mặt giếng mà thành giếng đã xây toàn bằng nước sông xanh ve,
một áng thủy tinh khối đúc dày và khối pha lê xanh ấy như là sắp vỡ tan để ụp cả
máy vào người quay và người xem”. Và để kì công hơn, Nguyễn Tuân lại phải
thêm một so sánh nữa: “như thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt lấy ghế như ghì
lấy mép của một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút
lên cái gậy đánh phèn”. Dày công như Nguyễn Tuân, kĩ lưỡng như Nguyễn Tuân
để đạt được vẻ đẹp sinh động và sống động như Nguyễn Tuân cũng thực là hiếm
hoi.

* Sự hung bạo ở Thạch trận sông Đà

- Âm thanh thác nước sông Đà:

+ Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu
khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ,
các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm
của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa...rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng...”.

+ Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được
Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất
hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân
quả là đã chơi “ngông” lắm trong nghệ thuật.

- Diện mạo của thạch trận:

Sau khi miêu tả âm thanh của thác đá, Nguyễn Tuân đã đặc tả diện mạo
của đá sông Đà. Điều này cũng là một thử thách bởi đá bao giờ cũng là biểu tượng
của sự câm lặng đến trơ lì. Vậy mà Nguyễn Tuân nhận ra: Đá sông Đà thằng nào
cũng nhăn nhúm, ngỗ ngược. Cái sự ngỗ ngược ẩn chứa trong vẻ bề ngoài im lặng
bao giờ cũng rất đáng sợ.

- Tâm địa của thạch trận:


Nhưng đá sông Đà im lặng mà nham hiểm. Nó không nằm ngồi tùy ý
mà đang cố tình bày thạch trận trên sông. Sơ đồ chiến thuật của sông Đà vừa gợi
người đọc nhớ tới trận “Đồ Bát Quái” của Khổng Minh, vừa gợi đến sơ đồ chiến
thuật rất hiện đại của quân sự. Sơ đồ chia thạch trận sông Đà làm ba tuyến (3 vòng
trùng.

+ Tuyến 1( Trùng vi 1): Mở đầu là hàng tiền vệ, gồm hai hòn đá canh
một cửa có nhiệm vụ dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa. Sông Đà bước vào
trận với tư thế chủ động, hống hách và tự tin. Mở đầu trận đánh hai tảng đá của
hàng tiền vệ vừa có nhiệm vụ dụ dỗ người lái đò lao vào trận địa của mình, vừa
khiêu khích, thách thức với tất cả thái độ của kẻ chắc thắng. Rồi ngay khi ông đò
xuất hiện, sông Đà sử dụng một sức mạnh tổng lực để ra những đòn phủ đầu quyết
đánh dập con thuyền. Sông Đà không từ một món đòn hiểm nào, từ việc ùa vào bẻ
gãy cán chèo đến việc đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền, cho đến việc đội
cả thuyền lên, túm lấy thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa ra. Thêm vào đó, là sự tiếp
sức của sóng nước sông Đà. Tiếng reo vang của chúng tạo nên cả một trận nước
vang trời thanh la não bạt. Sông Đà càng đánh càng hung, càng đánh càng bạo.
Thậm chí, chúng không từ một món đòn “vô sở bất chí”. Không từ cả trò tiểu
nhân, bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò, miễn là phải buộc ông đò rời tay lái nhưng
dẫu thế, sông Đà vẫn phải chịu thất bại trước người lái đò kiên cường.

+ Tuyến 2 (Trùng vi 2): Dù vừa chịu thất bại, sông Đà không hề nao
núng, lập tức nó tỉnh táo để thay đổi chiến thuật. Điều đó cho thấy, sông Đà không
phải là kẻ hữu dung vô mưu, dòng sông ấy như đã quá rõ về trận mạc, không điều
gì là nó không tính được. Vòng đầu, sông Đà đánh phủ đầu để dọa đối thủ non tay
nhưng ngay sau đó, sông Đà nhận ra ông lái đò là một đối thủ nặng kí, không chỉ
dung sức mà còn phải dung mưu. Lần này, nó bố trí lệch cửa sinh, từ tả ngạn sang
hữu ngạn. Chưa hết, nó còn bày thêm nhiều cửa tử để đánh lừa ông lái đò. Mưu ấy
quả xứng là mưu sâu kế hiểm, không phải thứ mưu mẹo tẹp nhẹp tầm thường. Đó
thật sự là thứ binh pháp của thần sông thần đá được tôi rèn mấy nghìn năm nay.
Hơn nữa, ở vòng này, sông Đà cũng không còn khinh xuất, coi thường đối thủ. Nó
thận trọng, tập trung toàn bộ sức lực để thể hiện cho kì được âm mưu ấy. Dòng
thác được miêu tả là: “Dòng thác hùm beo đang hùng hục tế mạnh. Bốn, năm bọn
thủy quân cửa ải nước bên bờ trái xô hết vào ông đò lôi ông vào bẫy cho dù đã
chắc thua, chúng vẫn không ngớt khiêu khích”. Vậy mà, thua vẫn hoàn thua.

+ Tuyến 3 (Trùng vi 3): Thế thua của sông Đà đã xuất hiện ở cuối vòng
hai nhưng Sông Đà thật sự là đối thủ cao thượn, hiệp võ, thua mà vẫn không bỏ
cuộc, thua mà vẫn chiến đấu đến tận giây phút cuối cùng, vẫn mong sự ngoan cố
có thể gowc gạc lại đôi phần. Quả thật, Nguyễn Tuân vừa miêu tả sông Đà như kẻ
thù số 1 của con người lại vừa khẳng định, đó là một kẻ thù xứng tầm và xứng
đáng để tôn vinh vẻ đẹp của người lao động.
Trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Tuân đã khiến sông Đà hiện lên
như một thiên anh hùng ca. Thần thoại Hy Lạp xưa tưởng tượng về biển ca trong
hình hài của một vị thần. Thần biển Poxedong, chính vị thần tính khí thất thường
ấy đã khiến người anh hùng Uylitxo mười năm trời lênh đênh trên biển cả mới trở
về quê hương I-tắc nhưng cũng vì thế mà chính Poxedong đã làm nổi bật lên vẻ
đẹp của Uylitxo. Xét ra, Nguyễn Tuân vẫn giữ trọn sự phong phú trong lối tư duy
của con người thời ấu thơ. Bởi dòng Sông Đà của Nguyễn Tuân quả thật đã là một
huyền thoại bên cạnh huyền thoại về chàng Thủy Tinh đa tình.
=> Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba, uyên bác, lịch lãm. Ông thường vận dụng
cách nhìn, cách tiếp cận của nhiều nghành nghệ thuật để phát hiện, miêu tả đối
tượng, để làm cho nó hiện lên dưới nhiều góc nhìn phong phú, mới lạ.Nguyễn
Tuân miêu tả sông Đà như một con quái vật có linh hồn, có tính cách, rất hung nộ
và cọc cằn, ngày đêm làm mình làm mẩy với núi rừng Tây Bắc hùng vĩ.
B. .NÉT TÍNH CÁCH [ TRỮ TÌNH ] CỦA ĐÀ GIANG
Sinh thời Nguyễn Tuân rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật của M.Groki:
“Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”. Một người như ông không có cái
khuôn khổ vô hình nào câu thúc nỗi khát vọng thiện lương, khát vọng dùng văn
chương để thưởng ngoạn thì con sông Đà kia không chỉ hung bạo mà rất đỗi trữ
tình, thơ mộng.
Nếu như trên thượng nguồn, con sông Đà hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu
thì đến khúc sông hạ lưu sông Đà lại trở nên dịu dàng, thơ mộng bấy nhiêu. Sinh
thể Đà giang giờ chợt rùng mình thoát xác, trở thành một dòng sông – thiếu nữ,
dòng sông trữ tình. Đó là 1 khoảng vọng mĩ nhân muôn kiếp đa tình trong đôi mắt
và tâm hồn thi nhân muốn thuở.

* Vẻ đẹp trẻ trung, tình tứ của sông Đà:

- Nguyễn Tuân đã khám phá ra một góc nhìn đầy mới lạ về sông Đà, đó là từ trên
cao nhìn xuống.
+ Dòng sông chảy trong một không gian, tự nó như muốn khoe dáng hình kiều
diễm. Vẻ đẹp của dòng sông thiếu nữ làm xiêu lòng người nghệ sĩ. Dòng sông như
một bức tranh thủy mạc, đoạn văn như một bản nhạc.
+ Những câu văn của Nguyễn Tuân co duỗi nhịp nhàng, âm điệu uyển chuyển,
hình ảnh mơ màng. Nguyễn Tuân lồng cảnh vào cành, tình vào tình để thú nhận
với chính mình về nỗi say đắm “phải lòng” trước vẻ duyên dáng, tuyệt mỹ của
sông nước Đà giang và mây trời Tây Bắc như một dải lụa mềm khoác trên bờ vai,
vương vấn trên “áng mun dài ngàn ngàn vạn sải”.

- Vẻ trẻ trung của Sông Đà còn được thể hiện ở sắc nước Sông Đà.
+ Mùa xuân: “Dòng xanh màu ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh
canh hến của sông Gâm, sông Lô”.
+ Mùa thu: Nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”.
Nguyễn Tuân chắc phải rất kì công quan sát để rồi miêu tả màu sắc biến ảo của
sông Đà đẹp và tinh tế đến như vậy. Với Nguyễn Tuân thì sông Đà mỗi mùa mang
một vẻ đẹp riêng, một vẻ quyến rũ và tình tứ mà không một dòng sông nào có
được.

* Vẻ đẹp của một dòng sông Đà gợi cảm:

- Đối với sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm sung sướng và yêu mến như với
một người bạn cố nhân. Nói đến cố nhân là nói đến người bạn quen biết từ lâu rồi,
tưởng như mình đã thân thuộc với người ấy lắm rồi, tưởng chẳng còn gì để mà xa
lạ nữa. Thế mà lần nào gặp lại người cố nhân ấy, ta cũng có một niềm xúc động
thật sâu sắc, một sự ngỡ ngàng khi ta như vừa nhận ra một điều gì đó vô cùng mới
mẻ. Sông Đà với Nguyễn Tuân là một điều như thế! Đã bao lần Nguyễn Tuân đến
với Sông Đà cũng là bấy nhiêu lần Nguyễn Tuân được trải nghiệm niềm vui sướng.
Đặc biệt là những niềm vui sướng vô cùng đột ngột. Sông Đà đem lại cho ta một
cảm giác yêu thích. Cảm giác như ta được sống lại thế giới tuổi thơ để thấy lòng
bừng sáng náo nức đến rộn ràng. Sông Đà khiến cho mỗi người khi đứng trước nó
không thể lặng yên mà lúc nào cũng thấy òa vỡ một niềm vui. Nguyễn Tuân khi
viết tùy bút Sông Đà đã ở vào cái độ tuổi 50 – cái độ tuổi mà người ta không còn
quá sôi nổi. Vậy mà, nhà văn Nguyễn Tuân vẫn tìm được những so sánh rất đỗi trẻ
trung. Sông Đà hiện ra trước mắt trông “loang loáng như đứa trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Và Nguyễn Tuân ngỡ ngàng nhận ra cái miếng
sáng loang loáng, lung linh, kì diệu kia chính là màu nắng của Sông Đà. Vốn dĩ,
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn có sở trường tả nắng những thứ nắng sông Đà
trong trang văn của Nguyễn Tuân thì vẫn cứ hiện lên rất đỗi Nguyễn Tuân. Đó là
một thứ nắng tháng ba Đường thi vừa tươi tắn, tinh khôi; vừa rực rỡ, diễm lệ; vừa
kì ảo, huyền thoại. Và khi được tràn ngập trong thứ ánh sáng kì diệu, nhiệm màu
ấy thì một con người ưa sự độc đáo như Nguyễn Tuân cũng phải thốt lên đầy xúc
động. Bởi lẽ, Sông Đà mà mình vẫn coi là tri kỉ nhưng sao lần nào gặp lại vẫn thấy
là mới lạ, vẫn thấy ngây ngất, vẫn cứ thấy đắm say như lần đầu tiên gặp mặt, vẫn
chỉ là bờ ấy, bãi ấy; vẫn chỉ là chuồn chuồn, bươm bướm ấy; vậy mà phải xúc động
thốt lên: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Những câu văn thực ra là phép liệt kê đơn giản
nhưng theo cách của Nguyễn Tuân, nó vẫn có độ ngân vang tha thiết bởi mỗi lần
gặp lại Sông Đà là một lần thấy vui, một niềm vui thật khó bút nào tả xiết và
Nguyễn Tuân đã diễn tả niềm vui ấy một cách thành công bằng hai so sánh:

+ Ở so sánh 1: Đó là niềm vui hân hoan, rạo rực; niềm vui của sau biết bao nhiêu
mong ngóng cuối cùng cũng đã được thỏa nguyện. Đây là so sánh rất hay, rất đậm
chất văn chương nhưng so sánh sau mới thật đậm chất Nguyễn Tuân.

+ Ở so sánh 2: Đó là niềm “vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Đây thực sự là
niềm vui kì diệu, hiếm có ở trên đời, là niềm may mắn không phải ai cũng được
hưởng. Bởi thế, Nguyễn Tuân mới coi Sông Đà là cố nhân, mới đắm say dòng sông
ấy! Dẫu biết rằng dòng sông ấy cũng lắm chứng, nhiều tật nhưng có lẽ chính điều
này lại tạo nên sức hấp dẫn riêng cho dòng sông này! Và đã chót say dòng sông Đà
rồi thì càng biết nó lắm chứng, nhiều tật, lại chỉ càng thấy nó hấp dẫn thôi! Ở trên
đời này, mang được một vẻ đẹp gợi cảm như sông Đà quả là hiếm có.

* Vẻ đẹp Sông Đà như một dòng chảy được kết bằng thơ:

- Nếu như trong cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân đã tìm ra một vốn từ ngữ phong
phú, chính xác, mới lạ để diễn tả trận chiến giữa ông đò và thần sông thần đá, có
đủ quân tướng bằng một giọng văn mạnh mẽ, bằng một nhịp văn như sóng gầm,
thác réo thì đến đoạn văn này, giọng văn và nhịp điệu có sự thay đổi hẳn, đầy lâng
lâng, mơ màng. Vẻ đẹp mơ mộng êm đềm của sông Đà ở quãng trung lưu này đã
được diễn tả đậm chất thơ .Trên thực tế, đó là quãng từ thác tiếu đổ xuống như một
câu tục ngữ mà người Thái đã nói: “Qua Thác Tiếu trải chiếu mà nằm”. Câu văn
của Nguyễn Tuân toàn thanh bằng, như diễn tả một con thuyền nhẹ trôi, êm ái:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà ...”. Đó là một không gian nghệ thuật lặng tờ như ru
người khách sông Đà vào giấc mộng phiêu du. Đó là một không gian, như ướp
hương rừng, gió núi vào lòng người mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng họa.
Hai chữ “lặng tờ” khiến người đọc liên tưởng đến “Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên”. Và Nguyễn Tuân đã rất ngông khi lại cảnh bình yên ở một dòng
sông tưởng như thác lũ gập ghềnh. Và khi mơ màng nhìn dòng sông, khi lắng nghe
tiếng nước êm trôi, lặng lờ. Ông khách sông Đà đã bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần
khung cảnh ven sông, bao trùm lên cảnh vật là một màu xanh hoang sơ hồn nhiên.
Hình ảnh nương ngô có nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, rõ ràng cho ta thấy dấu
ấn con người trên cái nền xanh ấy. Nhưng một điều kỳ lạ là nhìn mãi không thấy
bóng người đâu. Chỉ thấy đôi gianh nối tiếp đôi gianh, chập chùng với những nõn
búp. Và nhất là xuất hiện hình ảnh của một đàn hươu xuất hiện trên cái nền xanh
bát ngát của đồi gianh. Đó là nét vẽ tài hoa, làm cho bức tranh thiên nhiên càng
thêm đượm màu hoang dã, cổ tích. Cảnh tượng thật rất đỗi thanh bình. Và có lẽ chỉ
có Nguyễn Tuân cũng mới có được cái nhìn xanh non ấy, cũng có được cách tả độc
đáo ấy. Ông thực sự đã thả hồn mình vào cảnh vật để mà yêu mến, nâng niu. Và
câu văn của ông đã đẹp, như hai vế của một câu song quan trong bài “Phú Lưu
Thủy” xưa:

“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa”

Có cảm giác Nguyễn Tuân đã so sánh không phải để làm cụ thể hóa sự
vật mà để trừu tượng hóa và thơ mộng hóa cảnh vật mà thôi. Ông không dựa vào
trực giác để so sánh, ông dựa vào liên tưởng và tưởng tượng để tạo nên những so
sánh đầy chất thơ mà cũng kỳ thú để mà gieo vào lòng người bao nhiêu cảm xúc,
để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dã của Đà giang. Rồi từ trong
cái không gian hoang dã ấy của sông Đà, Nguyễn Tuân đã khao khát một âm thanh
của thời đại. Từ giấc mơ của bờ tiền sử đã chỉ sang giấc mơ của tương lai huy
hoàng qua tiếng còi tàu trong mộng tưởng:

“Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ -Yên Bái -Lai Châu.”
Nguyễn Tuân yêu sông Đà, yêu vẻ đẹp thơ dại của nó, nhưng ông cũng
thèm được thấy ánh sáng của thời đại được rọi chiếu vào đôi bờ của Đà giang.
Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là bài thơ
trữ tình kỳ diệu. Một giấc mơ chờn vờn chơi vơi trong cái lặng tờ của ven sông.
Trong sự tĩnh lặng, cái không khí giao cảm của sông Đà và con hươu thơ ngộ như
đã lên tới đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cỏ xương, hươu nhìn người mà ngơ
ngác, người nhìn theo mà lòng lâng lâng, mà như chìm vào mộng tưởng. Không
một tiếng động nhỏ nào, cả một không gian như thế trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng,
nhiệm màu. Và cũng chẳng biết là hươu hỏi người hay người tự hỏi mình. Một giả
định vừa thực nhưng cũng vừa rất mộng ảo. Có thể nói, những nét vẽ của Nguyễn
Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ thật tài hoa và độc đáo, để gợi tả được cái
hồn nhiên, hoang dã của đôi bờ Đà giang, để tạo nên được chất thơ và chất mộng
ảo dạt dào trong lòng người và thiên nhiên. Nguyễn Tuân quả đã nhìn thiên nhiên
với cái nhìn phát hiện để khiến thiên nhiên cũng mang linh hồn con người.

Thèm nghe một tiếng còi tàu nhưng chẳng thấy còi đâu, chỉ thấy một
đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bung trắng như bạc rơi thoi là đã khiến
cho ông khách Sông Đà phải tỉnh mộng. Có lẽ chỉ có Sông Đà mới kì thú như thế
để thoát ra khỏi cảm giác mộng ảo này phải là một không gian mộng ảo khác.
Hương núi vụt biến, cá bụng trắng vọt lên rồi rơi xuống trước mặt du khách chỉ là
một màu xanh của nước. Màu xanh của cỏ gianh và con người vừa thoát khỏi giấc
mộng này đã rơi ngay vào giấc mộng kia.

Vốn là một nhà văn tài hoa và uyên bác, những câu văn cổ kim, đông –
tây, Nguyễn Tuân rắc đầy mình. Vui thì ông đưa duyên, buồn thì ông ngẫm ngợi
và dường như đó cũng là nhã thú để mà thể hiện cái tình tri âm với người xưa. Với
Nguyễn Tuân, Tản Đà là người bạn vong niên, chưa có một thi sĩ nào viết nhiều về
núi tẳng Sông Đà như Nguyễn Khắc Hiếu: “Có trăng thì phải có rượu. Cũng như
có cảnh đẹp thì phải ngâm thơ”. Nguyễn Tuân vốn coi Sông Đà là cố nhân nên
việc lấy thơ của thi sĩ Tản Đà để ngâm vịnh, để ngắm cảnh đẹp thì không còn gì
tinh tế bằng. Tản Đà từng có ba bài thơ cùng chung một giọng điệu: “Thư đưa
người tình nhân không quen biết”, “Thư trách người tình nhân không quen biết”,
“Thư lại trách người tình nhân không quen biết”. Ở đây, Nguyễn Tuân chỉ trích có
hai câu thơ trong bài thơ thứ hai nhưng đồng thời lại là hai câu thơ đích đáng nhất.
Bởi vì, nó hợp cảnh, hợp tình nhất:

“Dải sông Đà bọt nước lênh đênh


Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”
(“Thư trách người tình nhân không quen biết”)

Việc trích dẫn thơ Tản Đà đã thể hiện sự tri âm bởi rượu ngon không có
bạn hiền thì không còn là rượu ngon. Cũng như cảnh đẹp mà không có người tri kỉ
thì cái tình yêu hoa, thưởng nguyệt cũng giảm đi ít nhiều. Đọc thơ bạn, ngâm thơ
bạn, Nguyễn Tuân như đang cùng bạn ngồi trên con thuyền và cùng mình hưởng
ngoạn, tâm tình. Đó là cái nét tài hoa, tài tử và cũng là cái tình tri kỉ, tri âm.
=> Nguyễn Tuân đã dành nhiều câu chữ đầy ắp cảm xúc để tái hiện lên dòng sông
tình, thơ mộng bằng ngôn ngữ đầy chất thơ vận dụng vốn hiểu biết và thi ca, hội
họa, điện ảnh để vẽ lên hình hài, tính cách dòng sông ấy. Có một nhà phê bình đã
viết: “Nguyễn Tuân đã đề thơ trên sóng nước mới có 1 cô gái mĩ miều, duyên dáng
trong ý nghĩ của mọi người như thế”
=> Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của một tình yêu
thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một
dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt
Nam.

*Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà


- Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng
độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động,
giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân
guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã
trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
=> Hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc điểm:
vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà
văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình
với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy
nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô
giá của thiên nhiên giành cho con người.

5. Hình tượng người lái đò sông Đà

Nếu như tài năng và tình yêu của Nguyễn Tuân đã tạo nên một dòng Đà
giang như một sinh thể có hồn, tài hoa, tiềm ẩn thì dưới con mắt của người nghệ sĩ
Nguyễn Tuân, người lái đò đã trở thành một người nghệ sĩ trên sông nước mà “tay
lái ra hoa”. Qua hình tượng ông lái đò thể hiện 1 cái nhìn, một sự khám phá mới
của Nguyễn Tuân về những con người lao động bình thường nhưng rất tài hoa
nghệ sĩ. Đó cũng chính là phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân-người được
mệnh danh “một định nghĩa về người nghệ sĩ”. (Nguyễn Minh Châu).

6. Lai lịch và vẻ đẹp ngoại hình ông lái đò sông Đà.


- Lai lịch: Ông không có tên, chỉ biết là người Lai Châu, đã ngoài 70 tuổi, đã dành
1 phần lớn đời mình làm nghề lái đò dọc trên sông Đà. Trên sông Đà, ông xuôi
ngược hơn 100 lần, chín tay giữ lái độ 60 lần.
- Ngoại hình: Bằng hệ thống ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình,
bằng lối so sánh độc đáo gợi cảm, trước hết Nguyễn Tuân đã làm sống dậy trước
mắt người đọc hình ảnh một ông lái đò có ngoại hình đặc biệt ấn tượng
+ Người ta nói rằng làm cái nghề lái đò trên sông hiểm ác lắm thác nhiều ghềnh
này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của Nguyễn Tuân đã cải chính một cách hùng
hồn cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi tuổi, cái đầu bạc
nhưng còn “quắc thước” lắm “đặt trên một thân hình cao to, gọn quánh như chất
sừng, chất mun”, “ông giơ đôi tay còn trẻ tráng quá” làm cho nhiều người lầm
tưởng là “mình đang đứng trước một chàng trai”...
+ “Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp
lấy một cuống lái tưởng tượng. Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông”.
- Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một
con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn
Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói “hàm lượng
thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn.

7. Vẻ đẹp tính cách, phẩm chất của ông lái đò.

* Ông lái đò là người tinh thạo, từng trải, giàu kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc
về luồng lạch, từng ngõ ngách trên sông Đà.
Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, hình tượng Sông Đà và hình
tượng người lái đò nổi bật lên và cũng là hai hình tượng chính, được nhà văn miêu
tả và tái hiện bằng tất cả bút lực, với kiến thức sâu sát về nhiều lĩnh vực, từ tri thức
về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh, văn học. Hình
tượng người lái đò hiện lên với hình ảnh ông lái đò tinh thạo, từng trải, giàu kinh
nghiệm, hiểu biết sâu sắc về luồng lạch, từng ngõ ngách trên sông Đà. “Ông lái đò
nắm chắc quy luật của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá”, ông thạo nghề, thuộc lòng từng đặc điểm nhỏ nhất của sông Đà: “nhớ tỉ mỉ
như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”,
sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm
than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Đó chính là chân dung một người lao
động tuyệt vời, khi họ dày dặn kinh nghiệm và gắn bó với vùng sông nước như gắn
cả cuộc đời của mình vào đó.

* Ông lái đò là người trí dũng song toàn như một viên tướng tài ba, thông
minh linh hoạt và khéo léo như một nghệ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà.

+ Ở trùng vi thứ nhất:


• Thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm
sát bờ trái và huy động hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền.
• Luồng sóng hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào
bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm, nhưng
người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi
bờm sóng trận địa phóng thẳng vào mình”.
• Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ
huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

+ Ở trùng vi thứ hai:


▪ Dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ hai
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí
lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần
sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy
của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này.
▪ Các luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Ông không né
tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác “cưỡi lên thác Sông Đà, phải
cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh
vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”.
▪ Ông kiên cường chịu đựng nỗi đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây
nên: “Ông đó hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng, ông cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy buồng lái, mặt méo bệch đi”.

+ Ở trùng vi thứ ba: trên sông Đà.

✓ Thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, của
sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đó không
hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con
thuyền vượt qua trùng vây thứ ba.

✓ Ông nhớ mặt bọn giặc đá, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, đứa thì ông đè
sắn lên chặt đôi ra để mở đường tiến. Ông lái đò giống đôi khi giống như 1
đô vật lão luyện, 1 chiến binh quả cảm cứ tả xung hữu đột, vượt qua các tập
đoàn của tử, cửa sinh của thạch trận đá
=> Cuộc vượt thác của ông lái đò là như một cuộc thủy chiến không cân sức giữa
thiên nhiên với con người. Sự dũng cảm, tài trí của ông lái đò thể hiện qua cuộc
vượt thác như những trận quyết chiến, những trận đánh sinh tử chia làm nhiều hồi,
nhiều đợt.
=> Ông lái đò giống như một vị chỉ huy tài giỏi, một kị sĩ đã thuần thục được con
tuấn mã bất kham . Ông lái đò vượt thác sông Đà cũng giống như hành trình vượt
biển trở về quê hương của Uy-lít-xơ trong trường ca “Ô-đi-xê” của Hô-me-rơ
trong 10 năm trời ròng rã đầy gian nan và thử thách.

* Ông lái đò là người tài hoa nghệ sĩ, mang cốt cách của người chỉ huy nhưng
rất bình dị, là người anh hùng cuộc sống đời thường.

Nếu người xưa vẫn thường coi “cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là
biểu tượng cho một lí tưởng sống anh hùng thì ông lái đò trong tùy bút của Nguyễn
Tuân cũng cưỡi gió, đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
- Ông nắm chắc quy luật của dòng sông, nắm chắc binh pháp của thần sống thần
đá, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên thạch trận và quy luật phục kích của lũ đá nơi
ải nước sông Đà
- Là người từng trải, hiểu biết, thành thạo trong nghề lái đò đã đạt đến trình độ:
“Nhớ tỉ mi nhưđóng đanh vào lòng tất cả các luồng nước của tất cả các con thác
hiểm trở”, hơn thế nữa, sông Đà đối với ông “Như một trường thiên anh hùng ca
mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chầm câu và những đoạn xuống
dòng”
- Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái
linh hoạt , khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước. Ông lái đò như một
nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh thực thụ: “Vút, vú, cửa ngoài , cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như 1 mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Sông Đà giống như một bản anh hùng ca
sông nước thì ông lái đò giống như một người nhạc trưởng và người nhạc trường
này nắm vững bản nhạc của mình đến từng câu, từng chữ, đến dấu chấm, xuống
dòng.
- Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã
hiểu ý chủ, khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá
có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông
đó luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn.
- Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đó lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ
“Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá
anh vũ, cá dầm xanh...”.
- Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái
đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung
dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan
và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn.
- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần
nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. Ở đây có tri thức, có ngôn
ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh...
=> Ông lái đò là một hình tượng đẹp đẽ về người lao động mới, người anh hùng
không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động hằng
ngày đó chính là thứ “vàng mười” đã qua thử lửa. Ông lái đò thực sự đã trở thành
một người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước, đây cũng là một quan niệm mới của ông
về chủ nghĩa anh hùng , đó là chủ nghĩa anh hùng có trong những con người bình
thường, giản dị của cuộc sống lao động hàng ngày. Điều đó chứng tỏ trong cảm
xúc thẩm mỹ của Nguyễn Tuân, người lao động đẹp và quý hơn tất cả.

* Nghệ thuật miêu tả người lái đò


- Sử dụng vốn kiến thức uyên bác sâu rộng trong lĩnh vực, nhiều kiến thức: Quân
sự, điện ảnh, võ thuật,...
- Tạo tình huống đầy thử thách
- Sử dụng từ ngữ góc cạnh, giàu chất tạo hình, gợi liên tưởng, so sánh, nhân hoá
bất ngờ mà vô cùng chính xác.
- Tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật ông lái đò, cách viết phù hợp với quan
niệm nghệ thuật về con người, phù hợp với phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân.
=> Bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công
hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm.
Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với những
phẩm chất cao quí. Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn:
người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động
thường ngày. Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở
mỗi chúng ta suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc
Việt Nam yêu quý

IV. TỔNG KẾT


1. Giá trị nội dung
- Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì
vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao
động bình dị ở miền Tây Bắc.
- Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa,
uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo
những kì công của tạo hóa (Sông Đà) và những kì tích lao động của con người
(người lái đò).
2. Giá trị nghệ thuật
- Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và
nghệ thuật vào trong tác phẩm.
- Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị.
- Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn.
- Sáng tạo: ngôn từ, các biện pháp tu từ độc đáo.

V. MỘT SỐ LỜI BÌNH VỀ NGUYỄN TUÂN VÀ TÁC PHẨM


“NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”

1. “Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những
sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta
lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công
việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”.
(Thạch Lam)

2. “Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm kiếm cái thực và cái đẹp. Thực ra,
sự thực và cái đẹp của cuộc sống là hai cái đích mà dường như bất kì ngòi bút
chân chính nào cũng hướng tới nhưng không dễ chiếm lĩnh và chạm vào được.
Nguyễn Tuân cũng trên hành trình tìm kiếm nhưng tác phẩm của ông đã chạm
được đến cái đẹp, nhất là cái đẹp truyền thống và cái thực phồn hoa chốn thành
thị. Nguyễn Tuân là người thưởng thức cái đẹp với tư cách người có văn hóa, có
vốn tri thức, biết giá trị của đối tượng mình chiêm ngưỡng”.
(Nguyễn Đình Thi)

3. “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa, khi mà
văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám
chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn nữa”.
(Vũ Ngọc Phan)

4. “Đây là một nhà văn “suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật”, tự nhận mình là người
sinh ra để thờ NGHỆ THUẬT” với hai chữ viết hoa”.
5. “Khi thì nghiêm trang cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót
trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng,
khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”.
(Nguyễn Đăng Mạnh)

6. “Tác phẩm gần đạt đến độ “toàn thiện hoàn mỹ” ấy góp phần đưa nghệ thuật
văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa.
“Vang bóng một thời” vẽ lại những cái “đẹp xưa” của thời phong kiến suy tàn,
thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan, chơi cúc, thích đánh
bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp trong sương sớm với tất cả lễ nghi thành kính đến
thiêng liêng. “Vang bóng một thời” vì thế có thể được xem như một bảo tàng lưu
giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

7. “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một
chữ ngông.Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, vừa kế thừa truyền thống tài hoa
bất đắc chí của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, … và trực tiếp hơn là cụ Tú
Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống
triết lý nổi loạn của xã hội phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con
người cao đẳng, thuyết hiện sinh…”
(Nguyễn Đăng Mạnh)

8. Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp Tiếng Việt”, là
“người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu).Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám
trụ ở thành trì cái Đẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn.Nhà
văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan)từ quan niệm cho
tới thực tế sáng tác.

9. “Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới
lạ, nồng nàn, say đắm…”
(Nguyễn Đăng Mạnh)

10. “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta
gọi là bậc thầy của ngôn từ mà ta không hề thấy ngại miệng ; một nhà văn độc đáo
vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu
triện riêng…”
(Anh Đức)

11. “Nhà văn lớn Nguyễn Tuân được mệnh danh là “người săn tìm cái Đẹp”
(Nguyễn Thành), hoặc “người đi tìm cái Đẹp, cái Thật”
(Nguyễn Đình Thi)

12. “Nguyễn Tuân như người họa sĩ tài năng với nhiều bút pháp linh hoạt, đã tạo
nên những tuyệt tác mĩ thuật đầy màu sắc mà lung linh, huyền ảo.Có những trang
viết lại giàu chất tạo hình, bài trí, bối cảnh như của nhà điêu khắc và đạo diễn
điện ảnh”.
(Đoàn Trọng Huy)

13. “Chúng ta vẫn đắm đuối với nghề văn, ngày càng chau chuốt thêm văn tự,
ngày càng làm óng tốt dẻo bền hơn lên nữa cái tiếng nói Việt cổ truyền của mình”.
(Nguyễn Tuân)

14. “Đứng trước một cái chân tài thì người khinh bạc đến đâu cũng trở nên trung
hậu”.

15. “Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham
chuộng hơn bây giờ, tôi dám tin những văn phẩm của Nguyễn Tuân còn có giá trị
hơn nữa.Chính vì thế, đọc văn Nguyễn Tuân, độc giả bao giờ cũng có những cảm
xúc, hứng thú kì lạ.Đó là “sự thâm trầm trong ý nghĩa, sự lọc lõi trong quan sát,
sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam.”
(Vũ Ngọc Phan)

16. “Nguyễn Tuân là người nghệ sỹ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ
cao hiếm thấy trong văn học Việt Nam”

17. “Tôi có cảm tưởng như là đọc một tập du kí của một nhà thơ tìm lòng người ở
giữa một khu vực nhỏ trên non sông Tổ quốc của chúng ta đang được cải tạo tiến
lên xã hội chủ nghĩa.”
(Trương Chính)

18. “Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa rất chuẩn về người nghệ sỹ chân chính”
(Nguyễn Minh Châu)
19. “Và chính Nguyễn Tuân đã sáng lên như một tông màu độc đáo trong bức
tranh của văn đàn Việt Nam.Tông màu đó có lẽ chỉ mình ông mới định danh
được.Còn người đời chỉ biết trân trọng gọi ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.”
(Bảo Trang, Bài đăng trên báo giấy Đời sống và Pháp luật số 17)

20. “Câu văn của Nguyễn Tuân cũng có nhiều kiểu kiến trúc đa dạng.Ông là một
nghệ sỹ ngôn từ biết chú trọng tới âm điệu, nhịp điệu của văn xuôi.Ông thường nói
người làm nghệ viết phải tạo ra những câu văn có khớp cương biết co duỗi nhịp
nhàng, chứ đừng bắt chước người ta phải đọc của mình những câu văn tê
thấp.Câu văn của Nguyễn Tuân giàu màu sắc, giàu âm thanh, nhịp điệu trầm bổng
hài hòa, khó có nội dung cảm xúc tương ứng sẽ trở thành những dòng thơ trữ tình
ngân vang trong lòng người đọc”.
(Nguyễn Đăng Mạnh)

21. “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng,
của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ…Khi gân guốc, khi mềm
mại, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi
hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, câu văn của Nguyễn Tuân mang
hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dang.Sự tự ý thức sâu sắc
về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự
giải phóng năng lương rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác
phẩm kì vĩ…”
(Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp Cách mạng)

22. “Nguyễn Tuân từng mỗi ngày đều muốn mượn cái say của rượu tân hôn, kỳ
vọng mỗi trang đời là một trang nghệ thuật.Mỹ cảm với cảm xúc thẩm mỹ của nhà
văn như là vô tận.Luôn luôn đổi mới cảm giác, nhận thức như phương châm cảm
thụ cái đẹp của Nguyễn Tuân.Đời là những “Trang hoa” luôn mở dưới ánh sáng
nghệ thuật mới”
(Đoàn Trọng Huy)

V. MỘT SỐ MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI HAY

Mở bài 1.
Đất nước ta có trăm núi, nghìn sông, trên dải đất cong cong mềm mại hình
chữ S này có biết bao nhiều dòng sông cho tình nhân soi bóng, cho con người
chiêm ngưỡng, yêu thương và suy tưởng về cội nguồn. Đất nước có nhiều dòng
sông nhưng chỉ có 1 dòng sông để thương để nhớ, giống như đời người, có nhiều
cuộc tình nhưng chỉ có 1 củ tình mãi mãi mang theo. Năm xưa Tế Hanh đi xa mà
lòng đau đáu “Nhớ con sông của hương” biếc xanh, có “nước gương trong soi
bóng những hàng tre”; Tản Đà cung kính lấy tên sống đặt cho một nửa tên mình
đời trong đời cầm bút; người lữ khách Hoàng Phủ Ngọc Tường lại ngẩn ngơ, say
đắm với vẻ đẹp mộng mơ, mĩ lệ của con sông Hương huyền thoại thì người nghệ sĩ
Nguyễn Tuân lại ngược gót để khám phá, tận hưởng sự hung bạo, cuồng nộ và vẻ
đẹp trữ tình, thơ mộng của con sông Đà nơi núi rừng Tây Bắc.

Mở bài 2.
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã từng nói: “Có vẻ như nêu trên
đời này, có một ngôi đền dành để phụng thờ cái đẹp, thì Nguyễn Tuân chính là viên tư
tế chuyên lo công việc đèn nhang cho người đến lễ”. Đọc tùy bút “Người lái đò Sông
Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân sáng tác năm 1960, ta say mê trước vẻ đẹp tài hoa của
một ngòi bút sắc nhạy, tinh tế và uyên bác. Đây là khúc tráng ca về thiên nhiên và con
người Tây Bắc, là bức chân dung người lái đò trên sông nước được nâng lên ngang
tầm nghệ sĩ, từ đó, nhà văn ngợi ca tài năng, tình yêu lao động của những con người
bình dị, đời thường với cốt cách thanh cao và đáng quý. Có thể nói, thiên tùy bút đã
đem đến cho người đọc, người nghe một cảm nhận sâu sắc về tâm hồn khao khát hòa
nhập với nhịp vận động phát triển của đất nước, của cuộc đời trong Nguyễn Tuân.

Mở bài 3
Một nhà phê bình đã từng nói: "Người nghệ sĩ phải xâm nhập sâu vào
đời sống nhân dân. Anh phải nhập đến một mức độ nào đó thơ mới hình thành.
Thơ chỉ tràn ra khi trong tim anh cuộc sống đã thật ứ đầy." Cả cuộc đời cần mẫn
như con ong hút nhụy từ những con ong của cuộc sống, Nguyễn Tuân đã để lại trên
thi đàn văn chương Việt Nam một sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông khẳng định vị trí
của mình bằng một phong cách rất đặc biệt mà giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã gói
gọn trong chữ "ngông" của một người tài ba uyên bác. Nếu trước cách mạng ông
dùng cái ngông để phê phán xã hội và viết về vẻ đẹp của những con người kì vĩ lớn
lao ở một thời vang bóng thì sau cách mạng tháng Tám, cái "ngông" của Nguyễn
Tuân lại được dùng để ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. Đồng thời, ông cũng
đi tìm cho mình một chủ nghĩa anh hùng ở đời sống của nhân dân lao động bình
thường. một trong những tác phẩm thể hiện rất rõ phong cách của Nguyễn Tuân
sau cách mạng tháng Tám đó là tập tùy bút “Sông Đà”. Linh hồn của tập tùy bút là
bài kí "Người lái đò sông Đà". Thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này
bên cạnh việc xây dựng được hình tượng con sông Đà chân thực, sống động là ta
phải kể đến tác giả đã thể hiện được hình tượng người lái đò sông Đà tiêu biểu cho
vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa. Với “Người lái đò sông Đà", ngòi bút
của Nguyễn Tuân cũng nở hoa trên dòng sông văn chương của mình.

Mở bài 4.
Nguyễn Tuân đã từng chọn câu của Paul Morand làm đề từ cho tác
phẩm “Thiếu quê hương” của mình : “Ta muốn sau khi ta chết, có người thuộc da
ta làm chiếc va ly”, Nguyễn Tuân dứt khoát khẳng định: “Đứng về phương diện
một người lấy sự hoàn toàn phát triển giác quan của mình làm lẽ chính cuộc sống”
thì “không gì thiệt thòi bằng trung thành với một chỗ ở”. Trong sự nghiệp sáng tác
nghệ thuật của Nguyễn Tuân, khi tìm hiểu về những tác phẩm của ông, có thể nhận
ra hai nội dung chi phối trong những tác phẩm của ông đó là “ hoài cổ và xê dịch”,
ông ham đi, luôn luôn muốn được trải nghiệm những điều mới mẻ. Cũng chính vì
nguyên cớ này, năm 1958, Nguyễn Tuân đã lên đường, ngược về vùng núi cao Tây
Bắc, để “gặp, làm quen, hiểu và viết” về sông Đà. Chuyến đi thực tế này được ông
ghi lại một cách “tuyệt đẹp” qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Để lại nhiều ấn
tượng nhất có lẽ là hình ảnh ông lái đò sông Đà qua thiên tùy bút này.

Kết bài 1.
Viết về Người lái đò Sông Đà, viết về một vùng đất của Tổ quốc,
Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết với người lao động
và thiên nhiên đất nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên
cùng anh dũng, ngoan cường trong lao động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm
lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người bình
dị ấy “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc. Cuộc sống quanh ta
vốn rất cũ kĩ, tầm thường, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày. Nhà văn
chính là người đã mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khối hơn,diệu kì hơn. Và
Nguyễn Tuân đã làm tròn sứ mệnh của một nhà văn, ông đã góp phần mang đến
cho thế giới những sắc màu mới. Bước vào thế giới của Nguyễn Tuân, chúng ta
như bước vào một chân trời với màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo.

Kết bài 2.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng viết rằng: “ Khi thì trang nghiêm cổ kính,
khi thì đùa cợt bông phòng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như
ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài
hoa” để nói về câu chữ của Nguyễn Tuân. Quả thực, khép lại trang văn “Người lái đò
sông Đà” nói chung và đoạn trích nói riêng, độc giả đã có cơ hội ngắm nhìn phong
cách viết ấy nhiều hơn qua bóng dáng dòng sông Tây Bắc vừa trữ tình vừa hung bạo.
Tròn sáu mươi năm kể từ ngày ra đời, thiên tùy bút đã trở thành dấu ấn đặc biệt trên thi
đàn văn chương Việt Nam và trong lòng người đọc và vẫn vẹn nguyên giá trị, sức sống
như những ngày đầu. Thời gian có thể mài mòn sông núi nhưng những trang viết của
ông sẽ vẫn còn đó, trường tồn, vĩnh cửu cùng với người đọc mến mộ ngòi bút Nguyễn
Tuân.

Kết bài 3.
“Thế giới không chỉ được tạo lập một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc
đáo xuất hiện là thế giới lại được tạo lập”. Cuộc sống quanh ta luôn vận động với
theo vòng quay của đất trời, nhưng suy cho cùng ngày lại qua ngày, mây vẫn bay
và gió vẫn thổi, nhưng chính Nguyễn Tuân đã mang đến cho ta một thế giới mới,
tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng là một nhà văn góp phần sáng tạo lại thế giới.
Văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí, hấp dẫn và
độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác.

Kết bài 4.
Gấp lại “Người lái đò sông Đà”, ta không chỉ cảm thán và ngưỡng mộ
trước vẻ đẹp đầy kì vĩ, phong phú của thiên nhiên, mà còn trăn trở một nỗi niềm
Nguyễn Tuân đã tinh tế gửi gắm. Đó là mong muốn con sông Đà “chúng thủy giai
Đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu” dù có cá tính quật cường, dù có ương ngạnh,
khó chiều, hung dữ và tàn bạo đến đâu, cũng sẽ có một ngày trở nên dịu hiền, đằm
thắm, giúp ích được cho con người; hay, chính là mong muốn đất nước có thể phát
triển phồn vinh, để nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Những người trẻ của đất
nước chúng ta, gánh trên vai trách nhiệm làm giàu cho Tổ quốc, làm đẹp cho xã
hội, hãy cố gắng hết sức học tập, rèn luyện và lao động, để làm tròn, làm tốt trách
nhiệm ấy, để xây dựng một tương lai “sánh vai với các cường quốc năm châu”,
như cách mà thế hệ đi trước đã thuần phục sông Đà:

“Cả một trời sao sa sẽ vãi tung trên đất


Toả ánh sáng con người ánh thắm thiết dựng xây
Cả một vòm không gian sẽ phả lên hơi mát
Tự hồ chứa mênh mông phơi phới mặt guơng đầy.”
(Mai mốt đến sông Đà – Bằng Việt)

You might also like