You are on page 1of 12

Tác giả (thuyết trình)

N
guyễn Tuân là nhà văn lớn văn học Việt Nam hiện đại. Cái tầm vóc của ông được
thể hiện ở cái thành tựu xuất sắc của Nguyễn Tuân đã đem lại cho văn học dân tộc
ở cả 2 giai đoạn trước và sau 1945. Ông đã có những thành tựu nghệ thuật xuất sắc
trong cả 2 giai đoạn trước và sau 1945. Chúng ta đã biết đến Nguyễn Tuân qua
truyện ngắn "Chữ người tử tù" (lớp 11) và tác phẩm ấy nằm trong những tập truyện
đặc sắc nhất trong thành tựu nghệ thuật để đời của Nguyễn Tuân đó là trong "Vang
bóng 1 thời" (gồm 11 truyện) sáng tác trước 1945 . Đến sau 1945 (để hòa chung
vào cái dòng chảy văn học cách mạng ) thì hòa chung vào với công cuộc lao động
xây dựng chiến đấu của đất nước ta.Trong 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống
Mỹ, Nguyễn Tuân đã gặt hái được rất nhiều thành tựu nghệ thuật, tuy nhiên cái đề
tài của ông thay đổi, cái hơi thở thời đại phả vào trong văn chương của ông nhưng
cái cơ bản nhất cái hồn cốt nhất trong phong cách cái chất của Nguyễn Tuân vẫn
không thay đổi.

Nguyễn Tuân là 1 trong số không nhiều nhà văn có 1 phong cách tạo lập cho mình
gương mặt nghệ thuật hay ta gọi là 1 cái phong cách nghệ thuật độc đáo. Được thể
1 trong số cái bình diện mà chúng ta cần quan tâm: thứ 1 nói đến cái văn chương
của Nguyễn Tuân là nói đến cái tài hoa - uyên bác. Thứ 2 ông là nhà văn duy mĩ
suốt đời đi tìm cái đẹp, tuy nhiên cái đẹp trong văn chương của ông trước 1945 và
sau có sự thay đổi nhưng nó vẫn bám chắc vào 1 cái mạch cảm hứng chung là sáng
tạo cái đẹo; tôn vinh cái đẹp; đi tìm cái đẹp => cho thấy rằng ông luôn khám phá
thế giới ở bình diện văn hóa và thẫm mĩ, Miêu tả con người ở vẻ đẹp tài hoa nghệ
sĩ.

TÁC GIẢ -Nguyễn Tuân (1910 – 1987).

1. Tiểu sử

 Sinh tại Hà Nội trong một gia đình nhà nho.

 Ông học đến cuối bậc Thành Chung, tham gia bãi khoá, bị đuổi học (1929).
Sau khi bị tù vì vượt biên giới sang Thái Lan, ông viết báo, viết văn.
Năm1941 ông bị bắt giam vì giao du với những người hoạt động chính trị.

 Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nguyễn Tuân tham gia Cách
mạng và kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.

 1948- 1958 ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam, 1996 được
giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Con người

 Giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc
riêng à Gắn với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

 Ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn là để khẳng định cá tính độc
đáo của mình, sống tự do phóng túng, ham thích du lịch.

 Rất mực tài hoa. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là người am hiểu nhiều
ngành nghệ thuật khác( hội họa, điêu khắc, sân khấu…)

 Quí trọng nghề văn. Ông cho rằng nghệ thuật là một hình thái lao động
nghiêm túc.

3. Sự nghiệp văn chương:

a) Trước Cách mạng tháng tám:

 Là cây bút văn xuôi trong thời kì cuối cùng của xu hướng văn học lãng mạn
1930-1945.

 Ông viết các tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, yêu truyền thống văn hóa dân
tộc và một số truyện thể hiện tâm trạng u uất trước cuộc đời tù đọng.

 Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Một
chuyến đi, Tóc chị Hoài.

b) Sau Cách mạng tháng tám :

 Nguyễn Tuân hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, tham gia thực tế kháng
chiến, thể hiện cái nhìn ấm áp, niềm tin yêu cuộc sống và liên tiếp cho ra đời
những tác phẩm mang tính thời sự.
 Tác phẩm tiêu biểu: Tình chiến dịch, Tuỳ bút sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ
giỏi.

4. Phong cách nghệ thuật:

ô Tài hoa, uyên bác:

 Khám phá phát hiện sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ.

 Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.

 Tô đậm những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con người

 Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật khác nhau trong sáng
tác

ô Ngôn ngữ văn học:

 Từ vựng phong phú

 Tổ chức câu văn xuôi có giá trị tạo hình cao, có nhạc điệu trầm bổng, cách
phối âm, phối thanh linh hoạt,tài hoa

ô Sử dụng thể loại tùy bút thuần thục, có những thành tựu đặc sắc.

ô Những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật:

 Trước Cách mạng tháng tám1945, phong cách Nguyễn Tuân có thể thâu tóm
trong một chữ “NGÔNG”. Đó là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên tài
hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình.

 Sau Cách mạng tháng tám, Nguyễn Tuân hòa nhập vào cuộc sống của nhân
dân,ca ngợi cái đẹp không chỉ ở những tính cách phi thường mà còn ở cả
những người lao động bình thường.

B. Người lái đò sông Đà

Hoàn cảnh sáng tác:

Là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân vào năm 1958. Ông đến
với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu
đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn cuộc sống mới ở vùng cao và vẻ đẹp của
thiên nhiên cùng “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở những con người lao đô ̣ng,
chiến đấu trên miền núi sông thơ mô ̣ng ấy đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng
sáng tạo và ông sáng tác tùy bút SÔNG ĐÀ (1960), trong đó có NGỪỜI LÁI ĐÒ
SÔNG ĐÀ.

Xuất xứ: Trích tuỳ bút “Sông Đà” (1960)

1. Hình tượng sông Đà:

Trong cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Tuân, sông Đà không phải là thiện nhiên
vô tri vô giác mà là một nhân vật với đầy đủ tên gọi, lai lịch, diện mạo và tính cách
phức tạp.

A. Lai lịch, nguồn gốc:

Sông Đà có tên gọi là Li Tiên, Bả Biên Giang, khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc. Với chiều dài 883 nghìn mét và 73 con thác dữ, Sông Đà
chảy qua một rừng núi hiểm trở, chan hòa vào dòng sông Hồng và nhập quốc tịch
Việt Nam. Sông Đà có dòng chảy nghịch hướng “Chúng thủy giai đông tẩu, Đà
giang độc bắc lưu”: mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, riêng sông Đà lại
chảy về hướng Bắc. Sông Đà gắn liền với lịch sử thăng trầm của đất nước. Thời
Pháp thuộc, sông Đà bị bọn chúa núi phong kiến cắt ra thành nhiều khúc nhỏ. Hòa
bình lập lại, sông Đà mới được khôi phục và phát huy mọi tiềm năng của nó.

B. Tính cách:

Bằng cảm hứng hiện thực, lãng mạn và kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực, tác
giả đã mô tả sông Đà với hai tính cách trái ngược vừa hung bạo, dữ dằn, vừa thơ
mộng, trữ tình.
a) Sông Đà hung bạo, dữ dằn, hiểm trở và hùng vĩ.
Viết về dòng sông, không ai dài hơi và độc đáo như Nguyễn Tuân với con sông Đà
hung bạo và trữ tình, thâm hiểm mà bao dung. “Độc đáo” là những nét riêng biệt,
khác lạ được thể hiện qua cách nhìn cũng như nghệ thuật miêu tả của nhà văn.
Trong đoạn trích “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tập trung tô đậm nét hung
bạo, dữ dội của sông Đà, hình dung dòng sông ấy như kẻ thù hiểm độc và hung ác.
Trước hết, nét hung bạo ấy có thể thấy rõ qua diện mạo khác thường của dòng
sông. Đó là cảnh “đá bờ sông dựng đứng vách thành”. Những vách đá cao vút,
dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Lòng sông nhỏ
hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn  “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết
hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Những hình ảnh tưởng như là ngẫu nhiên
và bâng quơ đó đã làm diễn tả vách đá ở một độ cao ngất trời dường như dòng
sông trở nên bí hiểm hơn. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng
lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Có
một ấn tượng độc đáo về sự tương phản giữa mùa hè và cái lạnh. Và ông đã lấy hè
phố để gợi ra cái lòng sông, lấy cái nhà cao gợi ra vách đá. Tất cả là ấn tượng của
thị giác vô cùng độc đáo.
Quần thể thiên nhiên: nước, sóng, gió và đá sông Đà  “Lại như quãng mặt ghềnh
Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm…”Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió” như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau
theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn
trên mặt ghềnh. à điều đặc biệt khiến người đọc không thể bỏ qua đó là những cái
hút nước sông Đà đầy dữ dội: “Trên sông bỗng có những cái hút nước, giống
như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Xen lẫn vào
đó có cả những ấn tượng đáng sợ: “Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay
lừ lừ… Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô lý là những cái giếng ấy nó lôi
tuột xuống… thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi”.
Nhà văn cho người đọc thêm một góc nhìn khi đặt mình vào vị trí một nhà quay
phim để thấy hết cảm giác về những hút nước dữ dội ấy. Con sông Đà hung bạo
bởi những thác nước dữ dội khiến người ta sợ hãi khi nghe tiếng nước từ xa rồi
nhìn thấy khi đến gần. Từ xa là những âm thanh đặc biệt: “Tiếng thác nước nghe
như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, như là khiêu khích”. Khi đến
gần “nó rống lên như một nghìn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu,
rừng nứa nổ lửa”.
Những âm thanh ghê rợn  “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái
giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”  Khủng bố tinh thần con người 
“thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” 
Sẵn sàng nhấn chìm bất kì con thuyền nào không kịp chèo nhanh hay tay lái không
vững, hoặc bất kì bè gỗ nào vô ý khi đi qua chúng  “Không thuyền nào dám men
gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông”,
“chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng
đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những
thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới”. Ám ảnh, đe doạ con người  Những âm thanh man rợ của sông
Đà gợi liên tưởng đến một loài động vật hung dữ, đang cuồn loạn tìm lối thoát
thân  Hùng vĩ, choáng ngợp bởi một chân trời đá với những bọt nước trắng xóa mờ
đi trên mặt sóng “.Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, sóng bọt đã trắng xóa cả
một chân trời đá”

Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, võ thuật, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân
hóa, thậm xưng để làm nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà. Dưới ngòi
bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một”
của con người. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn
Tinh Thủy Tinh:

“Núi cao sông hãy còn dài

Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”

b) Sông Đà thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên cao nhìn
xuống, ở thời điểm ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn
bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “ Con sông Đà tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa bang hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Điệp ngữ “ tuôn
dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông.
Mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh
lặng lẽ của núi rừng. Đi đôi với nhịp văn mềm mại như du như ngân đã gợi ra vẻ
êm đềm lững lờ thướt tha của sông. Phép so sánh “ như một áng tóc trử tình” tạo
cho người đọc một sự xuýt xa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Chữ “ áng”
thường gắn với áng thơ, áng văn nay được gắn với tóc thành “ áng tóc trữ tình”.
Phép so sánh đầy chất thơ, chất họa này chẳng những phô ra vẻ dịu dàng, duyên
dáng kiêu sa mà còn bộc lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Hai chữ “
ẩn hiện” càng làm tăng sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của
sông Đà- của người đàn bà kiều diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “
bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” làm dáng giữa cánh hoa ban nở trắng rừng, hoa
gạo đỏ rực 2 bên bờ và vẻ bồng bềnh mây khói. Sự nhân cách hóa đó làm sông Đà
gợi cảm biết bao. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, quyến rũ của đất trời đã ùa về thực
dậy trong câu văn của Nguyễn Tuân. Hình ảnh so sánh ấy của Nguyễn Tuân gợi ta
nhớ đến dòng sông trữ tình, diễm lệ đã in sâu trong những trang văn, trang thơ. Đó
là dòng sông Hương trong nét vẽ của Hoàng Phủ Ngọc Tường như người con gái
đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng duyên dáng. Mê đắm sông Đà nên Nguyến Tuân
đã phát hiện ra mỹ nahan sông Đà luôn muốn làm đẹp với mình, sắc nước sông Đà
thay đổi theo mùa, mỗi mùa một sắc. Mùa xuân nước sông xanh màu xanh ngọc
bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ. Chưa bao giờ sông Đà có màu đen xấu xí như thực
dân Pháp gọi con sông này. Chỉ bằng vài nét phác họa chấm phá, thiên nhiên Tây
bắc mà linh hồn của sông Đà hiện lên như bức họa nên thơ quyến rũ.

Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ,Nguyễn Tuân đã ví
sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Gương mặt
cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ như một miếng sáng, lóe lên màu nắng tháng Ba
Đường: Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Mượn một câu thơ trong bài thơ
Đường nổi tiếng “ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quãng Lãng”. Gặp
lại cố nhân, người nghệ sĩ không giấu được niềm hân hoan háo hức. Nguyễn Tuân
đã dường như ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông
ấy trên sự liên tưởng của thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng,
lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. “ Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn
tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”, cách so sánh độc đáo,
nhân cách hóa sông Đà hiện lên thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người.
Trở thành người bạn hiền thủy chung điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Chỉ vài
nét chấm phá, diện mạo cố nhân bỗng nhiên hiện lên sống động, tâm trạng, cảm
xúc của người nghệ sĩ cũng chan chứa, tràn khắp câu văn. Tác giả miêu tả cảnh đôi
bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử.
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, tĩnh
lặng. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, cổ tích, hoang sơ. Tưởng như từ đời Lý, Trần,
Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. “Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc
đáo, ngỡ như con sông Đà chỉ biết tồn tại trong không gian mà không hề biết đến
thời gian. Thời gian mải miết trôi, sông Đà vẫn mãi đẹp nguyên sơ, hoang dại bờ
tiền sử, “hồn nhiên” , “cổ xưa”. Hai bến bờ sông tịnh không một bóng người.
Trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống
“một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” , “cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp”. “Một đàn hưu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Thỉnh
thoảng, con hươu thơ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn ông
khách sông Đà mà như muốn hỏi rằng “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng
vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Thiên nhiên giống như một bức tranh mặc
lộng lẫy. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát
lên từ điển tích ấy gợi lên trông tâm trí người đọc vẻ đẹp dòng sông Tây Bắc – nơi
khởi nguồn cho tình yêu đất nước. Vạn vật như đang chìm vào cõi mộng mơ. Dưới
lòng sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi
thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “
Dải sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người
tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà).Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên
như vần thơ mềm mại, du dương như nét vẽ thanh nhẹ, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt
dào chất thơ, chất họa, vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh
kì thú, như những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế
giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, trữ tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa sức sống
tươi non, sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

2. Hình tượng người lái đò

a.Lai lịch, nguồn gốc:

Ông lái đò đã 70 tuổi, nhà ở ngã tư con sông sát tỉnh thuộc Lai Châu, Tây Bắc.
Ông làm nghề chở đò dọc đã mười năm, bỏ nghề hai chục năm.

b.Ngoại hình:

Ông lái đò có thân hình rắn chắc, toát lên vẻ đẹp tráng kiệt: "Cái đầu quắc thước ấy
được đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun". Dáng
vẻ, hình ảnh của ông mang đặc điểm của người gắn bó cả đời với sông nước: "tay
ông lêu nghêu như cái sào", chân đi khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cái cuống lái
tưởng lượng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi, giọng nói âm vang cả
một khúc sông. Trên ngực ông, nổi lên một số "củ nâu"-những thương tích sau mỗi
lần vượt thác mà Nguyễn Tuân gọi là "thứ huâng chương siêu hạng".

Chỉ qua một vài nét chấm phá, tác giả đã chạm khắc hình hài ông lái đò thật ấn
tượng, từ đó hé lộ phong thái, bản lĩnh và tâm hồn của người lao động ở môi
trường nước.

c.Những thách thức của sông Đà dành cho người lái đò:

Người lái đò đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với những thế lực
của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông
lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn
mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc nào xuất hiện ở quãng ầm
ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là
một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền". Và một mình một thuyền ông đã
giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh minh, ùa vào mà bè gẫy
cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình. Và "sóng nước thúc vào gối bụng và hông
thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt
lưng ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt". Có
lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông..." Cách miêu tả chân thực
và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ
cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.

Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người
cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái
đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái
xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "còn như cái thuyền mà lao
xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao
trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả..”, vẫn
bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh táo bảo, khơi gợi lạ lùng,
tác giả đã tả sông Đả thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng,
đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông "reo lên
như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai
một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ". “Có luồng nước đi lầm vào thì chết
ngay". Lại có những “hút nước" xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi"...

Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trờ, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng,
“ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống lái..." Mặc dù
mặt “méo bệch đi" vì những đòn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn
nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.

d.Tính cách, phẩm chất:

- Ông đò là người có cốt cách tài hoa và phong thái ung dung của một nghệ sĩ

- Trên chiến trường sông Đà, ông lái đò như một vị tướng tài ba, bình tĩnh, quyết
đoán trước sông Đà mưu mô, ác hiểm. Công việc lái đò quen thuộc được ông
nâng lên trình độ nghệ thuật đến mức siêu phàm. Chiếc thuyền trong tay ông lao
vun vút, khéo léo vượt qua ba cửa ải có đủ tướng mạnh, quân đông của Đà giang.

- Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò cùng các bạn đồng hành theo thuyền tại một
bến cát, ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và bàn tán về cá anh
vũ, cá dầm xanh...Sông nước, thác dữ "xèo xèo tan trong trí nhớ".
- Những lần đi thuyền dài ngày trên sông Đà, ông thường mang theo một con
gà trồng để biết thời gian, nghe được tiếng gáy để đỡ nhớ ruộng vườn, nướng rẫy.

 Nhận xét, đánh giá:


 Ông đò là hình ảnh tiêu biểu cho người dân lao động mang "chất vàng
mười" của vùng cao Tây Bắc được nhà văn nhìn nhận ở phương diện tài hoa nghệ
sĩ. Khác với những nhân vật "đặc tuyển" trong "Vang bóng một thời", ông đò chính
là người lao động bình thường, gần gũi xung quanh chúng ta. Họ chính là những
người nghệ sĩ trên sông nước, khéo léo đến độ tài hoa, dũng cảm đến độ phi
thường.

 Để tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ ở ông lái đò, tác giả đã sáng tạo những tình
huống đầy thử thách để nhân vật tự bộc lộ tài năng.

 Hình tượng ông lái đò là pho tượng nghệ thuật được chạm khắc bằng những
ngôn từ giàu tính tạo hình, cách so sánh, nhân hóa, sáng tạo và kiến thức uyên bác
của nhiều lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc,....

 Tóm tắt tác phẩm


Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về
sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn
vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng
đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng
ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh
tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những
dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình: “Mặt hòn đá
nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước
chỗ này...”. Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke
chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp
dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền
thống khi miêu tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá
nước. Cuộc đấu có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con
người, bởi lẽ “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này”.
1) Hình tượng bác lái đò
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh
nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết
đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở
đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính
mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò
trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó
chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như
một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của mình .

Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm,
giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở
thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ,
quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố
làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.

Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng,
không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng
mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến
trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây
dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra
hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ
được nó nên có tự do.

2) Giá trị nội dung


Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì
vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao
động bình dị ở miền Tây Bắc

+ Một con sông “hung bạo” Và “Trữ tình”


+ Một người lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Tây Bắc tài trí dũng cảm
trong lao động

3) Giá trị nghệ thuật


– Đậm chất tài hoa uyên bác

– Tác phẩm giàu chất thông tin, thời sự. Tác giả đã huy động vốn tri thức chuyên
môn của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau

– Lối so sánh liên tưởng độc đáo.

– Ngôn ngữ giàu có, tinh tế hiện đại, giàu cảm xúc, đậm chất tạo hình, rất sắc sảo

+ Tác phẩm thể hiện được một số dặc trưng cơ bản của P/C Nguyễn Tuân ( Có cảm
hứng đặc biệt với những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ, tiếp cận con
người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, sử dụng tùy bút pha bút kí rất phóng túng

You might also like