You are on page 1of 7

Tổng hợp kiến thức cơ bản về Người lái đò sông Đà

I. Giới thiệu tác giả và tác phẩm:


Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông là một nghệ sĩ
tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại song đặc biệt thành công ở thể tùy bút. Tác phẩm tiêu
biểu nhất của Nguyễn Tuân về thể loại này là tùy bút “Người lái đò Sông Đà”
II. Khái quát về tác phẩm:
Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời: “Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau
những chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Bài tùy
bút được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960.
Nội dung bài tùy bút : là miêu tả con Sông Đà và hình ảnh người lái đò vượt thác qua đó
tác giả ngợi ca vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên Tây bắc vừa hùng vĩ dữ dội vừa thơ mộng trữ
tình đặc biệt là ca ngợi vẻ đẹp con người lao động Tây bắc tài hoa trí dung. Qua bài Tùy bút
thể hiện được tình yêu quê hương đất nước của nhà văn Nguyễn Tuân
III. Nội dung chi tiết đoạn trích
Hình tượng con sông Đà
Lời đề từ: -“Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu” – Nguyễn Quang Bích:
+ Nét riêng của Sông Đà: thế chảy độc đáo, nghịch ngược, không giống ai của Sông Đà
→ Nguyễn Tuân tìm thấy sự đồng cảm với cái “ngông” của thiên nhiên.
– Thơ của nhà thơ Ba Lan: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: cảm thán về vẻ đẹp nên
thơ, thi vị của các dòng sông → hé mở vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà.
– Sông Đà được miêu tả như một sinh thể sống động, có diện mạo, tính cách, nội tâm, hoạt
động như con người ⇒ hiện lên như một nhân vật văn học với 2 tính cách nổi bật: vừa hung
bạo, dữ dội, hùng vĩ vừa trữ tình, dịu dàng, nên thơ.
1. Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo:
– Con sông Đà hũng vĩ, hung bạo được tác giả khắc họa theo trình tự không gian, bằng nhiều
chi tiết đặc sắc.
*Trước hết Sông Đà hùng vĩ ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành: được đặc tả bằng một
loạt các liên tưởng, so sánh cụ thể, độc đáo: •
+ Mặt sông chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời
+ Chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.
+ Có quãng con nai con hổ đã có lân nọt từ bờ này sang bờ kia. +

1
+ Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh…
⇒ Những hình ảnh so sánh liên tưởng gợi ấn tượng về độ Hẹp, độ sâu, dốc thẳng đứng và
như truyền cho người đọc cảm giác rợn lạnh khi qua quãng sông đó.

* Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng :
+ Dài hàng cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như đòi nợ suýt người lái đò….-> câu văn với nhịp ngắn+ điệp liên hoàn+ biện pháp so
sánh nhân hóa diễn tả sự dữ dằn hung tợn của dòng sông bởi sức mạnh hợp lực của sóng, của
nước của đá… Đây là nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà không thận
trọng tay lái thì “dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
* Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà Mường Vát.
Đó là những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh:
+ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”.
+ Nước ở đây “thở và kêu như của cống cái bị sặc”.
+ Mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê
xanh.
+ Cốc pha lê nước khổng lồ. •
+ Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước
cao đến vài sải.
- Đây là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào dám men gần những cái “hút nước” ấy. Có
những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay “cây chuối ngược” rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy “tan xác” ở khuỷnh sông
dưới. Tác giả đã tưởng tượng: có người quay phim táo tợn, ngồi trên chiếc thuyền thúng, rồi
xuống đáy “cái hút” Sông Đà mà thu hình thì sẽ có những thước phim ấn tượng, gây cảm giác
sợ hãi cho người xem.
* Nhận xét: Đặc tả hút nước Sông Đà: sâu, sáng, xanh trong thăm thẳm. Kết hợp thủ pháp
của văn học và thủ pháp của điện ảnh → truyền đến độc giả cảm giác chân thực, sống động
như tận mắt chứng kiến → Sông Đà không chỉ hung bạo mà còn nên thơ một cách hùng vĩ.
* Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có âm thanh dữ dội,
nhiều vẻ, được tác giả miêu tả:
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã nghe thấy tiếng nước “réo gần mãi lại, réo to mãi
lên”, so sánh độc đáo: tiếng nước thác nghe như là “oán trách”, như là “van xin”, như là
“khiêu khích”, rồi rống lên “như tiếng một ngàn con trâu mộng” gầm thét khi bị cháy
rừng.=> gợi ấn tượng về âm thanh khủng khiếp của thác nước sông đà

2
* Thạch trận đá trên lòng sông”.Thạch trận không chỉ có vẻ hung hãn, dữ dằn của vách đá,
hút nước mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo quyệt:
+ Mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, “nhăn nhúm”, méo mó + Đứng, ngồi, nằm, nghiêng với
những nhiệm vụ riêng → bày sẵn thạch trận thành 3 tuyến. + Bày 3 trùng vi nhằm tước đoạt
và hủy diệt đến cùng sự sống của con người: giở mọi thủ đoạn, miêu ma chước quỷ để dẫn
dụ, phục kích → “binh pháp” sâu hiểm của “thần sông thần đá”.
+ Chọn khúc ngoặt – khi tầm nhìn bị hạn chế để đánh phục kích.
+ Dụ người vào sâu thế trận, đánh quật vu hồi → cô lập hóa, chặn mọi đường sinh.
+ Khi giáp lá cà: giở mọi ngón đòn hiểm ác: nước thác reo hò làm thanh viện…→ uy hiếp
tinh thần đối phương.

=> Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với tâm địa độc ác. Với
đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều lúc đã trở thành “kẻ thù số một”
của con người.
* Nhận xét: Ngôn từ phong phú, sử dụng thuật ngữ, hệ từ vựng của nhiều ngành khoa học,
nghệ thuật khác nhau (quân sự, võ thuật, thể thao…). Diễn tả tính chất cuộc đấu tranh giữa
con người – tự nhiên: quyết liệt, căng thẳng, một mất một còn. Bản chất Sông Đà: vừa “khắc
nghiệt như gì ghẻ, chúa đất”, vừa hùng vĩ dữ dội. Ấn tượng về con sông: Mang diện mạo một
kẻ thù. Thách thức đối với con người, gợi ham muốn chinh phục, khám phá, chế ngự.
* Tiểu kết: Thần thoại “Sơn Tinh, Thủy Tinh”: lý giải cái hung bạo, khắc nghiệt của Sông
Đà bằng tư duy thần thoại cổ xơ “năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Nguyễn Tuân lại
dựng lên vẻ đẹp dữ dội, hung bạo, hùng vĩ của Sông Đà bằng những trang văn cụ thể, chân
xác, giàu liên tưởng.

2. Con sông Đà trữ tình, thơ mộng.


- Vẻ đẹp nên thơ và trữ tình: Tập trung ở khúc hạ lưu → dòng chảy êm, phẳng, rộng → nét
tính cách tương phản với sự hung bạo được miêu tả cụ thể, chân thực bằng rất nhiều hình ảnh
gợi cảm. – tác giả quan sát và miêu tả ở nhiều góc độ, điểm nhìn, không gian và thời gian
khác nhau.
+ Quan sát từ trên cao, Sông Đà có dòng chảy uốn lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ
Tây Bắc kiều diễm. Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi
Mèo đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: mùa
xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Những chi tiết miêu tả của tác giả gợi
lên một liên tưởng thú vị: giữa khung cảnh ngày xuân thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc,
Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu nữ đương độ xuân thì.
3
– Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi cảm “như một
cố nhân”.
+ Màu nắng tháng ba Đường thi → liên tưởng độc đáo → nắng sông Đà như ngậm thơ,
ngậm họa. + Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ con nghịch chiếu gương
vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường thi”, cùng với hình ảnh bờ
Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn chuồn bươm bướm” tạo nên một cảnh sắc hấp dẫn.
Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông bằng những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông
con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
– Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ
tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống.
+ Lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi ra những nõn búp, con nai thơ ngộ, áng cỏ sương
→ tinh khôi, đọng hương sữa ngào ngạt, non tơ.
+ Tiếng còi sương → âm thanh trong tâm tưởng, dội về từ quá khứ → chi tiết độc đáo, diễn tả
sâu sắc cái yên lặng khôn cùng của bờ sông, tĩnh đến mức người và vật giao cảm để lặng tìm
âm thanh tự tâm hồn, tự thời gian thăm thẳm.
+ Bờ sông: hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa →
không xác định, không cụ thể nhưng giàu sức gợi, gợi về quá khứ, gợi trăm năm cổ tích, khơi
lại những trầm tích tâm hồn người Việt trong những trang viết cổ sơ > lấy những giá trị văn
hóa truyền thống để so sánh > vĩnh viễn hóa bờ bãi sông Đà.
Dòng sông quãng này “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng
nguồn Tây Bắc”.
3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
– Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo,
bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu hình ảnh và
có sức gợi cảm cao.
– Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì
chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có
tâm hồn, tâm trạng.
4. Tóm lại, hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc điểm: vừa
hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ
đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của mình với đất nước. Hình tượng
con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi
trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên giành cho con người.
Hình tượng người lái đò
1. Tác giả giới thiệu chung về người lái đò:
– Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên Tây Bắc, có
nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người. Trong
cuộc mưa sinh đày gian khổ ấy, phẩm chất của người lái đò được bộc lộ một cách rõ nét, thể

4
hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao” trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở
mặt trận Sông Đà.
Tài năng: Nắm chắc qui luật của thần sông thần đá. Thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở.
⇒ Hé mở vấn đề mang ý vị triết học sâu sa: trong cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù
bốn chân, con người am hiểu và làm chủ qui luật là con người tự do, dẫu đó là qui luật đầy
khắc nghiệt, chỉ cần một chút lơi tay, do dự và mất bình tĩnh là có thể trả giá bằng cái chết.
– Giao tranh với thạch trận: Bút pháp tương phản dựng lên cuộc tranh chấp quyết liệt, gay
gắt, căng thẳng trên thạch trận Sông Đà.
2. Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm:
– Cái tài năng, bản lĩnh và những phẩm chất tuyệt vời của người lái đò sông Đà được Nguyễn
Tuân thể hiện tập trung nhất trong cảnh chiến đấu với ba trùng vi thạch trận. Như một vị
tướng tài ba, ông lái đò đã điều khiển thế trận như một chiến lược, chiến thuật độc đáo.
– Ở trùng vi thứ nhất:
+ Sông Đà chia thành năm cửa trận, trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh được
nguỵ trang nằm lập lờ bí hiểm phía tả ngạn.
+ Vừa vào thạch trận “sóng, nước, đá sông hò la vang dậy”, ùa vào định “bẻ gãy cán chèo võ
khí” trên tay người lái đò. Sóng nước như một đám quân liều mạng xông vào “đá trái”, “thúc
gối vào bụng, vào hông thuyền”. Nước như một đô vật “túm thắt lưng ông đò đòi vật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt” rồi đánh miếng “đòn hiểm’ vào chỗ “hạ
bộ”.
+ Bị trúng đòn, mắt người lái đò như thấy “một cửa bể đom đóm” nhưng ông vẫn “cố nén vết
thương”, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”. Trên “con thuyền sáu bơi chèo” vẫn nghe rõ
“tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo” của ông. Ông lái đò thật sự là một con người lão luyện,
luôn bình tĩnh, dũng cảm, biết nén mọi đau đớn để chiến thắng đối chủ hiểm ác của mình..
– Ở trùng vi hai:
+ Kẻ địch thay chiến thuật. Chúng tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch sang phía
bờ hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền.
+ Ông lái đò đã “nắm chắt binh pháp của thần sông thần đá” nên đã “nắm chặt được bờm
sóng đúng luồng” rồi “ghì cương lái (…) mà phóng nhanh vào cửa sinh”.
+ “Đám thuỷ quân” định “níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Nhưng ông đã có cách trị bọn
chúng. Đứa thì “ông tránh mà rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “chặt đôi ra để mở đường tiến”.
Từ đó, ta thấy ông lái đò là một con người có nhiều kinh nghiệm, có hành động chuẩn xác,
mau lẹ, quyết đoán, một ông lão thông minh tài giỏi.
5
– Ở trùng vi thứ ba:
+ Ít cửa hơn nhưng “bên phải, bên trái đều là nguồn chết cả”. Cửa sinh nằm giữa bọn đá hậu
vệ của con thác.
+ Ông lái đò như một chỉ huy dạn dày kinh nghiệm: “Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng
cửa giữa” mà vượt qua cổng đá, cánh mở, cánh khép. “Thuyền như một mũi tên xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác.” Đến đây, trình độ
chèo thuyền lái đò vượt thác của người lái đò đã đạt đến mức độ tài hoa, đã nâng lên thành
nghệ thuật chèo đò, là một tay chèo điêu luyện, một nghệ sĩ trên sông nước. Nói như Nguyễn
Tuân đó là “một tay lái ra hoa”.
– Sau khi chiến thắng ba vòng trùng vi thạch trận, vượt qua những “cửa ải nước dữ tướng dữ
quân tợn”, đêm ấy ông lái đò và những người bạn sông nước của mình “đốt lửa trong hang
đá, nướng ống cơm lam” và chỉ bàn về chuyện “cá anh vũ, cá dầm xanh và những hầm cá,
hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng” mà không
nhắc đến chiến công trên sông nước vừa qua.
⇒ Một con người khiêm tốn, xem chuyện chiến thắng dòng sông Đà hung hãn là một câu
chuyện đời thường không cần phải bận tâm, không đáng để tự hào.
⇒ Qua ba lần vượt trùng vi thạch trận, tác giả ca ngợi sự trí dũng tài hoa, ca ngợi tư thế chiến
thắng của con người trước thiên nhiên hung hãn, mà cụ thể là chính dòng sông Đà nham hiểm
thâm độc, quỷ quỵêt hung bạo, lắm chứng lắm tật.
Nhận xét đánh giá
*Nghệ thuật – Nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập → gợi không khí
cuộc giao tranh quyết liệt, một sống một chết.
– Tương phản hai lực lượng: một bên là thiên nhiên – thác đá Sông Đà bạo liệt, hung tàn, sức
mạnh vô song, một bên là con người – ông lái đò bé nhỏ, cạn kiệt sức → tạo ra một tương
phản để nhấn mạnh bản lĩnh, sự dũng cảm và khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
– Kết hợp kiến thức uyên bác của nhiều lĩnh vực: võ thuật, thể thao, quân sự… và trí tưởng
tượng phong phú cùng kho chữ nghĩa phong phú, tài hoa → biến câu chuyện bình thường
thành bản trường ca về người anh hùng – nghệ sĩ lái đò trong nghệ thuật vượt thác → ông đò
vừa là một dũng sĩ vừa là một nghệ sĩ.
*Nội dung:
Hình tượng người lái đò sông Đà là một con người bình dị mà phi thường được Nguyễn Tuân
khắc hoạ như một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất
nước. Đó là một cách nhìn, một cách khám phá và khẳng định vẻ đẹp của con người Việt
Nam trong thời đại mới. Ông lái đò chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của con người
6
Tây Bắc. Ba lần vượt trùng vi thạch trận đã toát lên những vẻ đẹp tuyệt vời của một con
người lao động trí dũng, một nghệ sĩ tài hoa trong lĩnh vực chèo thuyền vượt thác. Ca ngợi
hình tương người lái đò sông Đà chính là một cách tôn vinh tài năng, ý chí, nghị lực của con
người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Qua đó, Nguyễn Tuân còn khẳng định với
chúng ta rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu
chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng và chinh phục thiên nhiên.

You might also like