You are on page 1of 6

HƯỚNG DẪN SÔNG ĐÀ HUNG BẠO

Phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn trích “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ
có thác đá (…) bày thạch trận trên sông”. Từ đó, nhận xét về chất tài hoa, uyên bác trong tùy
bút của Nguyễn Tuân.
A.PHÂN TÍCH ĐỀ:
- Dạng đề: Phân tích một đoạn trích văn xuôi.
- Vấn đề cần bàn luận:
+ Hình tượng sông Đà hung bạo trong đoạn trích
+ Chất tài hoa, uyên bác trong tùy bút của Nguyễn Tuân
- Phạm vi tư liệu: Đoạn trích ở đề + Tác phẩm Người lái đò sông Đà, Ai đã đặt tên
cho dòng sông?,…
B. CẤU TRÚC TRIỂN KHAI
I.MỞ BÀI
1.Trực tiếp:
- Giới thiệu nhà văn Nguyễn Tuân, tùy bút “Người lái đò sông Đà”
- Nêu vấn đề cần bàn luận: yêu cầu 1 và yêu cầu 2 của đề bài.
Nguyễn Tuân - nhà văn lớn, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước Cách
mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của một thời vang bóng, ca ngợi những thú chơi tao nhã
của các nhà nho tài tử xưa. Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân tôn vinh cái đẹp của thiên nhiên
đất nước, trong cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân, trong đó “Người lái đò sông
Đà” là một áng văn tiêu biểu. Đoạn trích “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá
(…) bày thạch trận trên sông” tập trung khắc họa vẻ hung bạo của sông Đà. Từ đó, làm nổi
bật chất tài hoa, uyên bác trong tùy bút của nhà văn họ Nguyễn.
2.Gián tiếp:
- Dẫn dắt từ đề tài dòng sông/ sông Đà/nhận định về tính sáng tạo.
- Giới thiệu nhà văn Nguyễn Tuân, tùy bút “Người lái đò sông Đà”
- Nêu vấn đề cần bàn luận: yêu cầu 1 và yêu cầu 2 của đề bài.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Những dòng sông quê hương từ lâu đã trở thành nguồn cảm xúc dạt dào khơi mạch
văn chương của các thi nhân. Mỗi dòng sông là mỗi dáng hình, mỗi nét đẹp, mỗi tình cảm
mà các tác giả gửi gắm biết bao tâm tư tình cảm. Nếu như sông Hồng chất chứa nỗi sầu vạn
cổ của Huy Cận, sông Hương ấp ủ bao nét đẹp văn hóa, lịch sử, thơ ca trong tùy bút của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, thì sông Đà trong “Người lá đò sông Đà” của Nguyễn Tuân chính
là biểu tượng cho chất vàng mười của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đoạn trích “Hùng
vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá (…) bày thạch trận trên sông” tập trung khắc họa
vẻ hung bạo của sông Đà. Từ đó, làm nổi bật chất tài hoa, uyên bác trong tùy bút của ngòi
bút Nguyễn Tuân.
II. THÂN BÀI:
1.Khái quát:

1
-“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh Châu). Chất
tài hoa, uyên bác là nét nổi bật tạo nên sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của
nhà văn, thể hiện ở chỗ:
+ Ông luôn tiếp cận sự vật hiện tượng ở góc độ văn hóa thẩm mĩ.
+ Giàu cảm hứng trước những vẻ đẹp phi thường, những cảnh trí tuyệt mĩ
+ Có biệt tài trong quan sát, miêu tả
+ Trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo
+ Bậc thầy về ngôn từ
+ Sự uyên bác thể hiện ở vốn hiểu biết sâu rộng, được tổng hợp từ các tri thức đa ngành.
-Sự tài hoa uyên bác được thể hiện ở thể tùy bút- thể văn kí mang đậm chất tự do,
phóng túng, in đậm cái tôi của tác giả.
- Khái quát về tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng sông Đà
+ Tác phẩm là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ nhà văn thu được trong chuyến đi thực tế Tây
Bắc với mục đích tìm kiếm và tôn vinh “chất vàng” của thiên nhiên và “chất vàng mười đã
qua thử lửa” của người lao động Tây Bắc, được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960).
+ Thiên tùy bút khắc họa hai hình tượng nổi bật: con sông Đà hung bạo, trữ tình và người lái
đò trí dũng, tài hoa trong hành trình vượt thác. Sông Đà là con sông lớn bắt nguồn từ tỉnh
Vân Nam (TQ) và chảy qua các tỉnh Tây Bắc nước ta. Với địa hình hiểm trở, nhiều thác
ghềnh, con sông trở thành nguồn tài nguyên thủy điện lớn. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn
Tuân, sông Đà hiện lên như một sinh thể có diện mạo, hình hài, cá tính với hai nét tính cách
trái ngược: hung bạo và trữ tình.
-
-“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích đã gợi lên hình tượng một con sông cá tính như một
con ngựa bất kham, không chịu ép mình vào khuôn khổ. Là một nhà văn ưa những cảnh trí
dữ dội, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, NT đã say mê miêu tả vẻ hung bạo của sông Đà
trên nhiều dạng vẻ, nào là những cảnh đá bờ sông dựng vách thành, rồi mặt ghềnh Hát
Loong, những cái hút nước và đặc biệt, cái không thể thiếu để tạo nên diện mạo dữ dằn của
con sông, đó là thác nước và thạch trận.
3. Phân tích sông Đà hung bạo:
a. Vẻ hung bạo của sông Đà hiện lên trước hết ở vẻ hùng vĩ, hiểm trở của cảnh đá bờ
sông dựng vách thành:
- Đầu tiên, tác giả khiến người đọc rợn ngợp với độ cao của vách đá:
+“Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông
dựng vách thành”. Đập mạnh vào giác quan độc giả là những vách đá sừng sững qua hình
ảnh ẩn dụ “vách thành”. Ta vẫn thường nhắc đến “thành” như một khối kiến trúc quân sự,
một công trình phòng ngự chắc chắn. Thành quách là nơi bên ngoài quân địch khó mà xâm
nhập vào nhưng bên trong quân ta lại nắm rõ nội tình khi nhìn ra để rồi dễ dàng tác chiến.
Chỉ với hai chữ “vách thành” nhà ảo thuật ngôn từ đã dựng lên trước mắt người đọc vách đá
sông Đà sao mà kiên cố, thâm nghiêm. Hai chữ “vách thành” còn gợi thành ngữ “thành cao
hào sâu”, khiến người đọc hình dung những vách đá sắc nhọn, lởm chởm, hiểm trở và độ sâu
hun hút của con sông Đà.
+ Chính bởi thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút mà mặt sông “đúng ngọ mới có mặt
trời”. “Đúng ngọ” là thời điểm giữa trưa. Đây là lúc bề mặt trái đất nhận được nhiệt lượng

2
lớn nhất từ mặt trời. Ta đã bắt gặp ánh nắng trong bao vần thơ về sông nước “nắng chiếu
sông Lô hò ô tiếng hát” trong thơ Tố Hữu hay “nắng xuống trời lên sâu chót vót” trong thơ
Huy Cận. Nhưng trong ấn tượng của nhà văn họ Nguyễn chỉ khi mặt trời lên thiên đỉnh nắng
mới được le lói xuống lòng sông Đà. Phải chăng, vách đá quá cao, vực sông quá sâu đến độ
nắng không thể chiếu xiên ngang mà chỉ có thể hắt xuống từng giọt hiếm hoi như vậy.
- Sự hung bạo tột cùng của cảnh đá bờ sông được nhấn mạnh qua độ hẹp của sông Đà.
+Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hai bên bờ sông như đang xích lại gần nhau: “Có vách đá
thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh “cái yết
hầu” gợi ra hình ảnh dòng sông có chỗ bị đá vách đá chèn ép tới mức nghẹt thở. Dòng chảy
tưởng như bị nghẽn tạo nên sự bức bối, ngột ngạt.
+ Nhà văn còn dùng hai chi tiết để nhấn mạnh hơn nữa độ hẹp của lòng sông: “Đứng bên
này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ
này sang bờ kia”. Chỉ bằng cú nhảy đơn giản của nai hổ, động tác ném nhẹ chơi đùa của con
người nhưng lại trở thành thước đo tài tình hơn bất cứ con số chuẩn xác nào.
+ Sự nguy hiểm của dòng sông gợi ra ngày một rõ nét, ở một nơi hẹp như thế, lưu tốc dòng
nước vốn nhanh giờ lại xiết hơn. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy
thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
-Không chỉ gây ấn tượng thị giác, nhà văn còn tác động vào xúc giác của người đọc qua
cảm giác lạnh đến từ không khí và nước của sông Đà quãng này:
+ “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh”, sự tương
phản giữa cái nóng của mùa hè và cảm giác lạnh gợi ra sự tối tăm, thâm u đến gai lạnh của
khúc sông chật hẹp, ít ánh sáng mặt trời này.
+ Nhà văn còn “chơi ngông” khi liên tưởng độc đáo, tả thiên nhiên hoang sơ mà lại so sánh
với khung cảnh của phố thị: “cảm thấy mình đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Câu văn gây ấn
tượng mạnh mẽ về độ cao khủng khiếp của hai bờ đá như “trên cái tầng nhà thứ mấy”, tác
giả đã lấy hè phố để tả mặt sông, lấy nhà cao để gợi vách đá. Các từ ngữ không xác định
“nào”, “mấy” càng gợi sự bí hiểm của sông Đà. Động từ “tắt phụt” gợi cảm giác ánh sáng
vụt tắt đột ngột, bóng tối vây bủa bao trùm khiến con người chới với, hụt hẫng đến thót tim
khi đi qua khúc sông đầy tăm tối này.
+ Như vậy, qua tài năng miêu tả của Nguyễn Tuân, người đọc như được trải nghiệm cảm
giác lạnh lẽo đến rùng mình, sợ hãi, sự đơn độc đáng sợ khi ngồi trên khoang thuyền sông
Đà.
b.Tính chất hung bạo thể hiện qua cái dữ dằn của mặt ghềnh Hát Loóng
- Ca dao Tây Bắc có câu:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
(Ca dao)
Con sông Đà trở nên hung hiểm vô cùng bởi có hàng trăm ghềnh thác. Nhà văn chỉ miêu tả
một con ghềnh cũng khiến người đọc hoảng sợ: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài
hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè như lúc nào
cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”.
-Câu văn mở đầu giới thiệu: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ngay từ cái tên “Hát
Loóng” đã khiến người đọc phải tốn sức nén hơi, uốn lưỡi gợi sự khó khăn, nhọc nhằn khi đi

3
qua quãng sông này. Từ “lại như” tạo ra cảm giác những hiểm nguy như trùng điệp, tiếp nối,
lúc nào cũng chực chờ, rình rập.
- Đội quân sóng, nước, gió trên sông Đà đang bắt tay nhau tạo trận địa uy hiếp con người:
“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Nhịp văn ngắn, nhanh, mạnh, dồn
dập như đang muốn tạo cơn cuồng phong bão tố. Ba điệp từ “xô” đặt trong ba vế câu cùng
với biện pháp liệt kê để cộng hưởng cho những đợt đánh liên hoàn dữ dội của sóng nước thác
đá. Từ láy “cuồn cuộn” gợi từng luồng gió thốc manh, gào rú; hai chữ “gùn ghè” gợi tiếng
gió mài vào đá sắc lạnh, tạo thành tiếng rít ghê rợn.

-Dưới phép màu của thầy phù thuỷ ngôn từ Nguyễn Tuân, Đà giang như con thủy quái đang
cuồng nộ, bẳn tính, gắt gỏng vô cớ giận dỗi với con người. Chúng hênh hoang đe dọa, sẵn
sàng tiêu diệt, nuốt trọn bất cứ tay lái sơ ý nào: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ
lật ngửa bụng thuyền ra”.
c.Đáng sợ hơn nữa là hững cái hút nước khủng khiếp ở quãng Tà Mường Vát phía
dưới Sơn La.
- Không phải là xoáy nước mà là “những cái hút nước” gợi ra độ sâu hun hút và lực nước
khủng khiếp. Cũng giống như cái tên “Hát Loóng”, địa danh “Tà Mường Vát” gợi ấn tượng
về sự hoang sơ, bí ẩn của mảnh đất Tây Bắc.
-Đầu tiên, sự hung tợn của hút nước sông Đà đến từ ấn tượng thị giác: “Trên sông bỗng
có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng cầu”. Hình
ảnh so sánh “cái giếng bê tông” gợi liên tưởng đến cái hút lớn đen ngòm, sâu hoắm mà xung
quanh nước xoáy lực mạnh đến mức như được đổ bê tông.
-Âm thanh của nước ở đây được liên tưởng qua biện pháp nhân hoá và so sánh: “Nước
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Những âm
thanh rùng rợn, hoang dã gợi tả xoáy nước hiểm độc như một con quái vật đang sục sôi giận
dữ, sẵn sàng gieo chết chóc cho con người.
- Trong cách miêu tả của Nguyễn Tuân, hút nước sông Đà là những cái bẫy chết người:
+ “Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Cụm từ “xoáy tít
đáy” mang đến ấn tượng hãi hùng về lực hút của nước, từ láy tượng hình “lừ lừ” và hình ảnh
đàn quạ gợi sự lạnh lẽo đáng sợ, dường như tử khí đang bao trùm khắp mặt sông Đà quãng
này.
+ “Thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho
nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Lại một lần nữa, nhà văn
liên tưởng quãng sông hoang sơ đến hình ảnh của phố thị, liên tưởng việc chèo thuyền với
việc lái ô tô. Có lẽ phải là người từng trải nghiệm đi ô tô trên những cung đường vùng cao,
một bên là núi, một bên là vực thẳm mới có thể hình dung hết ý nghĩa của so sánh này. Các
động từ “chèo nhanh”, “lướt”, “vút qua” cho thấy, chèo thuyền trên sông Đà hay lái xe trên
vùng núi đều cần đến tốc độ và sự dày dạn, khéo léo, kinh nghiệm.
+ Nhưng không phải con thuyền nào cũng vượt qua những hố tử thần trên dòng Đà giang:
“Có những thuyền bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông, độ mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới”. Các động từ mạnh: “lôi tuột”, “hút xuống”, “trồng cây chuối”, “vụt biến”, “dìm, “đi

4
ngầm”, “tan xác” gợi sức mạnh huỷ diệt ghê gớm của hút nước sông Đà. Lúc này, chúng trở
thành những chiếc cối xay khổng lồ nghiền nát tất cả những gì chúng tóm được.
-Không chỉ vận dụng tri thức địa lí, giao thông, nhà văn còn dùng kiến thức điện ảnh để
tô đậm hơn nữa ấn tượng về hung hiểm của hút nước qua một liên tưởng có một không
hai: “Tôi sợ hãi nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho
khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả
mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà”.
+Đúng là tình huống này không thể có trong thực tế, song điều Nguyễn Tuân làm được là
ông đã “truyền cảm giác mạnh” cho người đọc vẻ vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của sông Đà qua
hình ảnh: “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày,
khối pha lê xanh”, qua những từ ngữ đập vào giác quan người đọc: “xoay tít”, “vỡ tan”, “ụp
vào”.
+ Độc giả được nhà văn dẫn dụ theo một trò chơi mạo hiểm mà “thấy mình đang lấy gân
ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước
khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”. Các động từ “lấy gân”, “giữ chặt”, “ghì lấy” diễn tả
cảm giác sợ hãi đến cực độ. Không cần đến sông Đà, người đọc qua trang văn của Nguyễn
Tuân như thấy tận mắt, nghe tận tai và được trải nghiệm cảm giác hãi hùng đáng sợ từ những
cái hút nước sông Đà.
+ Thực vậy, đọc văn Nguyễn Tuân, ta càng thấm thía vẻ đẹp lạ lùng của ngôn từ tiếng Việt,
với sức liên tưởng, tưởng tượng vô cùng phong phú, sáng tạo, nhà văn lúc thì như một hoạ sĩ,
lúc lại như một nhà quay phim đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
3. Đánh giá:
a.Đánh giá sông Đà:
-Nếu dòng Hương giang phía thượng nguồn trong trang văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hùng
vĩ, dữ dội với dòng chảy rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua ghềnh thác mà vẫn ẩn
chứa vẻ đẹp dịu dàng say đắm thì con sông Đà ở thượng nguồn chỉ có nét hung bạo, dữ dằn.
Hình ảnh thác nước và thạch trận góp phần làm nổi bật hình tượng con sông như đứa con
ngỗ ngược của bà mẹ thiên nhiên Tây Bắc, thứ “kẻ thù số một” của con người.
-Đoạn văn bộc lộ sự tài hoa của NT: những con chữ dưới bàn tay của người nghệ sĩ xiếc
ngôn từ như đang cựa quậy, sống động trên trang giấy. Biện pháp nhân hóa, so sánh với
những liên tưởng mới mẻ, táo bạo đưa người đọc lạc vào một thiên nhiên kì vĩ hào hùng
giống như một trận đồ bát quái đáng sợ.
b. Đánh giá sự tài hoa, uyên bác của NT qua hai đoạn trích
-Với lối văn sở trường, lối chơi độc tấu là thể tùy bút, NT được dịp phô diễn “tay bút ra
hoa” của mình khi miêu tả con sông Đà hung bạo và trữ tình.
- Tả thác nước, thạch trận trên thượng nguồn với một loạt so sánh táo bạo, NT khiến người
đọc vừa căng thẳng, hồi hộp vừa thích thú trước sự hung tợn của sông Đà. Còn khi khắc họa
hình ảnh con sông quãng hạ lưu, với những liên tưởng rất thơ, nhà văn lại đưa người đọc vào
một không gian cổ tích, được thả hồn mình trong cái mơ màng, êm dịu của cảnh vật.
- Ông như một nhạc trưởng điều khiển dàn nhạc giao hưởng tuyệt vời của chữ nghĩa. Lúc là
những câu từ đập mạnh vào giác quan người đọc, khi lại gợi ra những liên tưởng, tưởng
tượng phong phú, thi vị. Ông còn là một nhà khảo cứu công phu khi đưa vào đoạn trích vốn
kiến thức phong phú của lĩnh vực địa lí, quân sự, lịch sử và thi ca
- Dù tả sông Đà thơ mộng hay trữ tình, câu văn NT cũng linh hoạt và chứa đầy cảm xúc. Đó
là niềm đắm say bất tận trước vẻ đẹp hoang dại cá tính và cái nhìn đầy ngỡ ngàng trìu mến

5
trước vẻ hiền hòa dịu dàng của con sông. Vẻ đẹp ấy ông trân trọng gọi là “chất vàng” của
thiên nhiên Tây Bắc.
III.KẾT BÀI:
Nguyễn Tuân từng thích thú với mong muốn của một văn sĩ nước ngoài: “Khi tôi chết,
hãy thuộc da tôi làm chiếc va li” bởi câu nói đã chạm đúng “cái máu xê dịch” của người
nghệ sĩ tài hoa ấy. Chuyến đi đầy hào hứng của nhà văn tới miền Tây Bắc của Tổ quốc đã để
lại thành quả nghệ thuật độc đáo: “Người lái đò sông Đà”. Viết theo thể tùy bút song Nguyễn
Tuân không sa vào ghi chép, ông khiến những gì mình quan sát được trở nên vô cùng sống
động, lôi cuốn bằng trí tưởng tượng, sức liên tưởng phong phú, sáng tạo, in đậm cá tính của
nhà văn. Đọc đoạn trích tả sông Đà hung bạo, ta choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt vời của
dòng sông quê hương và càng khâm phục trước sự tài hoa, uyên bác của nhà văn họ Nguyễn.
Cái tài của NT là đã làm trào dâng xúc cảm trong lòng người đọc, khiến ta thêm yêu quý, tự
hào và trân trọng biết bao vẻ đẹp của sông nước quê hương mình.

You might also like