You are on page 1of 17

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

- Nguyễn Tuân -
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
- Là một trí thức yêu nước
- Người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp
- Phong cách nghệ thuật: tài hoa, uyên bác
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: ra đời năm 1960, gồm 15 tuỳ bút, là kết quả chuyến đi thực
tế của tác giả năm 1958 ở vùng Tây Bắc.
b. Xuất xứ: In trong tập “Sông Đà” (1960)
c. Thể loại: tuỳ bút
- Thuộc thể kí - Ghi chép về con người, sự vật -> bộc lộ cảm xúc, suy tư, nhận
định, đánh giá của nhà văn.
- Tự do, phóng khoáng; thể hiện tính chủ quan, chất trữ tình đậm nét. Nhân vật
chính là cái tôi của nhà văn
→ Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng. Với cá tính của
mình, ông tìm đến thể tuỳ bút như một thể tất yếu. -> Sở trường của nhà văn Nguyễn
Tuân.
d. Đối tượng:
- Phông cảnh Tây Bắc vừa hung bạo hùng vĩ, vừa thơ mộng trữ tình.
- Con người Tây Bắc dũng cảm, cần cù.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Hình tượng sông Đà
*Khái quát:
- Tên gọi: sông Bờ, Đà Giang, phụ lưu lớn của sông Hồng. Sông bắt nguồn từ tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc chảy theo hướng tây bắc - đông nam để rồi nhập với sông
Hồng ở Phú Thọ.
- Lai lịch đặc biệt:
+“Chúng thuỷ giai Đông tẩu; Đà giang độc Bắc lưu” (mọi con sông đều chảy theo
hướng Đông, chỉ có sông Đà theo hướng Bắc) -> con sông bướng bỉnh, ương ngạnh
+ Thơ Ba Lan: “Đẹp vậy thay tiếng hát dòng sông”
-> Ý nghĩa: Sông Đà như một nhân vật có diện mạo, có cá tính độc đáo.
- Cội nguồn:
+ Địa lí: Bắt nguồn từ Trung Quốc – trải qua vùng núi Tây Bắc dài và quanh co –
nhập quốc tịch Việt Nam -> Bí ẩn, lắm ghềnh thác
+ Lịch sử: có nhiều biến động : Thời Trần Trong kháng chiến ; Khi giải phóng
- Tính cách: hung bạo, dữ dội và thơ mộng, trữ tình
a. Con sông Đà hung bạo:

1
- Lưu ý:
+ Nếu NKĐ cảm nhận mỗi dòng sông trên đất Việt là những “con rồng nằm im”,
HPNT cảm nhận con sông Hương như “một cô gái Digan phóng khoáng và man
dại”, như “ người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”; thì Nguyễn Tuân lại
cảm nhận con sông Đà như một con người, một sinh thể sống có hồn, như một
người con của đất Việt.
+ Sinh thể sống ấy có: nơi khai sinh, có tên khai sinh, có nơi xin nhập quốc tịch
Việt Nam; có cuộc đời, có số phận, có vẻ đẹp cụ thể, có bản tính cụ thể: “hung
bạo” và “trữ tình”.
+ Nguyễn Tuân là nhà văn không ưa những gì bằng phẳng, nhợt nhạt, khuôn phép,
yên ổn. Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm
giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao, rừng thiêng,
thác ghềnh dữ dội. Nên NT đã chọn con sông Đà làm điểm đến.
* DÒNG SÔNG DUY NHẤT CHẢY THEO HƯỚNG BẮC
* CẢNH ĐÁ BỜ SÔNG DỰNG VÁCH THÀNH: Cái hẹp của lòng sông được
tác giả miêu tả theo đủ cách:
(1) “những cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng
ngọ mới có mặt trời”
(2) “vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu”
(3) “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia”…
(4) “ngồi trong khoang đó quãng ấy đang mùa hè mà cũng thấy lạnh...”
=> Nguyễn Tuân lục lọi đến kiệt cùng vốn sống và kho ấn tượng để khiến người
đọc phải kinh động hồn vía về độ cao của những vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của
đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy bằng những liên tưởng độc đáo, bằng
những so sánh thú vị.
=> Để miêu tả cảnh tượng hùng vĩ có phần huyền bí của dòng sông, nhà văn chẳng
những sử dụng thị giác mà còn kết hợp sử dụng các giác quan khác(như xúc
giác) với những so sánh mới mẻ táo bạo
(so sánh cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang vu tiềm ẩn những nguy
hiểm chết người với một khoảnh khắc của đời sống hiện đại)
* NƠI MẶT GHỀNH HÁT LOÓNG:
- Phô diễn tính cách hung bạo ra mặt: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, (1) dài
hàng cây số, (2) nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, (3) cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm
được qua đấy.”
+ Câu văn miêu tả có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc,
những điệp từ nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh
động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và
đá sông Đà, trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau,

2
trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh. Với Nguyễn Tuân, tất cả những gì tĩnh tại,
bất biến, vô tri cũng trở nên sống động, cựa quậy.
+ Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về
việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người
lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy -> thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm
và cuồng bạo của dòng sông.
* NHỮNG HÚT NƯỚC TRÊN SÔNG
- Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút
nước (1) giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
Nước ở đây (2) thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy,
cũng đang (3) quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần
những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt quãng sông,(4) y như
là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài
bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái
giếng sâu nước ặc ặc lên (5) như vừa rót dầu sôi vào.
+ Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra trong
hình ảnh như một cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh của một cửa
cống cái bị sặc, trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị rót dầu sôi.
Qua các so sánh, liên tưởng độc đáo ta thấy: Áp lực nước quá mạnh, quá nhanh.
Đây cũng chính là những cạm bẫy mà sông Đà đã giăng sẵn để bẫy những con
thuyền. Vì thế con người luôn phải thận trọng, tránh xa. Trong cái nhìn độc đáo
của nhà văn, tất cả những cái hút xoáy ở quãng sông này đều giống như một cái
bẫy nham hiểm.
+ Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những
chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước (thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc), tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút
nước như một quái vật đang giận dữ tới ghê người.
+ Hình ảnh liên tưởng đến “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” đã giúp
người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần
hút nước đáng sợ.
- “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột
xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy
tan xác ở khuỷnh sông dưới.”:
+Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những
bè gỗ to lớn nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị
hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi... tan xác ở khuỷnh sông dưới.
+ nghệ thuật phóng đại, động từ mạnh, ngôn ngữ giàu chất tạo hình khiến
con sông nổi bật với vẻ vô cùng độc dữ và hung bạo như một loài thủy quái.

3
- “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm
giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành
rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông… - từ đáy cái hút
nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một côt nước cao đến vài
sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái
máy lia ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng
nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan
ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong
lòng giếng xoáy tít đáy, truyền lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân
ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê
nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
+ Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con
thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra
một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận
đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước
vì thế đã được miêu tả bằng kĩ thuật của điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một
cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng
nước cho đến màu sắc của dòng sông nước xanh ve, và thậm chí cho đến cả
cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan, ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang
xem.
* Trận địa thác đá sông Đà
“Có diện mạo và tâm địa như kẻ thù số một của con người”
- Lưu ý:
+ Đây là đặc điểm nổi bật nhất để miêu tả sông Đà hung bạo
+ Với cái nhìn uyên bác và tài hoa của Nguyễn Tuân, chỉ riêng đoạn từ Vạn Yên
vè xuôi, Nguyễn Tuân chỉ đặc tả 1/73 con thác có tên vô cùng độc giữ mà đã làm
nổi bật được toàn bộ “diện mạo và tâm địa” của thác đá sông Đà
+ Trận địa thác đá được miêu tả bằng cái nhìn của người đi thuyền trên sông, nên
trình tự miêu tả là từ xa đến gần.
• TỪ XA: ÂM THANH THÁC DỮ (NƯỚC THÁC)
- “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy (1)tiếng nước réo gần mãi lại,
réo to mãi lên.
+ Câu văn cho thấy âm thanh thác dữ ngay từ xa dã nghe thấy tiếng nước réo
gần, réo to. Vậy nếu ta đến gần chắc âm thanh tiếng nước còn mạnh và to nhiều
lần hơn nữa.
+ Ở đây Nguyễn Tuân đã rất khéo léo sử dụng khoảng cách của không gian để
miêu tả tốc độ dòng chảy của thác nước.
- Tiếng thác nghe (2) như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.

4
+ Miêu tả âm thanh của tiếng thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ,
tâm trạng của con người khi oán trách, khi van xin, khi khiêu khích, giọng gằn
mà chế nhạo, khi rống lên-> Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà
thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người
ngay cả khi nó chưa xuất hiện.

- Thế rồi nó (3) rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với
đàn trâu da cháy bùng bùng.”
+ Những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh
dữ dội. Tre, nứa là loại chất đốt dễ cháy nhất. Cả rừng tre nứa bùng cháy là
hình ảnh dữ dội, khủng khiếp -> Nguyễn Tuân tài tình khi lấy hình ảnh gợi tả
âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản
trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị khiến cho sự dữ dội, hung bạo của
thác nước trở nên sống động, ám ảnh và đưa những liên tưởng, tưởng tượng
cùng cảm xúc của người đọc lên đến tột cùng.
+ Dùng hệ thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc
tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe
dọa hung bạo của dòng sông, vừa miêu tả khoảng cách ngắn dần của người
quan sát của thác đá sông Đà -> tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp, kì thú.

• Ở GẦN: HÌNH ẢNH THÁC DỮ (TRÙNG VI THẠCH TRẬN)


- “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá.
+ Tính từ: trắng xóa
+ Số từ: cả
-> Sóng to, gió lớn
- Đá sông Đà cùng với nước với sóng với gió sông Đà được miêu tả qua một hình
ảnh nhân hóa đặc sắc: Đá ở đây (1) từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông,
hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này,
mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để
vồ lấy thuyền.
+ Nhân hóa, động từ “mai phục”, “vồ”: sự chủ động của đá, của thiên nhiên
vây bắt, giăng bẫy con người.
+ Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và
hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn năm mai
phục, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy
vồ lấy thuyền.
- Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả
cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm
đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng

5
như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng
hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận
trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết
cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp
lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là
sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,
vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào
đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của
những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt
lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân
thác.
+Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá như có một gương mặt
riêng:
o Hòn thì ngổ ngáo, hiếu chiến (mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt
sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền),
o Hòn thì ngỗ ngược, hòn thì nhăn nhúm méo mó;
o Mỗi hòn một dáng (nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động
của đá to đá bé);
o Mỗi hòn một nhiệm vụ (đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang
trên sông; hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, (...) giữ vai trò dụ
cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; những boong-ke chìm và pháo đài
đá nổi (...) phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt
tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác.).
-> Lực lượng hùng hậu, đông đảo là vậy, thác đá còn nham hiểm, hiếu chiến.
Và ở đây, Sông Đà giống như một viên tổng tư lệnh đang điều binh, khiển
tướng. Sông Đà giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông.
+ Một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như: thạch trận,
cuộc giáp lá cà, dàn trận địa, hàng tiền vệ, boong-ke, pháo đài...; một hệ thống
dày đặc những từ mang sắc thái nhân hóa: hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy,
chặn ngang, dụ, đánh khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), tính cách (ngỗ
ngược), hình sắc (nhăn nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm); đặt
trong những câu văn ngắn, dồn dập -> khiến thác đá sông Đà thực sự trở
thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người với
thiên nhiên.

- Sự phối hợp rất chặt chẽ giữa nước thác và đá thác trên sông: Thạch trận dàn
bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh
viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì
y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một
hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò

6
hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt
nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay
mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào
bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như
đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la
não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.”
- Thạch trận sông Đà với 3 vòng vây:
+ Vòng 1: Sông Đà mở 5 cửa ải nước, trong đó có 4 cửa tử, 1 cửa sinh. Cửa
sinh nằm lập lờ phía tả ngạn (trái)
+ Vòng 2: Sông Đà tăng nhiều cửa tử dể đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại
bố trí dang bên hữu ngạn (phải)
+ Vòng 3: Ít cửa hơn nhưng đều là cửa tử. Cửa tử cả phải cả trái. Luồng sống
duy nhất ở ngay giữa dòng lấp sau lũ đá hậu vệ.
=> Bày binh bố trận chặt chẽ, nham hiểm vô cùng. Sông Đà hung bạo như hùm beo,
như hổ báo. “Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông”
=> SÔNG ĐÀ HIỆN LÊN NHƯ KẺ THÙ SỐ 1.
* Nhận xét chung về nghệ thuật:
- Quan sát tỉ mỉ, tìm hiểu kĩ càng kết hợp với trí tưởng tượng và sự liên tưởng
phong phú:
+ Trong phạm vi 1 lòng sông hẹp, như chiếc yết hầu bị đá bờ sông chẹt cứng.
+ Trong khung cảnh mênh mông hàng cây số của một thế giới đầy gió gùn ghè,
đá giăng đến chân trời và sóng bọt tung trắng xóa đòi nợ xuýt( từ độc đáo)
+ Những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu.
+ Những trùng vi thạch trận sẵn sàng nuốt chết con thuyền và người lái.
+ Âm thanh luôn thay đổi: oán trách nỉ non à khiêu khích, chế nhạo à rống
lên.
- Vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghề khoa học (điêu khắc, quân sự, điện
ảnh…). Ngôn ngữ giàu chất tạo hình, sử dụng nhiều động từ mạnh, nhịp văn chắc
khỏe, kết hợp với thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, trùng điệp…
+ Hình dung một cảnh tượng rất đỗi hoang sơ bằng cách liên tưởng đến hình
ảnh của chốn thị thành, có hè phố, có khung cửa sổ trên “cái tầng nhà thứ mấy
nào vừa tắt phụt đèn điện”.
+ Tả cái hút nước quãng Tà Mường Vát:
- nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.
- ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. ( âm thanh-âm nhạc độc đáo)
+ Lấy hình ảnh “ô tô sang số nhấn ga” trên “quãng đường mượn cạp ra ngoài
bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền …

7
+ Tưởng tượng về cú lia ngược của chiếc máy quay từ đáy cái hút nướcà cảm
thấy có một cái thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy
tinh khối đúc dày. ( ngôn ngữ điện ảnh)
+ Dùng lửa để tả nước.
+ Trong đoạn văn tả thạch thuỷ trận :
Ngôn ngữ bóng đá : đá xếp hàng tiền vệ...
Ngôn ngữ quân sự : đánh vu hồi, đánh hồi lùng, pháo đài đá
->Biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
->Bậc kì tài trong lĩnh vực sử dụng ngôn từ (sự phá cách mà ngoại trừ các tay bút
thực sự tài hoa, không ai làm nổi)
→ Sông Đà hiện lên như một “đứa con ngỗ ngược của bà mẹ thiên nhiên Tây Bắc”
và “mang diện mạo tâm địa một thứ kẻ thù số một”.
->Biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên đất nước.
->Bậc kì tài trong lĩnh vực sử dụng ngôn từ (sự phá cách mà ngoại trừ các tay bút
thực sự tài hoa, không ai làm nổi)
Bài tập 1:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá
bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có
vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném
hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ
kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vửa tắt phụt đèn điện. ( Trích Tuỳ bút Sông Đà-Nguyễn Tuân)
1. Đoạn văn trên được viết theo phương thức nào là chính?
2. Cảnh vật trong đoạn văn được nhà văn quan sát từ những góc độ nào và cảnh vật
đó hiện ra như thế nào? Nêu hiệu quả nghệ thuật việc quan sát sông Đà ở nhiều góc
độ đó.
3. Từ đoạn văn bản trên, hãy chỉ ra những đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân.
4. Đặt tiêu đề cho văn bản trên.

b. Con sông Đà trữ tình

* KHI NHÌN TỪ TRÊN CAO (TÀU BAY) XUỐNG: Sông Đà mang vẻ đẹp
của một mĩ nhân
- Trong cái nhìn của nhà văn thì:
+ Toàn bộ thiên nhiên núi rừng Tây Bắc giống như một người con gái mà
sông Đà chính là mái đầu của người con gái ấy.

8
+ Con sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”
=> Vẻ đẹp hấp dẫn, ngất ngây, gợi cảm, quyến rũ
- Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa:
+ Mùa xuân: Dòng sông “xanh ngọc bích chứ nước sông Đà không màu xanh
canh hến của sông Gâm, sông Lô”
+ Mùa thu: Nước sông Đà lừ lừ chính đỏ “như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa. Cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”
-> mang tâm trạng con người -> nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có
một vẻ đẹp riêng
+ NT phản đối kịch liệt cách gọi sông Đà đen “như thực dân Pháp đã đè ngửa
con sông ta ra, đổ mực tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế
phiết vào bản đồ lai chữ” -> hơi cực đoan nhưng cũng là một biểu hiện của
lòng yêu nước
=> Nguyễn Tuân là người yêu nước. Tình yêu nước được thể hiện qua tình yêu
thiên nhiên
* KHI NHÌN TỪ BỜ BÃI SÔNG ĐÀ: sông Đà mang vẻ đẹp của một “cố nhân”
“Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã
hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp
đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con
nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một
màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà,
bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi
rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố
nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng
đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
- Trong liên tưởng:
+ Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt
thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”,
đẹp một cách hồn nhiên và trong sáng
+ Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái
miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt
há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa
khói).
+ Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong khu vườn
cổ tích “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”.
-> nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại
sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.

9
- Có một niềm vui vô hạn khi bất ngờ được gặp lại sông Đà:
+ “Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”
+ “Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
+ “Đằm đằm, ấm ấm như gặp lại cố nhân”

*KHI NHÌN TỪ GIỮA LÒNG SÔNG Ở HẠ LƯU: Sông Đà như một người
tình nhân
- Cảnh mang vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn lưu lại dấu tích của lịch
sử cha ông:
+ “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.”
+ “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi.”
=> Sông Đà không chỉ tĩnh lặng trong hiện tại mà có lẽ cũng bình lặng từ trong quá
khứ.
- Cảnh thiên nhiên mơn mởn, tươi mới, tràn trề nhựa sống, như bắt đầu một mùa
nảy lộc sinh sôi. Nếu ở thượng nguồn, con thuyền trên sông Đà lao nhanh như tên
bắn, thì ở đây thuyền trôi lững lờ, êm đềm, cảnh vật hiện ra rõ nét hơn như những
thước phim quay chậm, lãng mạn, bay bổng trữ tình:
+“Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”
+“Cỏ gianh đầu núi đang ra những nõn búp”
+“Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”
+“Con cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thoi”
=> Cảnh mơn mởn
- Cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính
+“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử” -> cổ kính, thiêng liêng
+“Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích thuở xưa” -> trong trẻo,
nguyên sơ
+ Âm thanh tĩnh lặng đến nỗi “thèm nghe một tiếng còi” xe
=> Cảnh vật hai bên bờ sông Đà vừa hoang sơ nhuốm màu cổ tích, vừa trù phú,
tràn trề nhựa sống

* Nghệ thuật
- Biện pháp nhân hoá, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng
- Ngôn ngữ sống động, gợi hình, gợi cảm
- Nhịp của câu văn chậm, êm ái. Những câu văn mang dáng dấp mềm mại, yên ả,
trải dài như chính dòng nước: con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình,...
Câu văn "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”khá dài, chỉ có một dấu phẩy, đòi hỏi
người đọc phải đọc một hơi. Bằng lối viết này, phải chăng tác giả muốn nói với

10
người đọc rằng dù ông có nói đến cạn hơi cũng không hết những nỗi niềm cảm xúc
mà con sông Đà đã gợi lên.
- Dụng công tạo ra một không khí mơ màng, khiến người đọc có cảm giác như được
lạc vào một thế giới kì ảo.
+ Con sông giống như một cố nhân lâu ngày gặp lại.
+ Nắng cũng “giòn tan” và cứ hoe hoe vàng mãi cái sắc Đường thi “yên hoa
tam nguyệt”
+ Mũi thuyền lặng lẽ trôi trên dòng nước lững lờ như thương như nhớ.
+ Con hươu thơ ngộ trên áng cỏ sương như biết cất lên câu hỏi không lời.
+ Bờ sông hoang dại và hồn nhiên như một bờ tiền sử, phảng phất nỗi niềm cổ
tích.
Ø Sự tài hoa đã đem lại cho áng văn những trang tuyệt bút.
Ø Tạo dựng nên cả một không gian trữ tình đủ sức khiến người đọc say đắm,
ngất ngây.

=> Sông Đà trữ tình “dòng sông thiếu nữ” : vẻ đẹp yêu kiều hoang dại mà tinh
khôi, mơn mởn, căng tràn nhựa sống
- Thứ vàng của sông Đà và thiên nhiên Tây Bắc là tiềm năng thủy điện và vẻ đẹp
độc đáo, đa dạng của sông Đà
* NHẬN XÉT VỀ “CÁI TÔI” CỦA NGUYỄN TUÂN THỂ HIỆN QUA ĐOẠN
TRÍCH:
+Cái tôi tài hoa, uyên bác: vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào tạo nên
những trang viết hết sức độc đáo và có giá trị nghệ thuật cao.
+Cái tôi với tài năng điêu luyện trong việc sử dụng ngôn từ.
+Cái tôi kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào với
thiên nhiên của quê hương, xứ sở mình.
2. Hình tượng người lái đò
2.1 BỐI CẢNH ÔNG ĐÒ XUẤT HIỆN:
Đó là một không gian của thác ghềnh hiểm trở, của sóng gió cuồn cuộn thét gào
với hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió… một không gian của những
hút nước ghê rợn, những thác đá dữ dằn, hiểm ác, của đá dựng vách thành bí ẩn
thâm nghiêm.
-> nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ, một không gian hào tráng, lớn lao xứng đáng với
sự xuất hiện của người anh hùng sông nước.
2.2 LAI LỊCH VÀ NGOẠI HÌNH NGƯỜI LÁI ĐÒ:
-Quê hương: ngã tư sông sát tỉnh Lai Châu.
- Ông có ngoại hình thật đặc biệt: thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất
mun trông trẻ tráng quá.
- Mười năm trong nghề lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông lão:
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào.

11
+Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng
tượng,
+Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông,
+Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương
mù,
+Bả vai ông có vết củ nâu tròn - dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên
sông nước được Nguyễn Tuân ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
→ nghệ thuật so sánh, hệ thống từ láy gợi hình thể hiện tình cảm trân trọng của
Nguyễn Tuân đối với người lao động. Chính nghề sông nước đã tạo ra vẻ đẹp ngoại
hình như vậy.
-> Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã chạm khắc vào tiềm thức
của người đọc một hình ảnh người lái đò gần gũi với môi trường lao động trên
sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước.
2.3. TÍNH CÁCH, TÀI NĂNG CỦA NGƯỜI LÁI ĐÒ
* Sự từng trải và am hiểu dòng sông:
- Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng
trải, thành thạo trong nghề.
- Sự từng trải của người lái đò còn được thể hiện ở chỗ, dòng sông Đà với bảy
mươi ba con thác và ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả
những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở.
- Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời
nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích
của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và
chiến thắng thiên nhiên hung bạo để tồn tại, lao động và sáng tạo
* Vẻ đẹp trí dũng:
- Nguyễn Tuân đã miêu tả một cuộc vượt thác nguy hiểm và ngoạn mục trong đó
nổi bật sự tương phản giữa một thiên nhiên ác hiểm, hung bạo với con người trí
dũng ngoan cường, đó cũng là trận thủy chiến dữ dội giữa một bên là những trùng
vi thạch trận của đá thác, nước thác cùng sóng gió với một bên là chiếc thuyền đuôi
én mỏng manh và những người lái đò nhỏ bé, đơn độc.
- Ở vòng vây thứ nhất của thạch trận:
Sông Đà
Bố trí năm cửa trận: 4 tử, 1 sinh (tả ngạn)
Đá tiền vệ oai phong lẫm liệt
Nước thác reo hò làm thanh viện
Mặt nước hò la, ùa vào, bẻ gãy…
Sóng nước liều mạng, đá trái, thúc gối, đẩy thuyền lên, túm lấy thắt lưng ông
lái đò, bóp chặt hạ bộ…
Nhân hóa, liên tưởng
Sông Đà dữ dội, hung hãn

12
Ông lái đò
Giữ vững mái chèo
Hai chân kẹp chặt cuống lái
Cố nén vết thương
Chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo
-> Vững vàng, bình tĩnh
• Diễn đạt thành đoạn:
Ở trùng vi thứ nhất, vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ
gãy cán chèo võ khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm
thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi. Trên con thuyền sáu
bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò
thực là một chiễn sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.

- Tới vòng vây thứ hai của thạch trận


Sông Đà
Thêm nhiều cửa tử, cửa sinh duy nhất đổi sang hữu ngạn
Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh
Nước xiết, mạnh, muốn níu kéo con thuyền lọt vào tập đoàn cửa tử
-> Hiểm ác
Ông lái đò
Nắm lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái, phóng nhanh vào của
sinh…
Rảo bơi chèo, đè sấn lên cửa đá, mở đường tiến
Những luồng tử bỏ lại hết sau thuyền
-> Chủ động, bản lĩnh

• Diễn đạt thành đoạn:


Sang trùng vi thứ hai, không một phút ngừng tay nghỉ mắt, ông đò thay đổi
chiến thuật. Rất nham hiểm, xảo quyệt, sông Đà tăng thêm cửa tử, bố trí cửa
sinh lệch sang bên phải để đánh lừa ông lái. Như thú dữ, dòng thác hùm
beo hồng hộc tế mạnh. Bọn thủy quân xô ra định kéo thuyền vào tập đoàn
cửa tử. Với khí thế cưỡi đến cùng như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ông
đò ghì cương bám chắc lấy luồng nước đúng, phóng nhanh vào cửa sinh
mà lái miết một đường chéo. Hành động của ông lão thành thạo, chính xác,
dũng mãnh trong từng động tác, đúng là tay lái ra hoa, điêu luyện của người
nghệ sĩ. Bằng trí dũng, nghị lực kiên cường, người lái đò đã đánh bại dòng
thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh.
- Ở vòng vây cuối,

13
+ sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài
hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá trùng điệp
trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với những
mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngưng nghỉ của sóng dữ.
+ Nhiệm vụ của ông đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng
sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh
“cổng đá” mở giữa những đợt sóng thác dữ dội.
+ Một loạt các động từ trong những câu văn ngắn lại được Nguyễn Tuân huy
động để miêu tả cách đánh của ông đò như phóng, chọc thủng, xuyên qua,
xuyên nhanh,… cho thấy sự thần tốc trong cách đánh nhanh thắng nhanh, thể
hiện sự điêu luyện, khéo léo và sức mạnh của ông đò.
+ Hình ảnh so sánh con thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước vô cùng độc đáo. Con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực
sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng.
• Diễn đạt thành đoạn:
Trùng vi thứ ba ít cửa hơn, nhưng bên phải bên trái đều là cửa tử. Luồng
sống ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Như một lão tướng, dày dạn kinh nghiệm,
dũng cảm, nhanh gọn, dứt khoát, ông đò bình tĩnh tiến vào trận địa, rồi bất
ngờ phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa. Con thuyền như một mũi tên lao vút
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa lái được, lượn được qua cổng đá
cánh mở cánh khép. Thế là qua luồng chết, thế là hết cửa tử, ra đến cửa
sinh,... dòng sông vặn mình vào một bến cát có hang lạnh. Ông đò uy nghi
rạng rỡ trở về từ cõi chết. Ông đã chiến thắng thiên nhiên làm chủ cuộc đời.
Cuối cùng thiên nhiên phải khuất phục dưới sự tài ba và lòng dũng cảm tuyệt
vời của con người.

- Nguyên nhân làm nên chiến thắng: sự ngoan cường, dũng cảm, tài trí, chí quyết
tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh.
Þ Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể
lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm,
tuyệt diệu.
* Vẻ đẹp tài hoa:
- Sự thuần thục trong công việc: vượt qua sóng dữ thác ghềnh mà băng lướt nhịp
nhàng như đang trổ tài những vũ điệu uyển chuyển trên bản giao hưởng của dòng
sông. Để có sự thuần thục tuyệt diệu trong nghề như thế, chắc hẳn người lái đò
phải là người am hiểu sâu sắc về môi trường lao động của mình.
- Sự thăng hoa trong cuộc vượt thác ở trùng vi thạch trận thứ ba: Cứ phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở, cánh
khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Người

14
lái đò bao giờ cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa sinh duy nhất giữa
bát ngát trận đồ cửa tử của những trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn, không bao
giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm dẫu chỉ trong khoảnh khắc, luôn
có thể trình diễn nghệ thuật lái đò điêu luyện của một tay lái ra hoa.
- Phong thái nghệ sĩ – cách nhìn nhận về công việc: Sau khi chiến thắng thiên
nhiên hung bạo, người lái đò lại đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và
toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… chả thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn. Xong trận, lúc
nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan
trong trí nhớ . Thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những
người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi họ coi việc chiến đấu và
chiến thắng sông Đà dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của
ghềnh thác sông Đà chỉ là chuyện thường ngày.
Þ Đánh giá: Đặt nhân vật trong một tình huống thử thách độc đáo, chú
ý khai thác phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của nhân vật bằng hệ thống ngôn ngữ cá
tính, giàu chất tạo hình (phù hợp với quan niệm và phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân), hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân mang trong
mình vẻ đẹp của người dân lao động cần cù, dũng cảm, mưu trí, tài hoa nghệ sĩ
trong cuộc sống bình dị, hi sinh cống hiến thầm lặng cho đất nước.

* ĐÚC KẾT VỀ THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI:


+ Thiên nhiên: vàng; con người lao động: vàng mười à trong cảm xúc thẩm mĩ của
tác giả, con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả.
+ Con người được ví với khối vàng mười quý giá lại chỉ là những ông lái, nhà đò
nghèo khổ, làm lụng âm thầm, giản dị, vô danh.
+ Những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục
thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ, hiện lên như đại diện của Con Người.
Nét độc đáo trong cách khắc hoạ:
Tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ.
Tạo tình huống đầy thử thách để
nhân vật bộc lộ phẩm chất.
Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình.

=>Khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động
vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng
sông hung dữ. Đó chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây
Bắc và của những người lao động nói chung.
*Liên hệ so sánh Người lái đò sông Đà với Chữ người tử tù viết trước cách mạng
ở phương diện khắc họa con người.

15
- Họ có nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau của
lịch sử đất nước. Song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất chiến sĩ vẻ đẹp
thăng hoa của con người trong vị trí xã hội, trong công việc cụ thể khi làm người và
một nét chung nữa, ông đò cũng như ông Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác đầy sáng tạo bất ngờ trong dùng từ, viết câu và
nồng ấm một tình yêu con người.
- Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới: nhưng
con người đáng trân trọng, ngợi ca, khong thuộc tầng lớp đài các vang bóng một
thời mà là những người lao động bình thường-chất vàng mười của Tây Bắc. Qua
đây, nhà văn mốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không chỉ có trong chiến
đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
=> Anh hùng và nghệ sĩ là cái Đẹp ở ông đò mà nhà văn đã tìm kiếm được, không
cần phải đi tìm ở một thời vang bóng xa xôi ( như nhân vật Huấn Cao) mà phát hiện
cái đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại, trong con người bình thường và trong cái nghề
bình thường.

Bài tập 2:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi
lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin,
rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng
một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới
cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả chân trời đá. Đá
ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc
thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô
vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá
nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước
chỗ này.
(Trích Sông Đà -Nguyễn Tuân)
1. Xác định phương thức biểu đạt chính.
2. Nội dung chủ yếu của đoạn văn bản là gì ?
3. Trong đoạn văn trên, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều biện pháp tu từ về từ. Xác định
biểu hiện các phép tu từ đó và nêu tác dụng của hình thức nghệ thuật này là gì ?
4. Đoạn văn bản trên Nguyễn Tuân đã sử dụng tổng hợp tri thức của những ngành
nào ? Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng đó là gì ?

III. Tổng kết:


1. Nội dung: Ngợi ca vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên
nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc

16
2. Nghệ thuật:
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú
vị.
- Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì
chậm rãi, trữ tình…
3. Ý nghĩa
- Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở
miền Tây Bắc của Tổ quốc.
- Thể hiện con người tác giả Nguyễn Tuân:
+ Tình yêu đất nước say đắm, thiết tha.
+ Lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần cù, công phu.
+ Tài hoa, uyên bác trong việc dùng chữ nghĩa.

17

You might also like