You are on page 1of 14

SÔNG ĐÀ KHÁI QUÁT + VÁCH ĐÁ + MẶT GHỀNH

A. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM


1. Tác giả Nguyễn Tuân
 Là một trong những nhà văn lớn của nền văn học VN hiện đại với những
thành tựu xuất sắc ở cả 2 giai đoạn trước và sau CM T8:
+ Trước CM:
+ Sau CM: Ông tìm thấy vẻ đẹp trong cuộc sống lao động đời thường
 Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp: NT đã khám phá thế giới ở
phương diện văn hóa, thâm mĩ, miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ.
 Phong cách nghệ thuật: độc đáo. Trong đó nổi bật là chất tài hoa uyên bác
được gói gọn trong một chữ “ngông”
Đoàn Trọng Quy: “Nguyễn Tuân từng muốn mỗi ngày đều có cái say
của rượu tâm hồn, hi vọng mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”
Quả thật như nhận xét của Đoàn Trọng Quy, tác phẩm của NT để lại
những di âm sâu sắc về trang văn, trang đời như thế!
2. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà”
 Hoàn cảnh sáng tác:
 Là bài tùy bút xuất sắc được in trong tập “Sông Đà” 1960
 “Sông Đà” là thành quả của chuyến đi gian khổ, hào hùng của Nguyễn
Tuân lên miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc những năm 58-60
 Chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khao khát “xê dịch” mà chủ
yếu tìm kiếm “chất vàng” trong vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện ra
thứ “vàng mười đã qua thử lửa” của tâm hồn con người Tây Bắc trong
cuộc sống hàng ngày của họ.
 Tác phẩm “Sông Đà” nói chung và tùy bút “NLĐSĐ” nói riêng tiêu biểu
cho phẩm chất của Nguyễn Tuân: Uyên bác, tài hoa và kho từ vựng
phong phú.
 Lời đề từ: Giúp khái quát về nội dung tác phẩm và ý đồ Nguyễn Tuân
 “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”

+ NT đã mượn câu thơ của nhà thơ CM Ba Lan làm lời đề từ cho tác phẩm,
nhân đó bộc lộ cảm xúc dâng trào mãnh liệt trong lòng.
+ Có thể đây là tiếng hát của người chèo đó kéo thuyền vượt thác 🡪 Tâm
hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của người Tây
Bắc
+ Có thể hiểu đây là tiếng hát say mê, phấn khích đầy ngưỡng mộ của nhà
văn trước vẻ đẹp của dòng sông.
+ Thể hiện được cảm hứng chủ đạo của bài tùy bút: Tình yêu đắm say của
nhà văn với thiên nhiên và con người trên dòng sông Đà.
 “Chúng thủy giai đông tẩu
Đà Giang độc Bắc lưu”
+ Hai câu thơ chữ Hán của Nguyễn Quang Bích đã nêu ra nét độc đáo
của con sông Đà: mọi con sông đều chảy về hướng Đông, duy chỉ có con
sông Đà chảy về hướng Bắc.
+ NT không chỉ hướng người đọc vào vẻ đẹp độc đáo, ngỗ ngược, hung
bạo của con sông Đà mà còn nhằm khẳng định cá tính độc đáo của mình
trong dòng sông văn chương

CÁC DẠNG ĐỀ RA TRONG ĐỀ THI:


2 cụm dạng đề:
1. Hình tượng con sông Đà
 Con sông Đà hung bạo
 Đề 1: Cảnh vách đá hai bên bờ sông
 Đề 2: Mặt ghềnh Hát Loong
 Đề 3: Hút nước
 Đề 4: Thác đá
 Con sông Đà trữ tình:
 Đề 5: Sông Đà giai nhân
 Đề 6: Sông Đà cố nhân
 Đề 7: Sông Đà - Người tình nhân chưa quen biết
2. Hình tượng người lái đò: Đề 8
B. PHÂN TÍCH CHUYÊN SÂU
ĐỀ 1: Cảnh vách đá bờ sông “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có
thác đá… tắt phụt đèn điện”
 Độ cao: “Cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời”
 Hai từ “vách thành” đặc biệt.
+ Nhà văn không sử dụng “ thành quách” hay “thành vách” mà lại sử
dụng từ “vách thành”
+ hai chữ “vách thành” đã gợi lên thành cao, vực thẳm, hào sâu. Nhờ
đó gợi ra sự sừng sững, uy nghiêm, sự sắc nhọn, lởm chởm như thành
quách của đá từ mặt sông vọt lên trời cao.
 “Chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”
+ “lúc đúng ngọ”: thường là từ 12h-1h trưa, khi mà mặt trời lên đến
đỉnh điểm, bóng thu lại mặt đất ngắn nhất.
+ Vách đá bờ sông cao, chỉ khi mặt trời lên đỉnh điểm thì ánh mặt trời
mới có cơ hội để ghé thăm mặt sông. Khẳng định độ cao khôn cùng
của vách đá.
 Nhà văn đã tạo ra được độ cao của vách đá thật cụ thể, tường tận
bằng sự quan sát tỉ mỉ.
 Độ hẹp
 “Có vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu”
+ “chẹt”: gợi ra hình ảnh dòng sông bị đá bóp ngặt lại, tạo nên sự chật
chội như thắt lại đến nghẹt thở.
+ Cho thấy sự bức bội, ngột ngạt như ở chỗ yết hầu.
+ Việc so sánh với cái “yết hầu” càng làm bật lên độ sâu – tối, chật
chội của con sông Đà.
 “Đứng bên này bờ, nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng
con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ bên kia.”
+ Các từ “nhẹ tay ném” và “vọt”: gợi tả sinh động sự nhẹ nhàng không
tốn sức đã ném được, chỉ cần “vọt” một cái đã chễm chệ bên bờ bên
kia.
 Độ sâu
 “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng cảm thấy
lạnh”: Đây là cảm nhận về xúc giác
+ Đó là sự tương phản giữa cái nóng mùa hè và cảm giác thấy lạnh..
Gợi ra độ sâu tối tăm, lạnh lẽo và u ám, đầy bí ẩn.
+ “Lạnh” ở đây vừa là cái lạnh do kk mát mẻ dưới lòng sông, vừa là
cái lạnh gáy, sởn gai ốc vì đi qua đây chẳng khác nào đang đi vào
miệng tử thần, dâng mình cho thủy quái.
 “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”
+ Câu văn tạo ra sự ấn tượng với người đọc về thị giác khi lấy hè phố
để tả mặt sông, lấy nhà cao để gợi vách đá.
+ “tắt phụt” : ánh sáng đột ngột vụt tắt, bóng tối vây bủa, bao trùm,
con người đơn độc, hụt hẫng, chới với giữa hai vách đá rợn ngợp.
 Qua đó, truyền cho người đọc cảm giác tăm tối, lạnh lẽo đột ngột
khi con thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông có vách thành. Cảm
giác như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa
sổ trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Gợi cảm
giác ngun ngút thăm thẳm của vách đá.
2/ Mặt ghềnh Hát Lóong
“Lại như quãng mặt ghềnh Hát Lóong dài hàng cây số”
+ “Lại như” : Tạo ra cảm giác những hiểm nguy như trùng điệp, tiếp nối,
hết hiểm nguy này đến hiểm nguy khác luôn chực chờ, rình rập.
+ Ghềnh: nơi ngay dưới chân thác.
Phần nổi: đá sắc nhọn, lởm chởm, rêu phủ trơn trượt
Phần chìm: nước, không rõ nông sâu, nguy hiểm rình rập.
 Ghềnh thác là nơi thử thách ý chí của con người. Đi qua quãng này là
vô vàn khó khăn, hiểm nguy.
 “dài hàng cây số”:
+ đây là cách ước lượng hóa độ dài, sự không rõ ràng, mơ hồ, càng tô
đậm sự hiểm nguy cho khúc sông này.
+ gợi ra độ dài khủng khiếp, khiến người ta ớn lạnh. Khi vượt qua độ dài
ấy là không biết bao nhiêu hiểm nguy đang rình rập.
“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuồn luồng gió gùn ghè
suốt năm lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào
tóm được qua đấy”
+ Phép điệp động từ “xô” 3 lần, kết hợp cùng nhiều dấu phẩy liên tiếp
tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “xô” : xô đá, xô sóng, xô gió.
+ Câu văn có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc,
những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau để tái hiện lại sự dữ dội,
sinh động đến hung bạo của con sông Đà qua hình ảnh nước, sóng, gió
cuộn trào lên nhau.
+ “cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”
 “cuồn cuộn” gợi từng luồng gió mạnh từng đợt, từng luồng thốc
mạnh vào gào rú.
 “gùn ghè” gợi âm thanh tiếng gió mài vào đá sắc nhọn, khiến tiếng
rít trở nên ghê rợn.
 Mặt nước sông Đà quãng này cuồn cuộn những cơn sóng vút lên, cùng
với gió chồm lên nhau tạo cảm giác ghê rợn và hãi hùng. Tất cả như
đang va đập, xô đẩy vào nhau tạo nên những âm thanh kinh hãi kéo
dài cả hàng cây số. Những âm thanh ấy như vang động, gieo rắc nỗi
sợ hãi cho bao người đi qua khúc sông này.
+ “lúc nào cũng đòi nợ xuýt”: Con Sông Đà không còn vô tri, vô giác,
không chỉ được cảm nhận qua hình ảnh, qua âm thanh mà còn được cảm
nhận ở phương diện nhân hóa. Con Sông Đà trở nên có linh hồn, biết “đòi
nợ xuýt” như một kẻ giang hồ dữ tợn.
 Con sông Đà hung bạo, khủng khiếp, hiểm nguy với bao thách thức
dành cho con người.
 “ Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền
ra”: Đây như một lời cảnh báo cuối cùng cho người lái đò ở quãng sông
này. Lời cảnh báo ấy khiến cho khúc sông càng tăng thêm hiểm nguy, dữ
dội.

Buổi 3: SÔNG ĐÀ (Hút nước và thác đá)


Kiến thức học:
1. Hút nước sông Đà
2. Thác đá sông Đà
Phân tích chuyên sâu
HÚT NƯỚC SÔNG ĐÀ
Luận điểm 1: Hình ảnh
“Lại như quãng Tà Mường Vát phía Sơn La. Trên sông bỗng có
những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống làm móng
cầu”
 Lại như : tiếp tục điệp lại, cho thấy nguy hiểm tiếp nối, chưa buông
tha.
 “bỗng”: gợi cảm giác đột ngột, bất ngờ, ám ảnh,hoang mang.
 Phép so sánh “giếng bê tông”: hình dung khúc sông như miệng con
thủy quái khổng lồ đang há hốc như chực nuốt chửng bất cứ vật gì trôi
qua đó.
“Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh
quạ đàn”,
- từ láy tượng hình “lừ lừ”cùng động từ mạnh “xoáy tít đáy” đã gợi ra
hình ảnh thiên nhiên vô tình, lạnh lùng, ghê rợn.
Luận điểm 2: Âm thanh
“nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”
“nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi”
Những âm thanh ấy đã gợi tả xoáy nước bạo liệt, hiểm độc như một con
quái vật đang trong cơn giận dữ, cuồng loạn, sẵn sàng gieo chết chóc cho
con người.
Luận điểm 3: Cảm giác mạnh mà hút nước mang lại
“thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông y như là ô tô sang
số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài
bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”
 Giữa chốn núi rừng hoang vu, tgia đã thổi vào đó không khí của phô
thị: so sánh chiếc thuyền với ô tô.
 Tả miệng hút nước mà liên tưởng đến “quãng đường mượn cạp ra
ngoài bờ vực”: gợi sự nguy hiểm, sự chông chênh, chơi với. –
 Di chuyển qua hút nước như đang đối diện với nguy hiểm cận kề,
mạng sống “ngàn cân treo sợi tóc”. Thậm chí chiếc thuyền để vượt
qua khúc sông này phải nhanh như “ô tô sang số ấn ga” với các động
từ mạnh như “chèo nhanh, lướt, vút qua, phóng qua..”
“Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây
chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau thì mới thấy tan xác ở khuỳnh sông dưới”.
 Các động từ “lôi tuột”, “hút xuống”, “trồng cây chuối”, “vụt biến”,
“dìm”, “đi ngầm”, “tan xác”: tạo ra sức mạnh hủy diệt, sự bạo liệt,
hung ác của xoáy nước
 Bè gỗ rừng là những chiếc bè rất lớn, nhưng cũng bất lực trước hút
nước sông Đà. Cho thấy hút nước khủng khiếp, hung dữ, mạnh bạo
như thế nào.
Luận điểm 4: Hiệu ứng điện ảnh đặc sắc trong liên tưởng tới anh bạn
quay phim
“Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn
truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái
thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống
đáy cái hút Sông Đà.”
Sự đối lập giữa cảm giác “sợ hãi” trong lòng tác giả và sự “táo tợn”,
“dũng cảm” của “anh quay phim” trong tưởng tượng là sự thể hiện đặc
biệt về cái nhìn trân trọng của nhà văn dành cho những người nghệ sĩ
ở các nền nghệ thuật khác nhau.
Trong ánh nhìn của nhà văn, “anh quay phim” sẵn sàng vì để “truyền cảm
giác lạ cho khán giả” mà không ngại đến hiểm nguy, sẵn sàng “ngồi vào
cái thuyền thúng tròn vành” – một loại thuyền “bé tẹo” , “đan bằng tre
trát sơn đen, tròn lung lủng”, “mỏng manh, như vỏ hạt dẻ” - sẵn sàng xô
ngã bất cứ người nào phớt lờ và hời hợt khi ngồi lên. Vậy mà một anh
quay phim – không phải một ngư phủ hay một cư dân vùng sông nước
lành nghề nào, lại dũng cảm trên chiếc thuyền tròng trành như buổi
trời đất còn hỗn mang.

Khoảnh khắc người quay phim ấy “cho cả thuyền cả mình cả máy quay
xuống đáy cái hút Sông Đà” là một khoảnh khắc kì diêu, một khoảnh
khắc hi sinh vì nghệ thuật, dám đương đầu, dám khám phá, dám dấn
thân.

Để rồi “từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành”, người quay phim
đã nhìn thấy khoảng cách “chênh nhau tới một cột nước cao đến vài
sải”

Trong điệu xoay tít của cái thuyền, của những thước phim màu, “cái máy
lia ngược contre-plongee lên một cái mặt giếng” và nhìn thấy những
mảng màu đẹp nhất, tinh khôi nhất của bọt sóng nối tiếp nhau, một
“thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả
người quay phim cả người đang xem”. Tất cả như vỡ vụn, như tan ra,
làm tan chảy người nhìn ngắm.

Với Sông Đà và câu chuyện về một anh quay phim tưởng tượng, nhà văn
đã hình dung “Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy,
truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân
ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một
cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.”

Từng liên tưởng, so sánh nối tiếp nhau không dứt, Nguyễn Tuân đưa
người đọc khám phá từng cung bậc, không nghỉ ngơi, không lặp lại, chỉ
thấy đầu óc đầy tràn hình ảnh dữ dội trong giây phút ở lòng hút nước của
người quay phim, chỉ thấy ngẩn ngơ với vẻ đẹp ngút ngàn của “khối pha
lê xanh” ẩn giấu sâu trong mỗi hút nước kì bí của Sông Đà.

THÁC ĐÁ: 2 luận điểm


 Luận điểm 1: Khi ở xa
 Âm thanh:
+ “réo gần mãi lại réo xa mãi lên”
Từ “réo” sống động của “con quái vật” thác nước sông Đà. Không dứt
khoát và gãy gọn như hút nước “trồng cây chuối ngược” người khinh
suất, thác đá lại có cách khiến người đi qua phải để ý tới nó, phải
choáng ngợp trước âm thanh mà nó réo rắt con người.
+ . Nó phát ra những âm thanh nghe như đang “oán trách”, “van
xin”, rồi “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”
Biện pháp nhân hóa, con sông Đà như trở nên có linh hồn, trở thành
một con thủy quái thực sự khi mà có những cảm xúc giống con người.
Nhà văn đã nhìn dòng thác như một con người đời thực, có tâm
trạng, có đủ đầy những biểu hiện của một tính cách thất thường.
Bao năm thác đá ở đó, nó hờn oán gì để lại oán trách mỗi khi người đi
qua nó; nó giận dỗi rồi lại nguôi vơi thế nào để rồi chọn cách van xin
tha thứ? Hay cuối cùng, nó lại kiêu hãnh khiêu khích, gằn lên với con
người một cách chế nhạo rằng con người và nó – thác đá – thiên nhiên
mãi đi qua đời nhau mà không đọng chút tình gắn bó. NT nghe thấy
tiếng nó gọi mình, đầy đủ những cung bậc xúc cảm, nghe tiếng lòng
mình cũng rung lên để hồi đáp nó.
+ Nó rống lên: “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá
tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng”
Ta hình dung một cảnh tượng hỗn độn đang xảy ra như những thước
phi hành động ác liệt: Một ngàn con trâu mộng bị kẹt lại trong đám
cháy, rừng xanh trở thành rừng nhuộm lửa đỏ, đốt cháy da từng con
trâu, bùng bùng cùng tiếng tre, nứa nổ giòn tan giữa trời.
Nhà văn lấy âm thanh gợi hình ảnh, lấy lửa tả nước, lấy âm thanh và
hình ảnh gợi lên một khung cảnh sống động trong trí tưởng tượng của
người đọc.
 Nó như một con quái vật ngàn năm tuổi, hung hãn, khủng khiếp,
dữ tợn.
 Luận điểm 2: Khi đến gần
 “Tới cái thác rồi”:
+ câu văn vỏn vẹn bốn chữ, súc tích ngắn gọn nhưng ẩn chứa cả tiếng
reo vang đầy ngỡ ngàng, thích thú
 Nó như chứa cả linh hồn đang run lên vì cái đẹp của nhà văn – một
con người yêu “xê dịch”, yêu đi đây đi đó để khám phá, để kiếm tìm
tất cả vẻ đẹp còn lưu giữ trên đời này
 Hình ảnh:
+“sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”
.thiên nhiên Tây Bắc đã được gói gọn lại trong hình ảnh của sóng, bọt
và đá sông Đà
.Từng cơn sóng được gió giương lên cao, rồi ào ào vỗ xuống mặt đá
mênh mông, tạo nên những đợt bọt sóng “trắng xóa” nối tiếp, chất
chồng lên nhau, khiến cho cả “chân trời đá” cũng mịt mờ sắc trắng.
Hình ảnh liên tưởng đặc biệt “chân trời đá” kết hợp với tính từ “trắng
xóa” đầy ấn tượng được lặp lại nhiều lần đã cho thấy sự hùng vĩ khiến
người ta choáng ngợp của thác đá sông Đà.
+ “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình
như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà
quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoạt sông là
một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền.”
.Những tảng đá lởm chởm ẩn mình trong tối, “mai phục hết trong lòng
sông” cả ngàn năm qua, vẫn luôn chực chờ có chiếc thuyền nào xuất
hiện, “nhô vào đường ngoặt sông” để nhổm dậy, vồ lấy, nuốt chửng
con thuyền và cả những con người bé nhỏ trên đó.
Trong không gian “ầm ầm mà quạnh hiu”, chỉ có tiếng thác nước dội
xuống giữa một vùng rừng núi hoang vu, lạnh lẽo ấy, những tảng đá
nằm dưới lòng sông Đà tưởng như vô tri vô giác phút chốc đã biến
thành những tên tay sai trung thành, dày dặn kinh nghiệm của sông
Đà, nghe lời sai khiến của sông Đà mà núp, mà trốn dưới lòng nước
sâu, mưu tính làm lơi lỏng cảnh giác của con người, để rồi một hơi
bóp chết những sinh mạng sơ suất.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – SÔNG ĐÀ TRỮ TÌNH


Kiến thức: Khám phá qua các góc nhìn, điểm nhìn
 Sông Đà giai nhân (góc nhìn từ trên cao nhìn xuống)
 Sông Đà cố nhân ( góc nhìn từ trong rừng ra)
 Sông Đà như người tình nhân chưa quen biết (góc nhìn khi đi thuyền
theo con sông nhìn sang hai bên bờ)
1. Con sông Đà giai nhân
Luận điểm 1/Hình ảnh con sông Đà vừa hùng vĩ vừa trữ tình.
Câu 1: Câu mở đầu: Cho biết góc nhìn miêu tả dòng sông:
Câu 2: “Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà… vô tội vạ với người lái đò sông
Đà”
 “Cái dây thừng ngoằn ngoèo”: Với nghệ thuật so sánh, nhà văn đã nhìn
con sông giống như sợi dây thừng ngoằn ngoèo.
 Từ láy “ngoằn ngoèo”: kết hợp với việc so sánh với “sợi dây
thừng” đem đến nhiều sức gợi.
 Có thể hình dung: do địa hình TB vô cùng hiểm trở nên sông Đà
không chảy theo một đường thẳng, mà quanh co, gấp khúc, uốn
lượn, vòng vèo, chùng chình giữa những rừng, những núi, những
đồi, tạo thành hình khối và đường nét.
 Khi ấy, nhìn từ trên cao xuống, con sống vừa hùng vĩ mà cũng vừa
gợi cảm, thơ mộng.
 Dáng sông mềm mại, duyên dáng biết bao, khiến nhà văn như có
chút ngỡ ngàng: Đây có phải là con sông suốt đời làm mình làm
mẩy với người TB, đã giận dỗi vô tội vạ ở trên thượng nguồn.
Câu 3: “Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại
Sơn Tinh Thủy Tinh “núi cao….”” : Sông Đà qua cái nhìn mây trời, đã hiện ra
với một phát hiện thật thú vị.
 Phép điệp “không ai trong tàu bay nghĩ rằng” rồi “cũng không ai nghĩ
rằng”: như tiếng reo vui, tự hào của tác giả khi khám phá ra một góc độ
khác về con sông Tây Bắc.
 Không thể ngờ được rằng con sông Đà chính là con sông trong
truyền thuyết nổi tiếng của người Việt.
Mở rộng: Sự hiểu biết ấy đã minh chứng được “Trang văn Nguyễn Tuân vì thế
không chỉ cuồn cuộn dòng thác của sông chữ, mà còn ngồn ngộn kiến thức của
sông đời” (Nguyễn Thùy).
Ta bắt gặp ở đây là kiến thức về: lịch sử, địa lý, văn hóa hội họa, điện ảnh, âm
nhạc
Câu 4: “Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ … dưới chân mình”
 Nhịp điệu câu: Câu văn kéo dài, âm điệu miên man, dạt dào như cái bao
la của trời đất cõi này.
 Từ “Hình như”: mang hơi thở của một câu hỏi tu từ gợi ra cảm giác bâng
khuâng thương nhớ.
 Cụm từ “Đại dương đá”: là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ.
 “Đại dương”: gợi lên sự bát ngát, bao la, rộng lớn
 “Đại dương đá” là cách nói phóng đại mang đến hình dung: ở đây
nhiều đá, miên man, trùng điệp, hùng vĩ, tráng lệ.
 “Lờ lờ bóng mây”: gợi tả hình ảnh mây trôi lững lờ, thong thả.
 Trong cái nhìn từ trên cao, bức tranh thiên nhiên trong cảm nhận của tác
giả là những nét đẹp “quen thuộc” của Tổ quốc bao la, một vẻ đẹp hài
hòa được cộng hưởng từ các đường nét mềm mại của dòng sông “tãi ra”,
sự nhấp nhô của đại dương đá, dòng sông bồng bềnh trong mây trời, lúc
ẩn lúc hiện dưới chân mình
→ Đó quả thực là bức tranh đẹp của htieen nhiên sông Đà phản chiếu qua
một tâm hồn tài hoa, trí tuệ.
Luận điểm 2/ Dưới cái nhìn nhân cách hóa, sông Đà đáng yêu và trữ
tình như một người con gái đẹp - liên tưởng đến áng tóc
 “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng Hai,
và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
 Đánh giá câu văn: Câu văn dài, chỉ có một dấu phẩy duy nhất, kết hợp
với điệp từ “tuôn dài” đem đến ấn tượng về sự liền mạch, bất tận,
miên man của dòng sông.
+ Phép điệp “tuôn dài tuôn dài”: điệp từ tuôn dài 2 lần.; tác giả mở ra
trước mắt người đọc độ dài vô tận, trùng điệp của dòng sông giữa bạt
ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng.
+ Gợi tả con sông Đà, Nguyễn Tuân so sánh, liên tưởng dòng sông như
“áng tóc trữ tình”. : tạo cho người ta sự xuýt xoa trước vẻ đẹp của dòng
sông.
.Người ta thường biết đến “áng thơ”, “áng văn”, nay lại thấy chữ “áng”
gắn với tóc thành “áng tóc trữ tình”.
🡪Vẻ đẹp tinh tế, lặng lẽ mà diễm tuyệt. Bằng cách phối chữ tài tình, độc
đáo, cụm từ ấy dường như ẩn hiện chất thơ dạt dào, vừa đẹp, vừa lạ, vừa
thơ mộng khiến nhà văn không giấu khỏi sự xao xuyến, rung động.
+ đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng Hai
. đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc: Giai nhân Đà giang
như e thẹn, e lệ giấu đi vẻ đẹp kiều diễm của mình trong mây trời Tây
Bắc. “Ẩn hiện”: huyền bí, gây sự tò mò, muốn tìm hiểu đối với người lữ
khách sông Đà.
. bung nở hoa ban, hoa gạo tháng Hai:
“bung nở”: thể hiện sức sống tràn đầy.
“hoa ban hoa gạo” với sắc trắng, sắc đỏ như đang tô điểm thêm cho mái
tóc của Đà Giang.
+ cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
. “cuồn cuộn”: Từ láy “cuồn cuộn” khơi gợi sức sống cùng hoạt động
chăm chỉ của người dân nơi đây.
Luận điểm 3: Sắc nước: 4 ý (cảm xúc khi nhìn màu nước, tình yêu của nhà
văn; sắc nước mùa xuân; sắc nước mùa thu và cuối cùng là kết lại màu
nước không đen)
 “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên
qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà.”
+ say sưa: khi ta thích thì chỉ đơn thuần là nhìn ngắm trong giây phút,
còn khi ta say sưa là ta có thể đắm nhìn vào đó mãi với tình yêu khôn
nguôi
+ xuyên qua đám mây mùa thu: khao khát đến với dòng sông bằng một
tình yêu vô bờ
 Màu nước mùa xuân: “Mùa xuân, nước sông xanh màu xanh ngọc bích
chứ không xanh màu xanh canh hến như nước sông Gâm, sông Lô”
+ Nhà văn đã vận dụng vốn tri thức uyên bác, sự hiểu biết về hai dòng
sông khác để miêu tả màu nước sông Đà.
+ Màu xanh ngọc bích: Là màu xanh trong, xanh sáng, xanh tươi mát và
hiền hòa
 Bình về màu xanh trong văn chương, trong suy nghĩ của người
phương Đông
 Màu xanh thường tượng trưng cho gì?
 Liên hệ về màu xanh
 Màu nước mùa thu: “Mùa thu, nước sông lừ lừ chín đỏ như mặt một
người bầm đi vì rượu bữa…”
+ Con sông như có tâm trạng, như có linh hồn, có tính cách như một con
người thực sự. Biết giận giữ, và tính cách thay đổi theo mùa.
+ Màu đỏ của sông Đà vào mùa thu còn gợi cho người ta đến dòng sông
chở nặng phù sa, quanh năm chuyên chở cung cấp cho đồng bằng.
+ Màu nước sông Đà vào mùa thu còn thể hiện cái tính cách thất thường,
cho thấy phần nào sự hung dữ, hung bạo “năm năm báo oán đời đời đánh
ghen” mà nó luôn mang trong minh
 Nước sông Đà biến đổi theo mùa, chứ không bao giờ đen như thực dân
Pháp đã đè ngửa con sông ra mà đổ mực Tây vào và gọi bằng cái tên Tây
láo lếu.

2. Sông Đà cố nhân
- “Con sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách”:
+ Cảm nhận đầu tiên mở ra một cách nhìn đẹp: sông Đà có sức hút riêng, mỗi con
người sẽ thấy những vẻ đẹp khách nhau mà thiên nhiên sông Đà mang lại.
+ Hai chữ “gợi cảm”: gợi ra vẻ đẹp quyến rũ, sức cuốn hút riêng của dòng sông.
- “Đã có lần tôi nhìn sông Đà như một cố nhân”: Đối với NT, sông Đà như một “cố
nhân”
+ “Cố nhân”: là người bạn cũ, người tri âm, tri kỉ lâu ngày chưa gặp
+ Chỉ hai chữ “cố nhân”: mà gợi lên, mà chất chứa biết bao nỗi niềm nhung nhớ, yêu
thương nhà văn dành cho sông Đà trong suốt những tháng ngày xa cách. Và lần này,
đã tuôn trào đầy nghẹn nào cảm xúc trong giây phút gặp lại.
- “Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương
vào mắt mình rồi bỏ chạy”
+ Lần này, sông Đà không hiện lên qua âm thanh hung dữ, ầm ầm nữa mà qua một
cảm nhận thị giác. Bằng thị giác, nhà văn nhìn thấy nắng trên sông “loang loáng” như
“trẻ con cầm gương chiếu vào mắt người lớn rồi bỏ chạy”.
+ Từ láy “loang loáng”: gợi ra hình ảnh nắng chiếu lấp lánh, long lanh, lung linh
+ Dường như sông Đà đã đón người bạn cũ NT bằng cái nắng ấm áp và lấp lánh niềm
vui.
- Nắng đẹp khiến nhà văn say đắm liên tưởng: miếng sáng ấy trên sông lóe lên một
màu nắng tháng ba Đường thi: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”
+ Động từ “lóe”: làm hình ảnh dòng sông hiện lên sống động. Chữ “lóe” gợi ra ánh
nắng bất ngờ, chói chang và ấm áp.
+ Cách liên tưởng “màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”:
Mang đến cảm giác vừa gần vừa xa, vừa thực vừa mộng, vừa cổ kính lại có phần hiện
đại.
Nhà văn thông qua việc mượn câu thơ Đường với vẻ đẹp hoa khói mùa xuân huyền
ảo, mơ màng, bình yên, thơ mộng trong ý thơ của Lý Bạch
Tác giả cũng như đưa người đọc đắm chìm trong vẻ đẹp ấm áp, trong sáng, mộng mơ,
nên thơ của sông Đà.
 Cảm giác mà sông Đà mang lại khiến cho người đọc như cảm thấy mình đang
lạc vào một chốn sơn thủy hữu tình của trăm năm về trước trong cõi Đường thi
xa xăm phồn thịnh.
- Thị giác của nhà văn còn bắt gặp bên dòng sông ấy sức sống đang dạt dào với “bờ
sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà”
+ Câu văn sử dụng phép điệp từ “Sông Đà”, phép liệt kê: bờ, bãi, chuồn chuồn, bươm
bướm… làm sông Đà hiện lên với cảnh vật sinh động, phong phú, đa dạng, sức sống
hoang dại mà mãnh liệt.
- Gặp lại sông Đà, nhà văn nhận ra: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn
tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
+ Từ cảm thán “chao ôi”: như tiếng thốt, như sự xuýt xoa, vỡ òa bởi hạnh phúc vô bờ
khi gặp lại cố nhân.
+ Vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm: Ba chữ “nắng giòn tan” là một ẩn dụ
đẹp, gợi cho ta cảm nhận đẹp về cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và nhẹ,
mong manh quý giá vô cùng, trái ngược hoàn toàn với cái âm u trĩu nặng của những kì
mưa dầm tầm tã.
Còn gì vui, hạnh phúc hơn sau mùa đông kéo dài u ám bỗng một ngày gặp “nắng giòn
tan”
Cách so sánh này giúp người đọc nhận ra cảm giác lâng lâng, sảng khoái của nhà văn
khi gặp lại dòng sông
+ Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng:
 Điệp ngữ “vui như” lặp lại hai lần như nhân lên bội phần niềm hạnh phúc.
 Còn gì vui hơn khi giấc mơ đang đẹp bỗng đứt quãng rồi lại được “nối lại
chiêm bao”
 Cách so sánh rất độc đáo gợi ra một dòng sông có linh hồn, có tính cách mang
vẻ đẹp chiều sâu. Con sông trong cái nhìn nhân cách hóa giống như một người
bạn chung thủy, mãi chờ đợi người đi xa trở về.
 “Câu cuối- phần còn lại”: Thông qua xúc giác, nhà văn cảm nhận con sông
“Đằm đằm ấm ấm” – tính cách con sông Đà…. Qua đó thấy sông Đà như một
con người thực sự, như một người bạn cũ thực sự. Và dường như có sự sống,
tính cách, thật sự, sức sống thật sự.
 NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
 3. Con sông Đà như người tình nhân chưa quen biết
 a) Mở đầu đoạn văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”
 - Đây là một câu văn rất đặc biệt, có sáu chữ đều là thanh bằng gợi cảm giác
êm đềm, thanh bình của dòng sông quê hương xứ sở
 - Từ câu văn mở đầu ấy, nó đã trở thành điệp khúc lặp lại ba lần trong một
đoạn văn rất ngắn. Sự lặp lại này nói lên sự hiền hòa, thanh bình yên ả của một
dòng sông như cổ tích tuổi xưa. Có lúc tác giả dùng cụm từ “Thuyền tôi trôi
trên”, khi thì là “thuyền tôi trôi qua”. Con thuyền của nhà văn NT đã đưa người
đọc quan sát cận cảnh sự sống ở ven hai bờ sông Đà.
 - Đoạn văn như một thước phim tư liệu quay cận cảnh những gì đẹp nhất, thanh
bình nhất của dòng sông Đà. Chính cái ống kính đó được cảm nhận qua đôi mắt
tài hoa, uyên bác, độc đáo. Cảnh sắc đó một lần nữa được sống lại trong trang
văn đầy chất thơ của NT để rồi nó xanh mãi với thời gian.
 b) Vẻ đẹp tĩnh lặng, theo thời gian, không gian mang ý vị cổ xưa. Yên ả và
thanh bình.
 “Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi”
 - “Hình như” Mang sắc thái nghi vấn gợi lên bao nỗi niềm bâng khuâng,
thương nhớ.
 Nghệ thuật, đánh giá CHUNG CHO CẢ SÔNG ĐÀ TRỮ TÌNH (Vận
dụng nhé)
 Với một người dành cả đời để đi tìm cái đẹp, cái thật như NT, sông Đà
chính là biểu tượng xuất sắc cho những giá trị thẩm mĩ mà ông hướng tới.
Qua ngòi bút tài hoa và uyên bác của mình, nhà văn đã khắc họa lại hình
ảnh con sông Đà không hề vô tri vô giác mà có những cá tính đặc sắc,
đậm chất “con người”. Bằng những giọng văn nhẹ nhàng, ngôn từ mềm
mại, tinh tế, nhà văn làm nổi bật vẻ dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ của
sông Đà. Cùng với đó, phép so sánh liên tưởng độc đáo, mới lạ kết hợp
những hình ảnh giàu giá trị biểu cảm và phép nhân hóa giàu chất thơ
khiến người đọc như chìm vào bức tranh hồn nhiên, thanh bình, hoang sơ,
tinh khiết của dòng sông. Tài năng của “bậc thầy ngôn ngữ” ấy phải
chăng phần nào đang tô điểm cho cảnh quang non sông đất nước. Miêu tả
sông đà như một kí sự đặc biệt, đằng sau sự say mê mãnh liệt còn là tình
yêu Tổ quốc, yêu thiên nhiên da diết của Nguyễn Tuân.

You might also like