Professional Documents
Culture Documents
NLĐSĐ
NLĐSĐ
+ NT đã mượn câu thơ của nhà thơ CM Ba Lan làm lời đề từ cho tác phẩm,
nhân đó bộc lộ cảm xúc dâng trào mãnh liệt trong lòng.
+ Có thể đây là tiếng hát của người chèo đó kéo thuyền vượt thác 🡪 Tâm
hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của người Tây
Bắc
+ Có thể hiểu đây là tiếng hát say mê, phấn khích đầy ngưỡng mộ của nhà
văn trước vẻ đẹp của dòng sông.
+ Thể hiện được cảm hứng chủ đạo của bài tùy bút: Tình yêu đắm say của
nhà văn với thiên nhiên và con người trên dòng sông Đà.
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà Giang độc Bắc lưu”
+ Hai câu thơ chữ Hán của Nguyễn Quang Bích đã nêu ra nét độc đáo
của con sông Đà: mọi con sông đều chảy về hướng Đông, duy chỉ có con
sông Đà chảy về hướng Bắc.
+ NT không chỉ hướng người đọc vào vẻ đẹp độc đáo, ngỗ ngược, hung
bạo của con sông Đà mà còn nhằm khẳng định cá tính độc đáo của mình
trong dòng sông văn chương
Khoảnh khắc người quay phim ấy “cho cả thuyền cả mình cả máy quay
xuống đáy cái hút Sông Đà” là một khoảnh khắc kì diêu, một khoảnh
khắc hi sinh vì nghệ thuật, dám đương đầu, dám khám phá, dám dấn
thân.
Để rồi “từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành”, người quay phim
đã nhìn thấy khoảng cách “chênh nhau tới một cột nước cao đến vài
sải”
Trong điệu xoay tít của cái thuyền, của những thước phim màu, “cái máy
lia ngược contre-plongee lên một cái mặt giếng” và nhìn thấy những
mảng màu đẹp nhất, tinh khôi nhất của bọt sóng nối tiếp nhau, một
“thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả
người quay phim cả người đang xem”. Tất cả như vỡ vụn, như tan ra,
làm tan chảy người nhìn ngắm.
Với Sông Đà và câu chuyện về một anh quay phim tưởng tượng, nhà văn
đã hình dung “Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy,
truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân
ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một
cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.”
Từng liên tưởng, so sánh nối tiếp nhau không dứt, Nguyễn Tuân đưa
người đọc khám phá từng cung bậc, không nghỉ ngơi, không lặp lại, chỉ
thấy đầu óc đầy tràn hình ảnh dữ dội trong giây phút ở lòng hút nước của
người quay phim, chỉ thấy ngẩn ngơ với vẻ đẹp ngút ngàn của “khối pha
lê xanh” ẩn giấu sâu trong mỗi hút nước kì bí của Sông Đà.
2. Sông Đà cố nhân
- “Con sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách”:
+ Cảm nhận đầu tiên mở ra một cách nhìn đẹp: sông Đà có sức hút riêng, mỗi con
người sẽ thấy những vẻ đẹp khách nhau mà thiên nhiên sông Đà mang lại.
+ Hai chữ “gợi cảm”: gợi ra vẻ đẹp quyến rũ, sức cuốn hút riêng của dòng sông.
- “Đã có lần tôi nhìn sông Đà như một cố nhân”: Đối với NT, sông Đà như một “cố
nhân”
+ “Cố nhân”: là người bạn cũ, người tri âm, tri kỉ lâu ngày chưa gặp
+ Chỉ hai chữ “cố nhân”: mà gợi lên, mà chất chứa biết bao nỗi niềm nhung nhớ, yêu
thương nhà văn dành cho sông Đà trong suốt những tháng ngày xa cách. Và lần này,
đã tuôn trào đầy nghẹn nào cảm xúc trong giây phút gặp lại.
- “Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương
vào mắt mình rồi bỏ chạy”
+ Lần này, sông Đà không hiện lên qua âm thanh hung dữ, ầm ầm nữa mà qua một
cảm nhận thị giác. Bằng thị giác, nhà văn nhìn thấy nắng trên sông “loang loáng” như
“trẻ con cầm gương chiếu vào mắt người lớn rồi bỏ chạy”.
+ Từ láy “loang loáng”: gợi ra hình ảnh nắng chiếu lấp lánh, long lanh, lung linh
+ Dường như sông Đà đã đón người bạn cũ NT bằng cái nắng ấm áp và lấp lánh niềm
vui.
- Nắng đẹp khiến nhà văn say đắm liên tưởng: miếng sáng ấy trên sông lóe lên một
màu nắng tháng ba Đường thi: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”
+ Động từ “lóe”: làm hình ảnh dòng sông hiện lên sống động. Chữ “lóe” gợi ra ánh
nắng bất ngờ, chói chang và ấm áp.
+ Cách liên tưởng “màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”:
Mang đến cảm giác vừa gần vừa xa, vừa thực vừa mộng, vừa cổ kính lại có phần hiện
đại.
Nhà văn thông qua việc mượn câu thơ Đường với vẻ đẹp hoa khói mùa xuân huyền
ảo, mơ màng, bình yên, thơ mộng trong ý thơ của Lý Bạch
Tác giả cũng như đưa người đọc đắm chìm trong vẻ đẹp ấm áp, trong sáng, mộng mơ,
nên thơ của sông Đà.
Cảm giác mà sông Đà mang lại khiến cho người đọc như cảm thấy mình đang
lạc vào một chốn sơn thủy hữu tình của trăm năm về trước trong cõi Đường thi
xa xăm phồn thịnh.
- Thị giác của nhà văn còn bắt gặp bên dòng sông ấy sức sống đang dạt dào với “bờ
sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà”
+ Câu văn sử dụng phép điệp từ “Sông Đà”, phép liệt kê: bờ, bãi, chuồn chuồn, bươm
bướm… làm sông Đà hiện lên với cảnh vật sinh động, phong phú, đa dạng, sức sống
hoang dại mà mãnh liệt.
- Gặp lại sông Đà, nhà văn nhận ra: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn
tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
+ Từ cảm thán “chao ôi”: như tiếng thốt, như sự xuýt xoa, vỡ òa bởi hạnh phúc vô bờ
khi gặp lại cố nhân.
+ Vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm: Ba chữ “nắng giòn tan” là một ẩn dụ
đẹp, gợi cho ta cảm nhận đẹp về cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và nhẹ,
mong manh quý giá vô cùng, trái ngược hoàn toàn với cái âm u trĩu nặng của những kì
mưa dầm tầm tã.
Còn gì vui, hạnh phúc hơn sau mùa đông kéo dài u ám bỗng một ngày gặp “nắng giòn
tan”
Cách so sánh này giúp người đọc nhận ra cảm giác lâng lâng, sảng khoái của nhà văn
khi gặp lại dòng sông
+ Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng:
Điệp ngữ “vui như” lặp lại hai lần như nhân lên bội phần niềm hạnh phúc.
Còn gì vui hơn khi giấc mơ đang đẹp bỗng đứt quãng rồi lại được “nối lại
chiêm bao”
Cách so sánh rất độc đáo gợi ra một dòng sông có linh hồn, có tính cách mang
vẻ đẹp chiều sâu. Con sông trong cái nhìn nhân cách hóa giống như một người
bạn chung thủy, mãi chờ đợi người đi xa trở về.
“Câu cuối- phần còn lại”: Thông qua xúc giác, nhà văn cảm nhận con sông
“Đằm đằm ấm ấm” – tính cách con sông Đà…. Qua đó thấy sông Đà như một
con người thực sự, như một người bạn cũ thực sự. Và dường như có sự sống,
tính cách, thật sự, sức sống thật sự.
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
3. Con sông Đà như người tình nhân chưa quen biết
a) Mở đầu đoạn văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”
- Đây là một câu văn rất đặc biệt, có sáu chữ đều là thanh bằng gợi cảm giác
êm đềm, thanh bình của dòng sông quê hương xứ sở
- Từ câu văn mở đầu ấy, nó đã trở thành điệp khúc lặp lại ba lần trong một
đoạn văn rất ngắn. Sự lặp lại này nói lên sự hiền hòa, thanh bình yên ả của một
dòng sông như cổ tích tuổi xưa. Có lúc tác giả dùng cụm từ “Thuyền tôi trôi
trên”, khi thì là “thuyền tôi trôi qua”. Con thuyền của nhà văn NT đã đưa người
đọc quan sát cận cảnh sự sống ở ven hai bờ sông Đà.
- Đoạn văn như một thước phim tư liệu quay cận cảnh những gì đẹp nhất, thanh
bình nhất của dòng sông Đà. Chính cái ống kính đó được cảm nhận qua đôi mắt
tài hoa, uyên bác, độc đáo. Cảnh sắc đó một lần nữa được sống lại trong trang
văn đầy chất thơ của NT để rồi nó xanh mãi với thời gian.
b) Vẻ đẹp tĩnh lặng, theo thời gian, không gian mang ý vị cổ xưa. Yên ả và
thanh bình.
“Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi”
- “Hình như” Mang sắc thái nghi vấn gợi lên bao nỗi niềm bâng khuâng,
thương nhớ.
Nghệ thuật, đánh giá CHUNG CHO CẢ SÔNG ĐÀ TRỮ TÌNH (Vận
dụng nhé)
Với một người dành cả đời để đi tìm cái đẹp, cái thật như NT, sông Đà
chính là biểu tượng xuất sắc cho những giá trị thẩm mĩ mà ông hướng tới.
Qua ngòi bút tài hoa và uyên bác của mình, nhà văn đã khắc họa lại hình
ảnh con sông Đà không hề vô tri vô giác mà có những cá tính đặc sắc,
đậm chất “con người”. Bằng những giọng văn nhẹ nhàng, ngôn từ mềm
mại, tinh tế, nhà văn làm nổi bật vẻ dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ của
sông Đà. Cùng với đó, phép so sánh liên tưởng độc đáo, mới lạ kết hợp
những hình ảnh giàu giá trị biểu cảm và phép nhân hóa giàu chất thơ
khiến người đọc như chìm vào bức tranh hồn nhiên, thanh bình, hoang sơ,
tinh khiết của dòng sông. Tài năng của “bậc thầy ngôn ngữ” ấy phải
chăng phần nào đang tô điểm cho cảnh quang non sông đất nước. Miêu tả
sông đà như một kí sự đặc biệt, đằng sau sự say mê mãnh liệt còn là tình
yêu Tổ quốc, yêu thiên nhiên da diết của Nguyễn Tuân.