Professional Documents
Culture Documents
Sông Đà Trư NG
Sông Đà Trư NG
- Trước Cách mạng: Cái đẹp của một thời “vang bóng”.
- Sau Cách mạng: Tìm kiếm cái đẹp ở cuộc sống đương thời và con người lao
động đời thường.
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
+ Sở trường về Tùy bút => góp phần đưa thể loại này lên đỉnh cao.
+ Hiểu biết sâu rộng, uyên bác đem đến lượng thông tin phong phú, đa
dạng trên mỗi trang văn.
+ Ngôn từ trau chuốt, gọt giũa công phu, điêu luyện với kho chữ nghĩa
phong phú đồng thời sáng tạo từ mới.
2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ:
• Xuôi theo thủy trình : thượng nguồn - hạ lưu => cảm nhận những vẻ
đẹp khác nhau.
• Nhân cách hóa dòng sông => nhân vật có tính cách, tâm trạng phức tạp:
vừa hung bạo, hiểm ác; vừa trữ tình, nữ tính.
b) Vẻ đẹp của sông Đà Hùng vĩ, dữ dội, hiểm ác
ĐÁ BỜ SÔNG
THÁC NƯỚC
- mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời.
+ Tả độ hẹp của lòng sông qua hình ảnh so sánh độc đáo
+ Lấy hè phố để gợi ra lòng sông, lấy nhà cao để gợi ra vách đá.
+ Hình ảnh so sánh độc đáo: tăng thêm ấn tượng về độ cao của vách đá
qua cái nhìn chới với của thị giác.
Mặt ghềnh Hát Loóng
“Lại qua quãng mặt ghềnh Hát Lóong dài hàng ngàn cây số.
Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn gùn ghè suốt năm
như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua đây”
• Mặt ghềnh Hát Loóng
- “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” => Hình thức điệp cú pháp liên hồi:
+ nước – đá – sóng : xô đẩy, va đập vào nhau => âm thanh hãi hùng
- “cuồn cuộn gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua
đây”.
+ Từ láy “gùn ghè” (sáng tạo ngôn từc): sự lì lợm, thách đố, đe dọa của
dòng sông.
+ Hình ảnh so sánh mang sắc thái nhân hóa : S.Đà hung hãn hơn trong
sức mạnh vô lí của nó.
• Những cái hút nước ở Tà Mường Vát:
- So sánh “giếng bê tông”: hút nước lớn, sâu hoắm.
- Âm thanh rùng rợn, kinh hãi: nước ở đây thở và kêu “ặc ặc như cửa cống
cái bị sặc, như vừa rót dầu sôi vào”
• Những cái hút nước ở Tà Mường Vát:
- So sánh chiếc thuyền với ô tô, đoạn sông có những cái hút nước với “quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.
+ Câu văn trùng điệp + nhịp văn ngắn, dồn dập, căng thẳng
+ Những từ ngữ cực tả trạng thái : “rống, lồng lộn, nổ lửa, phá toang,
gầm thét…”
=> Cảnh hỗn loạn của đàn trâu mộng đang bỏ chạy tìm lối thoát giữa
biển lửa trong không khí quay cuồng, bỏng rát như trận động đất.
• Những thác nước:
+ Câu văn đầy ắp những hình ảnh dữ dội => lấy rừng để tả sông, dùng lửa
để tả nước – 2 sự vật vốn tương phản nhau.
Hiệp sức lại tạo nên binh hùng tướng mạnh, lũ giặc
hung hăng, mưu mô
- Đá mai phục sẵn => nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền.
- Mỗi hòn mang diện mạo khác nhau nhưng
đều nham hiểm.
=> Con sông vô cùng nham hiểm, xảo quyệt, là thứ kẻ thù số 1 của con người.
=> Huy động tri thức thể thao, võ thuật, quân sự, bóng đá… + những liên
tưởng, so sánh, nhân hóa + câu văn dài ngắn, đan xen đầy tính tạo hình.
Vẻ thơ mộng, trữ tình, nữ tính:
• Dây thừng ngoằn ngoèo
- S.Đà uốn lượn, quanh co, vòng vèo tạo nên đường nét => hùng vĩ + gợi cảm
- Câu văn dài, chỉ có 1 dấu ngắt duy nhất + điệp ngữ “tuôn dài”: gợi tả
sinh động độ dài bất tận của dòng sông.
- Câu văn là lớp lớp hình ảnh vừa chồng chất vừa bao gộp vào nhau nhờ
vào các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa.
+ Vẻ đẹp mềm mại, thướt tha, kiều diễm như người con gái khi được
liên tưởng với “áng tóc trữ tình”.
+ Nhận thêm vào dòng chảy : nét thơ mộng, huyền ảo của “mây trời
Tây Bắc”, sự tươi tắn, rực rỡ của “hoa ban, hoa gạo” và cái ấm áp,
gần gũi của “mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
- Sắc nước với những đổi thay kì diệu qua mùa xuân và mùa thu.
+ So sánh “xanh màu ngọc bích” của sông Đà không phải là màu xanh
canh hến của sông Lô, sông Gâm.
+ Màu đỏ phù sa nồng nàn, đằm thắm => tô điểm thêm cho vẻ thơ mộng.
- Còn khẳng định: “Chưa hề bao giờ thấy dòng sông Đà đen như TD
Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tàu vào”
- Gặp lại dòng sông, nhìn thấy nắng trên sông “loang loáng như trẻ con
nghích chiếu gương vào mắt”.
- Ngày tái ngộ, niềm vui vỡ òa “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”,
niềm hạnh phúc ấy hiếm hoi như thể “nối lại giấc chiêm bao đứt quãng”.
- Hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ: “Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
- Không gian tràn ngập sắc xanh : “Nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu
mùa. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
- “Khát thèm” một âm vang của thời đại: “thấy thèm được giật mình vì một
tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái
– Lai Châu’’.
- “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi
sương?”.
=> “Tiếng còi sương” : âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước
vọng được hòa vào không khí hồ hởi xây dựng cuộc sống mới ở Tây Bắc.
• Dòng sông trôi đi với bao thương nhớ
- Đưa vào câu thơ của Tản Đà : “ Dải sông Đà bọt nước lên đênh - Bao
nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”
+ Dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người khi con sông được
ví “như người tình nhân chưa quen biết”.
- Nhân cách hóa dòng sông “nhớ thương hòn đá thác” đang “lắng nghe
giọng nói êm êm của người xuôi”
=> NT như đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc sống.
KẾT LUẬN:
• Dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của NT vẻ đẹp hoang dại mà thơ mộng,
bí hiểm mà diễm lệ của dòng sông mới thực sự hiện ra nổi hình, nổi sắc,
mới trở nên có hồn.
• Qua việc ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp sông Đà – “chất vàng mười” của thiên
nhiên Tây Bắc, nhà văn đã thể hiện được sự gắn bó, niềm tự hào và
tình yêu dành cho quê hương đất nước.
2. HÌNH TƯỢNG ÔNG LÁI ĐÒ
a) Giới thiệu chung về ông lái đò:
b1. Giàu kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về từng ngõ ngách trên S.Đà:
“Ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã
thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi cửa ải nước” .
- Gắn bó cả cuộc đời mình với vùng sông nước => dày dặn kinh
nghiệm.
- Nhớ tỉ mỉ từng vị trí sắp đặt của đá, từng luồng nước của tất cả
những con thác hiểm trở .
b) Vẻ đẹp phẩm chất:
b2. Trí dũng song toàn như một vị tướng tài ba, lão luyện trong nghệ
thuật cầm quân:
• Cuộc thủy chiến khốc liệt để giành lấy sự sống => tôi luyện thêm sự
tài trí, dũng cảm và tài hoa, lão luyện ở ông đò.
• Tập trung miêu tả cuộc vượt thác của “người anh hùng sông nước”
vượt qua 3 vòng vây một cách ngoạn mục:
Vòng vây 1:
• Con sông tấn công liên tục, phủ đầu => ông đò hoàn toàn bị động, ko
kịp trở tay mà chỉ có thể phòng ngự.
• Chúng “tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác”
=> uy hiếp tinh thần đối thủ + mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một
cửa sinh duy nhất, nằm lập lờ phía tả ngạn sông.
• Từ thế bị động chuyển sang chủ động tấn công. Cuộc chiến khó khăn,
kịch tính hơn nhưng ko làm ông nao núng.
• Chúng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào + đổi luôn
vị trí phục kích khi cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn =>
ko thể làm khó ông đò.
• Ông nhận ra : “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ”.
• Dòng thác “đang hồng hộc tế mạnh” => nước phóng nhanh tạo ra
dòng chảy xiết.
Vòng vây 2:
• Như một dũng tướng tài ba tả xung hữu đột : “nắm chắc bờm
sóng…ghì cương lái…phóng nhanh vào cửa sinh” với tốc độ mau lẹ
• Nó xua “bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái xô ra định níu chiếc
thuyền vào tập đoàn cửa tử” => Ông “nhớ mặt từng đứa” đưa ra cách
ứng phó linh hoạt, uyển chuyển: “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo
lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”
=> Đánh sập được vòng vây 2, khiến chúng thua cuộc với vẻ mặt “tiu
nghỉu, xanh lè, thất vọng”.
Vòng vây 3:
• Con sông càng tỏ rõ sự nguy hiểm, thâm độc khi tạo ra thế trận “tiến
thoái lưỡng nan” => ông đò khó lòng xoay sở bởi bên trái, bên phải
đều là luồng chết.
=> Ông đò nhận thấy không còn cách nào khác, chỉ có thể “phóng
thẳng thuyền, chọc thủng luồng sinh duy nhất ở ngay bọn đá hậu vệ
đang trấn giữ”.
Vòng vây 3:
• Dùng chiến thuật “đánh thần tốc”, biến chiếc thuyền sáu bơi chèo
thành “mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”, còn ông giống như
một cung thủ.
=> Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp như bay trong làn hơi
nước được miêu tả trong những câu văn ngắn + động từ, danh từ nối
tiếp: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng” => sự điêu
luyện của ông đò.
• Tốc độ phi thường của con thuyền + bàn tay khéo léo “vừa lái vừa
xuyên, vừa lượn được” của một “tay lái ra hoa” đã giúp ông đò
vượt qua vòng vây một cách phi thường.
b3. Con người tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
“Nhà đò dừng chân trong một hang núi, đốt lửa, nướng ống cơm lam”
• Người lái đò hiện lên với tư thế kì vĩ và mang vẻ đẹp tráng lệ, anh
dũng => bản “anh hùng ca” về con người lao động bình thường mà
rất đỗi phi thường.
• “Củ nâu” (vết thâm) để lại trên ngực ông lái đò được NT ví như “tấm
huy chương siêu hạng” mà thiên nhiên đã ban tặng cho người anh
hùng trên sông nước.
• Quan niệm mới về chủ nghĩa anh hùng: không chỉ có trong công cuộc
chiến đấu bảo vệ tổ quốc mà họ còn là những con người vô danh đang
âm thầm góp sức mình vào công cuộc kiến thiết đất nước.