You are on page 1of 12

Người lái đò Sông Đà

Nguyễn Tuân
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
(“Đất Nước” – Nguyễn Khoa Điềm)
Chẳng biết từ khi nào, những dòng sông đã trở thành sợi thương, sợi nhớ, nhân lên thành tình
yêu trong trái tim những người nghệ sĩ. Để rồi tình yêu ấy gợi tình, gợi nhạc cho những câu hát,
là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng những vần thơ, là làn gió ấm thổi vào từng áng văn chương.
Và Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ chân chính “suốt đời đi tìm cái đẹp” một cách nghiêm túc và
khó tính cũng bị “đắm say” trước vẻ đẹp của dòng Đà giang, để rồi không kìm được lòng mà viết
nên tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. Viết về một dòng sông nhưng trong áng văn của Nguyễn
Tuân, là một dòng sông có linh hồn với những tính cách trái ngược. Vẻ đẹp hung bạo/trữ tình
của dòng sông được thể hiện rõ nhất qua đoạn văn “…………”. Đặc biệt qua đoạn trích, lòng yêu
nước và tinh thần dân tộc, gắn bó tha thiết với những giá trị cổ truyền cùng phong cách nghệ
thuật độc đáo: uyên bác và tài hoa của nhà văn sẽ được bộc lộ.
“Người lài đò Sông Đà” là tùy bút xuất sắc cuả Nguyễn Tuân được in trong tập “Sông Đà” vào
năm 1960. “Sông Đà” là thành quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên
miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 - 1960. Chuyến đi không chỉ nhằm thỏa
mãn khát khao xê dịch, mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của
thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc
trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Trong toàn bộ bài tùy bút, Nguyễn Tuân tả Sông Đà rất độc đáo. Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh
Đông, tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, mang tên khai sinh là Li Tiên. Trong dư địa chí của Nguyễn
Trãi, Sông Đà còn có tên là Bả Biên Giang. Dòng sông có chiều dài toàn thân khoảng 910 -
983km. Dòng sông ấy chảy vòng vèo qua một miền núi ác cuối cùng xin nhập quốc tịch Việt
Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là thiên nhiên vô tri vô giác
mà đã trở thành một nhân vật thật sự bởi có tính cách, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp:
lúc thì hung bạo, lúc thì rất trữ tình: “Sông Đà lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc
chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.”
 VẺ ĐẸP HUNG BẠO
 Vẻ hùng vĩ, dữ dội của Sông Đà trước hết được phác họa qua hình ảnh “đá bờ
sông dựng vách thành”.
+ Chỉ với hình ảnh so sánh “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” tác giả đã
cho thấy sự tài hoa của mình. Lấy một bộ phận nhỏ hẹp ở cổ họng con người “cái yết hầu” và
động từ “chẹt”, Nguyễn Tuân đã gợi ra hình ảnh một dòng sông đang ngột ngạt, bí bách, oằn
mình dưới sức nặng của những phiến đá, vách đá sừng sững.
+ Không gian ở đây lạnh lẽo, âm u vì “chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” và dòng nước thì chảy
xiết.
+ Nguyễn Tuân đã truyền đến người đọc cái cảm giác ớn lạnh, rợn người như chính mình đang
đi qua đoạn sông ấy “ Ngồi trên khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm
thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một một khung cửa sổ nào trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Ông một lần nữa đã khiến người đọc phải kinh
ngạc và thán phục khi lấy hè phố để tả mặt sông, lấy những tòa nhà hai bên đường để tả vách
đá, lấy không gian tối của một tòa nhà vừa tắt phụt điện để truyền tới người đọc hình dung về
cái tăm tối, của khúc sông có đá hun hút “dựng vách thành”.

 Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được phác họa trong đoạn văn miêu tả cảnh
mặt ghềnh Hát Loóng. Nếu như ở đoạn trên dường như Nguyễn Tuân mới chỉ
gợi ra dáng vẻ của Sông Đà qua hình ảnh vách đá sừng sững thì ở đoạn mặt
ghềnh Hát Loóng nhà văn tô đạm sức mạnh, tâm tính của dòng sông.
+ Nguyễn Tuân tưởng tượng và so sánh con thác độc dữ, nham hiểm đoạn mặt ghềnh Hát
Loóng như một loài thủy quái khôn ngoan, lúc nào cũng lồng lộn tìm mọi cách chặn đánh hòng
tiêu diệt người lái đò: “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió
gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất kì người lái đò Sông Đà nào tóm được qua
đấy.”
+ Câu văn trùng điệp liên hoàn kết hợp nhiều thanh trắc, nhịp ngắn dồn dập gợi chuyển động
gấp gáp, xô đẩy của sóng, gió và đá phối hợp khiến cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dội,
tăng thêm sự hung bạo của Sông Đà
+ Hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng “lúc
nào cũng như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy” thể hiện sự hung
hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. Sắc thái nhân hóa khiến dòng sông không còn vô tri mà
mà Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào nó như một sinh thể sống, như một con quái vật hung hãn chờ
đợi để vồ lấy con mồi.

 Sự hung bạo của con sông còn được thể hiện qua những cái hút nước xoáy tít.
+ Bên cạnh những thác nổi, Sông Đà còn có những con thác ngầm dưới lòng sông ở quãng Tà
Mường Vát: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống
sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
+ Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến cái hút nước hiện ra trong hình ảnh “cái
giếng bê tông”, trong âm thanh “như cửa cống cái bị sặc”, “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”.
+ Một loạt những động từ “thở”, “kêu”, “sặc”, “ặc ặc lên”, “rót dầu sôi vào” kết hợp với từ
tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh “ặc ặc” đã nói lên sức mạnh ghê gớm của những cái hút
nước ấy. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, cái hút nước tựa như một con quái vật đang giận
dữ đến ghê người.
+ Bằng vốn sống giàu có, bằng trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân tiếp tục tô đậm mức độ
khủng khiếp của những hút nước qua việc tưởng tượng một người quay phim mạo hiểm để con
thuyền thúng trôi xuống cái hút nước của Sông Đà rồi quay phim: “dũng cảm ngồi vào một cái
thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền, cả mình, cả máy quay xuống cái đáy hút Sông Đà – từ
đáy hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải.”
+ Những thước phim ghi lại sắc màu nước dựng thành vách thật đẹp và cũng thật kinh hoàng.
Hình thái của dòng sông được tác giả nén vào một thứ văn cheo leo gây chấn động mạnh vào
các giác quan cảm thụ của người đọc.
 Hình ảnh so sánh và nhân hóa, kết hợp kể và tả, vận dụng tri thức ở nhiều lĩnh vực: điện
ảnh, xây dựng, võ thuật… tạo nên cái nhìn đa chiều, liên tưởng độc đáo, kích thích trí tưởng
tượng
 Không những ấn tượng trước vẻ đẹp dữ dội, nguy hiểm của thiên nhiên Tây Bắc mà còn
khâm phục ngòi bút tài hoa, độc đáo

 Nhưng có lẽ khủng khiếp và dữ dội nhất có lẽ là tiếng nước thác đá Sông Đà. Ở
đây, âm thanh được miêu tả từ xa đến gần:
+ Từ xa “ tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên… như là oán trách… như là van xin… giọng
giọng gằn mà chế nhạo”.
+ Tác giả đã huy động rất nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử
dụng hàng loạt động từ mạnh khiến Sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ
gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.
+ Điều hấp dẫn là hệ thống từ ngữ miêu tả âm thanh được nhà văn tài hoa sắp xếp theo nhiều
cung bậc tăng dần cả về sắc thái, cảm xúc, âm lượng. Đó là bản giao hưởng của gió, nước và
thác với khúc dạo đầu có cung bậc nỉ non, ai oán rồi bừng bừng thét lên, đỉnh điểm của dữ dội
và man dại “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, tre
nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng”. Nhà văn đã lấy hình ảnh tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình
ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị.
 Với biện pháp so sánh độc đáo, những hình ảnh dữ dội kết hợp với cách miêu tả đặc sắc, kết
hợp nhiều giác quan trong một câu văn dài đầy dư ba, Nguyễn Tuân đã miêu tả chân thực
cái âm thanh giận dữ, oán hận của thác nước Sông Đà, buộc sự hung tợn mà kì vĩ của dòng
sông phải sống dậy, phải hiện hình và gào thét trên những câu chữ.

 Sông Đà chỉ thực sự bộc lộ đầy đủ tính cách hung bạo trong cuộc giao chiến với
con người tại thạch trận.
+ NT đã truyền sự sống cho những hòn đá vô tri vô giác, biến chúng thành binh đá tướng đá.
Đội quân thạch trận hùng hậu “cả một chân trời đá”, pháo đài đá với đủ loại đá to, đá nhỏ, hòn
chìm, hòn nổi, với các tướng đá, đá tiền vệ, đá hậu vệ,… Những hòn đá SĐ đứng nằm ngồi tùy
thích, nhưng dường như SĐ đã giao việc cho mỗi hòn là một tên lính thủy hung tợn, tên nào
trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm” sẵn sàng giao chiến.
+ Cả trận địa đá với âm mưu, thủ đoạn nham hiểm “ như ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng
sông” cố ý đợi một chiếc thuyền nào xuất hiện là “ nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”, bày sẵn: “ba
trùng vi thạch trận” và tập đoàn cửa tử lắt léo đánh lừa người lái đò.  sự quan sát tinh tế,
ngòi bút tài hoa, Nguyễn Tuân đã phát huy sức mạnh của ngôn từ, truyền sự sống cho những
hòn đá vô tri vô giác.
+ Khi xung trận, nó giở đủ những ngón đòn hiểm độc “đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn
âm vào chỗ hiểm” vừa hò la vang trời, bố trí nhiều của tử. “Mặt sông rung tít…nước thác reo
hò…mặt nước hò la…ùa vào… bẻ gãy…đội thuyền…thúc gối.. đánh miếng đòn độc hiểm…bao lấy
thuyền… đánh khuýp quật vu hồi…” khiến thác đá Sông Đà thực sự trở thành một chiến trường
với những trận chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên.
+ NT sự kiến thức nhiều lĩnh vực (quân sự, võ thuật, …) để miêu tả thạch trận và trận chiến giữa
con SD dữ dội, hiểm ác và ông lái đò. NT đã dùng hàng loạt động từ mạnh để miêu tả sinh động
sự bạo liệt của dòng sông.
 Sông Đà như loài thủy quái không lồ, nham hiểm, dữ tợn, từ ngàn năm vẫn gây sự với con
người. SĐ mang “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một ”, sẵn sàng tước đi mạng sống
của con người. NT đã vận dụng mọi phương diện, mọi lĩnh vực để phát huy tận cùng thế
mạnh của ngôn từ, buộc sự hung tợn mà kì vĩ của SĐ phải sống dậy, phải hiện hình và gào
thét trên những câu chữ.

SƠ KẾT:
Với kết cấu trùng điệp, nhịp điệu khẩn trương, giọng văn mạnh mẽ dồn dập, hàng loạt hình ảnh
so sánh, nhân hóa, liên tưởng so sánh độc đáo cùng sự tài hoa, uyên bác, khả năng quan sát
tinh tường, trí tưởng tượng phong phú, hệ thống từ vựng thuộc các lĩnh vực thể thao, quân sự,
võ thuật ..., Nguyễn Tuân khiến Sông Đà hiện lên với đồng thời cả diện mạo khủng khiếp, tâm
địa ác hiểm và những hành động vừa hoang dại, vừa dữ dội như một con thủy quái, vừa phi
phàm đến độ thần linh.
Thực ra, trong dòng chảy của văn học dân tộc, chúng ta đã từng bắt gặp sự hiểm trở trùng trùng
lớp lớp của những khúc đại giang như “Bạch Đằng hải khẩu” của Nguyễn Trãi hay “Phú sông
Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu. Nhưng có lẽ chỉ đến Nguyễn Tuân thì sự hung bạo, hiểm trở,
dữ dội của dòng sông đất nước mới thực sự sống động, đầy cá tính, hấp dẫn, mê hoặc. Nhà văn
của những cảm giác mạnh đã làm hiện lên dòng Sông Đà hung bạo, hiểm ác, không chỉ như một
con thủy quái “kẻ thù số một của con người” mà còn trở thành một công trình mỹ thuật kỳ vĩ,
tuyệt vời của tạo hóa. Ẩn sau những câu chứ còn là tình yêu thiên nhiên, đất nước thiết tha của
NT.

 VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH


Cảm hứng lãng mạn luôn đi liền với bút pháp tương phản đối lập. Bên cạnh một Sông Đà hùng
vĩ, dữ dội là một Sông Đà thơ mộng, trữ tình. Vẫn là dòng sông ấy nhưng sau khi dòng sông
“Vặn mình vào một cái bến cát”, khi trút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn xèo xèo
tan trên cát, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân dẫn người đọc đến một Sông Đà êm đềm như
một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích…

 Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình ảnh “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”
+ Đặc sắc hơn cả là cách so sánh “dòng sông như một áng tóc trữ tình”. Hình ảnh so sánh này
đã đem đến cho Sông Đà vẻ mềm mại, đằm thắm, vẻ duyên dáng, đầy nữ tính. Có thể thấy,
dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, Sông Đà hiện lên như người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ
đẹp trẻ trung trữ tình, duyên dáng. Sự xuất hiện của Sông Đà với mái tóc trữ tình làm cho Tây
Bắc đẹp hơn, thơ hơn, mềm mại hơn.
+ Nếu trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khoác lên dòng sông
quê hương màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng, màu hoa dại thì ở đây, Nguyễn Tuân đã điểm trên
Sông Đà nét thơ mộng, huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban, hoa gạo tháng
hai và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn “khói núi Mèo đốt nương xuân”.
+ Có người từng nói rằng Nguyễn Tuân đã chăm chút áng tóc của người thiếu nữ ấy bằng một
thứ tinh dầu được chưng cất từ các loài hoa quý hiếm của núi rừng và đội ên mái tóc ấy một
cái mũ miện được kết bằng khối núi và mây ngàn.
Màu sắc Sông Đà

 Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Sông Đà còn được hiện ra qua những màu sắc đầy
biến ảo.
+ Trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, những màu sắc biến ảo của sông Hương được
Hoàng Phủ Ngọc Tưởng cảm nhận ở ba thời điểm khác nhau trong ngày: sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím. Ở đây, khi nhìn ngắm Sông Đà từ nhiều thời gian và không gian khác nhau, Nguyễn
Tuân đã phát hiện những màu sắc tươi đẹp và đa dạng của dòng sông theo hai mùa: xuân và
thu.
+ Mùa xuân, nước Sông Đà “màu xanh ngọc bích”, không phải “màu xanh canh hến” của sông
Lô, sông Gâm. Qua cách kết hợp từ đặc sắc, Nguyễn Tuân vừa cho thấy màu sắc Sông Đà vào
mùa xuân là màu xanh rất đặc trưng vừa gợi hình ảnh một dòng sông xinh đẹp, êm nhẹ, sang
trọng, quý phái.
+ Vào mùa thu, nước Sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ của một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Từ ngữ tượng hình “lừ
lừ” lặp lại hai lần đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông đầy nặng
phù sa bồi đắp cho cả một vùng văn hóa xứ sở.
+ Con sông không chỉ thay đổi sắc nước mà còn thay đổi tâm trạng tính khí. NT sử dụng những
gam màu tương phản gay gắt để làm nổi bật tính cách trái ngược, mâu thuẫn của dòng sông: lúc
thì thơ mộng trữ tình, lúc thì hung bạo, dữ tợn => Thổi hồn vào khiến nó như 1 sinh thể.
+ Sông Đà chưa bao giờ có màu đen như như thực dân Pháp đã lếu láo “đè ngửa con sông ra đổ
mực Tây vào”. Bằng sự khẳng định này, Nguyễn Tuân đã tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông quê
hương. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện niềm tự hào, tình yêu thiết tha với vẻ đẹp của thiên
nhiên Tổ quốc mình.
 Bằng sự quan sát tinh tế, Sông Đà có vẻ đẹp đa dạng, như một mĩ nhân hiền dịu xuân sắc,
một công trình tuyệt vời của tạo hóa làm nên chất men say cho sự sống của con người.
 Sông Đà là một cố nhân

+ Vẻ thơ mộng, trữ tình của Sông Đà cũng thể hiện qua cách nhìn của Nguyễn Tuân với dòng
sông. SĐ không còn là 1 dòng chảy vô tri vô giác mà “ Sông Đà như một cố nhân”, một người
bạn của NT, gắn bó yêu mến qua bao năm tháng.
+ Khi xa thì nhung nhớ, gần thì “ đằm đằm ấm ấm”, gặp lại “vui như thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm…đứt quãng”, hàng loạt hình ảnh so sánh đã cụ thể hóa niềm vui, tình yêu mến, sự
gắn bó của NT với con sông Tây Bắc.
+ Con sông ấy có lúc lại hấp dẫn, mới mẻ “ một người tình nhân chưa quen biết”  SĐ luôn mới
mẻ, hung bạo đấy rồi lại trữ tình đấy, chốc gắt gỏng chốc lại dịu dàng, đem lại bao bất ngờ cho
con người, khiến người ta khát khao, muốn tìm hiểu, để rồi nhớ mãi không quen. Dòng sông vô
tri qua cách liên tưởng của NT thật lãng mạn, mang bao tình yêu mến, hờn giận gắn bó muôn
đời với con người TB và đất nước.

 Ánh nắng:

+ Nhìn dòng sông “thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”
chính là cái nhìn của một người chưa ra đến cửa rừng, mới chỉ thấy dòng sông lấp lóa nắng, ẩn
hiện giữa những vạt cây mà đã háo hức, bồn chồn, đã vội vàng khao khát.
+ Ánh nắng Sông Đà gợi nhớ ánh nắng của “tháng ba Đường thi” trong câu thơ “Yên hoa tam
nguyệt há Dương Châu”- Lý Bạch  Cuối xuân, dòng sông lấp lánh ánh nắng, thơ mộng như
những dòng sông trong thơ Đường. Vẻ đẹp của hoa nắng vàng lung linh trên dòng sông gợi
niềm cổ kính tự thuở Đường thi. Cái chất thơ như ngấm vào từng cảnh sắc thiên nhiên của sông
Đà. (dòng sông trữ tình, sóng sánh chất thơ)

 Sự yên bình, tĩnh lặng của cảnh vật hai bên bờ Sông Đà

+ Vẻ trữ tình, thơ mộng nhất của Sông Đà chính là ở sắc thái “lặng tờ”, “hoang dại” của nó. Từ
điểm nhìn của một người khách du thuyền trên Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khắc họa những vẻ
đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông. Câu văn êm dịu trong những thanh
bằng: “Thuyền tôi trên Sông Đà” đã đưa con thuyền, nhà văn và cả người đọc vào một cõi mơ
êm đềm, yên ả.
+ Một vẻ đẹp tĩnh lặng, thanh bình, hoang sơ như còn đó dấu tích của lịch sử cha ông: “Cảnh
ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến
thế mà thôi”.
+ Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong hình ảnh độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cách so sánh của Nguyễn Tuân không
nhằm làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông mà càng đẩy dòng sông trôi xa thêm vào miền
mộng ảo, cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc, trong trẻo, ngây thơ.
 Một vẻ đẹp tĩnh lặng, cổ kính, hoang sơ thuở xưa. SĐ rất nguyên sơ, không có dấu vết của
đời sống hiện đại, một vẻ đẹp bất biến cùng thời gian và năm tháng. Quãng này SĐ mang vẻ
đẹp hồn nhiên trong trẻo như đưa NT và người đọc lạc vào thế cổ tích. NT dùng khái niệm
thời gian tiền sử, cổ tích để diễn tả cái không gian hoang dại, trong trẻo, hồn nhiên của bờ
sông, tồn tại như một vĩnh hằng của tự nhiên. Hình ảnh so sánh vừa lạ, vừa độc đáo. Vẻ đẹp
tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn đó dấu tích lịch sử cha ông. Câu văn như những giai
điệu êm ái, trữ tình làm sống dậy vẻ đẹp của đời sống hiện đại vừa đưa người đọc trôi về
những miền kí ức xa xăm của một thời vang bóng. (Cảm hứng hoài cựu thường gặp trong
văn NT)
+ Sự yên ả, êm đềm của Sông Đà ở khúc hạ nguồn tiếp tục được nhà văn tô đậm hơn bởi những
hình ảnh thật nhỏ bé, mong manh trong một không gian trong lành nguyên sơ, thuần khiết của
hiện tại. Đó là hình ảnh mấy lá ngô non đầu mùa mới nhú, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Môt vẻ đẹp tươi mới, như bắt đầu
một mùa nảy lộc, sinh sôi. Không gian có âm thanh nhưng càng nhân lên cái tịch mịch, yên bình
bởi chỉ là âm thanh khẽ khàng dịu nhẹ của tiếng cá dầm xanh quẫy nước. Đặc biệt nhất là hình
ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”, cất tiếng hỏi nhà văn “bằng cái
tiếng nói riêng của con vật lành”. Chi tiết này làm tăng thêm ảo giác đưa nhà văn lạc vào một cõi
trong trẻo, an lành, thuần hậu nhưng không có thật của thế giới cổ tích
+ Ảo giác mãnh liệt đến mức nhà văn bỗng thèm được “giật mình vì một tiếng còi xúp lê của
một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu” để âm thanh của cuộc sống
giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang sống ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người của
nền văn minh hiện đại.
Sơ kết:
Đoạn văn giọng điệu mượt mà, uyển chuyển, đầy chất thơ thể hiện trí tượng bay bổng, sự
quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm, cảm xúc dạt dào của tác giả đối với Sông Đà.
Sự tài hoa uyên bác đã đem lại cho áng văn những trang tuyệt bút. Nguyễn Tuân đã dựng nên
cả một không gian trữ tình, thơ mộng của dòng sông Đà khiến người đọc say đắm, ngất ngây,
thêm yêu mến và tự hào với mảnh đất Tây Bắc và cuộc đời này.
Đánh giá chung:
- Qua cách tiếp cận và miêu tả của Nguyễn Tuân, hình tượng Sông Đà để lại ấn tượng khó quên
về một con sông dữ dội, hung bạo mà hùng vĩ, vừa nên thơ trữ tình. Cùng với hình tượng người
lái đò, Sông Đà là biểu tượng của cái Đẹp mà con người khao khát tìm kiếm. Với NT thiên nhiên
không thuần túy là thiên nhiên. Đó là sản phẩm nghệ thuật vô giá của tạo hóa, là “chất vàng của
thiên nhiên”, Cần phải trân trọng và làm phát lộ vẻ đẹp đó.
- Hình tượng sống động qua những trang văn tài hoa, uyên bác. Nguyễn Tuân đã không quản
khó nhọc quan sát, liên tưởng, vận dụng vốn từ vựng phong phú thuộc nhiều lĩnh vực hội họa,
điện ảnh, võ thuật, thể thao… dồn nhiều tâm sức và tài năng để khắc họa đặc tính, vẻ đẹp của
dòng sông đã ăn đời ở kiếp với người dân Tây Bắc.
Thiên nhiên đã tạo nên dòng SĐ cho Tây Bắc, còn NT đã tạo cho người đọc một dòng sông đẹp
độc nhất vô nhị trên trang văn của chính mình.
Tình yêu thiên nhiên đất nước, tinh thần dân tộc mang sắc thái riêng độc đáo của Nguyễn Tuân.
(TRước CMT8, trang văn NT vẫn khao khát tìm kiếm cái đẹp của thiên nhiên, đất nước nhưng
bàng bạc nỗi buồn cô đơn, càng đi càng cảm thấy thiếu quê hương. Đây là nỗi niềm của một
người dân sống đời nô lệ nước mất nhà tan trong XH thực dân phong kiến.
Sau CMT8, ngòi bút tài hoa uyên bác, yêu cái đẹp ấy đã khắc họa hình tượng thiên nhiên qua
con SĐ trong tùy bút NLĐSĐ tràn đầy sức sống, mãnh liệt cuồn cuộn như tình yêu mến, niềm
vui hi vọng, khao khát hòa nhập vào cuộc sống, gắn bó với đất nước của NT. Diện mạo NT
mới sau CMT8)
 ÔNG LÁI ĐÒ
 Lai lịch, ngoại hình
+ Nguyễn Tuân không đặt cho nhân vật của mình một cái tên cụ thể mà gọi theo nghề nghiệp,
theo quê quán một cách thân mật, mộc mạc: “Ông lái đò Lai Châu bạn tôi”. Nhà văn muốn tạo
ra một chân dung vô danh, dễ lẫn vào đám đông, những con người bình dị ẩn khuất giữa núi
rừng nhưng lại chứa đựng chất vàng mười đích thực của tài năng và nhân cách.
+ Trong cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Tuân, ông lái đò là một người khỏe mạnh, tráng kiện:
“Bảy mươi tuổi đầu đã bạc nhưng thân hình vẫn săn chắc như chất sừng, chất mun”. “Tay ông
lêu nghêu như con sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái
tưởng tượng. Giọng nói ào ào như tiếng sóng nước”. => Những nét ngoại hình trên cho thấy
ông lái đò như được sinh ra từ sóng nước hung dữ của Đà giang
+ Thấp thoáng ở chân dung ông lái đò có vẻ đẹp khác thường phi thường của người anh hùng
“Bả vai ông đỏ lên những củ nâu”. Đó là dấu vết chứng tích của những ngày chèo đò vượt thác
“giành sự sống từ tay nó về tay mình” của người lái đò.
+ Với vẻ đẹp khỏe khoắn, tráng kiện, ông đò mang dáng dấp của một người anh hùng trên sông
nước Đà giang.

 Trùng vi 1
+ Trùng vi thứ nhất có năm cửa, trong đó có bốn cửa tử, một cửa sinh. Cửa sinh nằm lập lờ phía
bên tả ngạn.
+ SĐ: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới ”. Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra.
Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt” được nước thác “ reo hò làm thanh viện” liều mạng
xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền, “mặt nước hò la vang dậy quanh mình,
ùa vào mà bẻ gẫy cán chèo…”
 Bằng trí liên tưởng độc đáo, kiến thức quân sự, võ thuật; các biện pháp nhân hóa, so sánh…
kết hợp hàng loạt động từ mạnh  SĐ được miêu tả sinh động, một đối thủ hung hãn, tinh
quái, hiểm ác, đông đảo hùng hậu, tấn công tới tấp
+ Ông lái đò - một viên tướng oai phong lẫm liệt, gan dạ, kiên cường, ý chí nghị lực phi thường
+ Bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên bởi song trận địa"..
+ Trong trận chiến gian lao, tương quan lực lượng khá chênh lệch, một bên là thạch trận thác đá
với sức mạnh như vũ báo của sóng, của thác, của đá, của gió, của nước với một bên là ông đò
cùng vũ khí thô sơ là cán chèo, ông đò đã bị thương. Tuy nhiên, bằng sự dũng cảm, khéo léo,
ngoan cường, ông đò đã vượt lên những đau đớn về thể xác, “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống
lái", hô vang tiếng hô của người cầm lái“trên cái chèo sáu bơi thuyền vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy
ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”, đưa con thuyền vượt qua trùng vi thứ nhất của thạch trận
thác đá Sông Đà. Ông đò đã chiến thắng thạch trận tháng đá.
 Vẻ đẹp của ông lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến.
Bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường, bình tĩnh đối mặt với hiểm nguy, tả
xung hữu đột xông pha giữa sóng nước.
 Số câu miêu tả SĐ nhiều hơn hẳn so với người lái đò càng thể hiện rõ khí thế áp đảo của
dòng sông. Nhưng cuối cùng OLĐ đã chiến thắng bằng sự dũng cảm, ý chí phi thường của
con người khi đối mặt với thiên nhiên dữ dội.

 Trùng vi 2:
SĐ + Trùng vi thứ hai của thạch trận, cửa tử tăng thêm nhiều, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía
hữu ngạn.
+ “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá"…. Dòng sông không chịu thua,
ráng tung đòn hiểm, đánh lừa con thuyền. Nó vẫn muốn núi kéo con thuyền lôi vào tập đoàn
của tử

Ông Lái Đò - vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, lão luyện, có trí có mưu

+ Ở vòng vây này, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện trí thông minh,
kinh nghiệm của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm: “Ông đã nắm chắc binh pháp của thần
sông thần đá”. “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến
cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng.
+ “cưỡi lên thác SĐ phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ ”  hình ảnh so sánh thể hiện được một
tình thế nguy hiểm ngàn cân treo sợi tóc của OLĐ và con thuyền khi vượt thác, không còn
đường lùi, chỉ còn cách tiến lên, tìm ra đường sinh trong muôn vàn cửa tử. OLĐ như một anh
hùng đả hổ.
+ Ông đương đầu với thạch trận bằng sự từng trải và mưu trí, lão luyện, quyết đoán: “ Ông đò
vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt
đôi ra để mở đường tiến” => Ông nhanh nhẹn, quyết đoán, thông minh, táo baọ xử lí các tình
huống nguy hiểm để trấn áp con song mang “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của
con người”
+ Những động tác linh hoạt, điệu nghệ, thuần thục của ông đò khi “lái miết một đường chéo”,
khi “tránh mà rảo bơi chèo”, khi “đè sấn lên mà chặtđôi ra để mở đường tiến” đã cho thấy sự kỳ
diệu của một người anh hùng trên sông nước.

 Trùng vi 3:
SĐ + Ở trùng vi thứ ba, bên phải bên trái đều là cửa tử. Cửa sinh lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ
của con thác. Với cách miêu tả thông qua hình ảnh nhân hóa, biện pháp điệp “cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng” và “cổng đá cánh mở cánh khép”, thạch trận thác đá thực sự là một
sinh thể sống, có linh hồn, có tính cách. Chúng tạo thành nhiều lớp lang, thành trì vững chắc, lắt
léo để dẫn dụ, lừa gạt và nhấn chìm những người lái đò đi qua đó.
Ông Lái Đò:
+ Ở vòng vây thứ ba này, trí dũng tài hoa của ông đò được thể hiện qua việc ông phải “phóng
thẳng thuyền” chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn hậu vệ chắn giữ: “Cứ
phóng thẳng thuyền vào cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”
+ Hình ảnh con thuyền được miêu tả trong những động từ nối tiếp: “Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng” đã thể hiện sự điêu luyện, khéo léo và sức mạnh của ông đò.
+ Đúng như NT ca ngợi OLĐ là “tay lái ra hoa”, đôi tay người lái đò không chỉ rắn chắc như sừng
như mun mà còn khéo léo, biến công việc chèo đò nặng nhọc thành một nghệ thuật vượt thác
qua ghềnh. Điều này cũng thể hiện quan niện thẩm mĩ của nhà văn.
 Quan niệm mới về người nghệ sĩ:
Nghệ sĩ không chỉ làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật. mà bất cứ ai làm việc đạt đến trình độ
thuần thục, điêu luyện, tinh vi trong chính nghề nghiệp của mình thì người đó là nghệ sĩ. OLĐ là
anh hùng lao động, là nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác qua ghềnh
SƠ KẾT:
 Qua cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang, ta
thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán
và quyết thắng; một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật “vượt thác qua ghềnh”

 Với niềm hào hứng, trí tưởng tượng phong phú, Nguyễn Tuân đã tung vào cả cái kho ngôn
từ giàu có của mình, NT đã phát huy tận cùng sức mạnh của thủ pháp đối lập, đòn bẩy. Con
sông càng hung hãn, dữ dội, hiểm ác càng làm bật vẻ đẹp của OLĐ trí dũng, tài hoa.
 Thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng (Sông Đà là chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc), còn con
người lao động Tây Bắc là “vàng mười đã qua thử lửa” trong công cuộc lao động, chinh
phục tự nhiên  trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả, con người đẹp hơn tất cả và quý giá
hơn tất cả.

* Nguyên nhân làm nên chiến thắng của OLĐ trước SĐ:
+ Sự ngoan cường, dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua thử thách của cuộc sống
+ Tài trí, sự hiểu biết và nhất là kinh nghiệm và tay lái tài hoa sau nhiều năm gắn bó với nghề
sông nước, lên thác xuống ghềnh.
+ Tình yêu lao động, cuộc sống.
Vẻ đẹp của sự giản dị, khiêm tốn, nghệ sĩ.
- Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, những người lái đò lại “đốt lửa trong hang đá,
nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh về cái hầm cá, hang cá mùa khô
nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một
lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng giữ quân tợn”. Nhũng người lái
đò lại trở về nhịp sống đời thường, kể những chuyện thường ngày. Không ai nói đến những
hiểm nguy mình vừa trải qua, cũng chẳng ai đề cập đến những vết thương mình đang chịu
đựng. Và chẳng một ai nhắc đến những chiến công mình vừa giành được. Chính thái độ bình
thản ấy lại tô đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường
khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng Sông Đà dữ dội, hiểm ác giành sự sống từ những cửa tử
của ghềnh thác Sông Đà chỉ là chuyện thường ngày. Thái độ bình thản ấy chỉ có được ở những
con người khiêm nhường, giản dị.

You might also like