Professional Documents
Culture Documents
Dù là con thác oai linh trong thơ của Quang Dũng hay con thác hung bạo với
những âm thanh réo rắt trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” hay, dòng sông Tây
Bắc ấy đều như ví von như những loài quái thú ngàn đời, khiến muôn loài khiếp
sợ, càng làm cho vẻ hùng vĩ của sông Đà to lớn hết bao giờ hết. Tiếng rống, tiếng
“gầm thét” của thác đá như tiếng của “một ngàn con trâu mộng” da cháy bùng
bùng đang gào lên, phá tan rừng lửa, giữa tiếng nổ đôm đốp, giòn tan của những
vầu, tre, nứa. Cùng sử dụng hình ảnh đàn trâu cho những tác phẩm của mình, ta
chợt nhớ đến những vần thơ trong “Qua thác Chiến Than” của Nguyễn Quang Bích
khi viết về hình ảnh đàn trâu sùng sục giữa trận thế hiểm nguy:
Nguyễn Tuân đã lấy âm thanh để gợi hình ảnh, lấy lửa tả nước, lấy âm thanh và
hình ảnh gợi lên khung cảnh thực. Không cần đứng trên mặt trận thủy chiến sông
Đà, không cần miêu tả trực tiếp đến thác nước, nhà văn tài hoa ấy vẫn có thể vận
dụng hết tài hoa, uyên bác và đại dương ngôn từ của mình để dẫn dắt người đọc
đến chiêm ngưỡng vùng trời Tây Bắc, chiêm ngưỡng con thác hung dữ, man rợ của
sông Đà. Hình ảnh “con trâu mộng” hiện lên với số từ “một ngàn” cùng với những
liên tưởng sâu sắc độc đáo mới mẻ làm cho người đọc không khỏi há hốc trước vẻ
hùng vĩ của thác đá. Con sông ở quãng thác này đúng là một con quái vật, một con
mãnh thú ngàn năm tuổi với sự hung hãn và sức mạnh khủng khiếp trời ban như
nhà thơ Bằng Việt đã từng miêu tả trong “Mai mốt đến sông Đà”:
“ Con khủng long vươn dài hai trăm cây số dốc
Quật nát những rừng già khoét lõm những hang sâu”
Những âm thanh chói tai rùng rợn của quãng thác ấy qua ngòi bút của Nguyễn
Tuân lại trở thành một bản tráng ca đầy mãnh liệt, hào hùng và man dại của đội
quân “sóng”, “nước” và “gió” đại diện cho tính cách ương ngạnh, khó chiều và vẻ
đẹp hùng tráng, hùng vĩ của thiên nhiên sông Đà. Qua đó, sự dữ dội và hung bạo
được đặc tả qua thủ pháp so sánh, nhân hóa linh hoạt, hàng loạt tường từ ngữ miêu
tả âm thanh theo chiều tăng tiến cùng với những câu văn trùng điệp liên hoàn
“rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu” đã làm cho câu văn trở nên gấp gáp, dồn dập hơn bao giờ hết. Không chỉ
dừng lại ở đó, ngòi bút đã được đẩy đến “cực tả” của Nguyễn Tuân đã làm nên một
trường đoạn âm thanh vô cùng hãi hùng, rùng rợn cho bức tranh về loài thủy quái
còn chưa “xuất hiện lộ diện”, khiến người đọc dường như cũng phải nín thở mà dõi
theo từng động thái, tiếng kêu của nó trên trang văn của tùy bút.
“Tới cái thác rồi”. Câu văn tiếp theo chỉ vỏn vẹn bốn chữ nhưng đã mở
ra một chân trời mới, mở ra một khung cảnh bao la, bạt ngàn được người nghệ sĩ
Nguyễn Tuân ghi lại vào bằng những thước văn cho văn đàn của dân tộc. Câu văn
chỉ vỏn vẹn bốn chữ nhưng độc giả lại cảm nhận rất rõ sự thích thú, tiếng reo vang
đến tột độ của tác giả - một con người với đam mê “xê dịch”, dành trọn đời mình
cho những chuyến đi, để khám phá, phiêu lưu và lưu giữ những giá trị tốt đẹp trên
những trang văn của dân tộc. Có lẽ không chỉ riêng Nguyễn Tuân bất cứ ai đi qua
thác đá đó hay thậm chí là những độc giả đang ngồi đọc những câu chữ cũng phải
thảng thốt, giật mình trước cảnh “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Từng
cơn gió phả vào trong từng con sóng, đưa con sóng vươn mình lên cao rồi lại đập
vào bờ đá tạo thành những bọt sóng “trắng xóa” tinh khôi lôi cuốn người chiêm
ngưỡng nó. Những bọt sóng ấy cứ như chồng chất, chất chồng lên nhau thành lớp
khiến cho cả “chân trời đá” cũng mịt mù sắc trắng. Sắc “trắng xóa” giữa chân trời
đá hiện lên trước mắt người đọc qua những liên tưởng tinh tế của Nguyễn Tuân
không chỉ thể hiện vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông ấy mà còn cho thấy sự man rợ,
táo tợn, nham hiểm của đám thủy binh “sóng”, “đá” và “gió”. Cùng nhắc về hình
ảnh “bọt sóng” trắng xóa, ta chợt nhớ đến những vần thơ của Phạm Ngọc Cảnh vào
thập kỉ 80 của thế kỉ XX:
Bằng những tư liệu phong phú và chính xác, Nguyễn Tuân tiếp tục làm
người đọc choáng ngợp trước vẻ đẹp hùng vĩ và tính chất hung bạo của sông Đà
qua ba trùng vi thạch trận của nó. Từng lời văn của tùy bút khiến ta cứ ngỡ như là
lời tâm tình của văn nhân dành cho những độc giả có cùng thú “xê dịch” và đam
mê khám phá thiên nhiên bạt ngàn, Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ miêu tả từng tảng đá,
từng hòn nhỏ giữa khúc sông trắng xóa để tải vào lòng người đọc một thước phim
vô cùng sống động: “Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những
tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá
to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn”. Nếu như ở đoạn
trước, Nguyễn Tuân dẫn dắt độc giả quay về chứng kiến khoảnh khắc “sóng bọt”
trắng xóa bắn tung tóe ở “chân trời đá”, thì đến với đoạn này nhà văn càng đẩy
mạnh nét hùng vĩ hung bạo của sông Đà lên một tầm cao mới: Không còn là sóng
bọt trắng xóa mà giờ đây là cả một “mặt sông trắng xóa”. Quả thật, càng đọc về
sau ta càng thấy ngộp thở với nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo và thủ pháp
nhân hóa của Nguyễn Tuân, càng thấy tính chất hung bạo của dòng sông Tây Bắc
tăng lên gấp bội, như không hề có điểm dừng. Những tảng đá to, đá bé sững sờ,
ngang nhiên, không sợ “trời cao đất dày” mà cứ “nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo
sở thích” tùy theo ý muốn của nó, không ai có thể làm trái với ý nó. Thế nhưng,
trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, có lẽ bọn thủy binh đang tuân lệnh mệnh lệnh
của “con quái vật” khổng lồ Đà giang.