Professional Documents
Culture Documents
Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
…..
Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương!
Mái nhì man mác nước sông Hương”
(Quê mẹ-Tố Hữu)
Trôi trên dòng Hương Giang mềm mại và trữ tình, lắng nghe những điệu hò Huế chảy sâu trong tim,
những điệu hò đầy say mê của người con gái xứ Huế, từ lâu đã trở thành một phong tục đặc thù trên Sông
Hương và là một nét đẹp văn hóa tiêu chuẩn cho mảnh đất cố đô ngàn năm. Nếu như điệu hò đưa ta vào
một thế giới mộng mơ, nơi mà Sông Hương hiện lên như một “nàng thơ xứ Huế”, nơi “mây bay vương
gió trời” và vương cả những điệu hò “mái nhì, mái đẩy” chứa đựng biết bao tâm tình của những con
người sống giữa thiên nhiên nơi đây thì đến với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường ta sẽ được chứng kiến một Sông Hương không chỉ đẹp như một “nàng thơ ngủ mơ màng”
mà còn giống như “người tình dịu dàng và chung thủy”. Qua cảm nhận về vẻ đẹp sông Hương ở nhiều
góc độ, nhà văn đã bộc lộ tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên và con người xứ Huế qua cái tôi trữ
tình tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng tuợng phong phú.
KQC
Như nhà văn Tô Hoài nhận định: “Hoàng Phủ Ngọc Tường trầm cả tâm hồn trong
khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế”. Huế với ông là nguồn
cội, là máu thịt, là nỗi nhớ nhung vương tơ lòng thấm đẫm mỗi trang văn.
+ Với tình yêu tha thiết với Hương giang, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngược dòng tìm về nguồn cội của
dòng sông để rồi phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo, hoang dã, man dại nhưng cũng rất trữ tình của nó.
+ Khởi nguồn của dòng chảy là từ Trường Sơn hùng vĩ và đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ sâu
sắc với dãy Trường Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có phát hiện vô cùng mới mẻ, đặc sắc: dòng sông
Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già”.
+ Ở đây, rừng già là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông. Hình ảnh này
đem đến sắc thái hoang dại cho dòng sông nơi thượng nguồn
+ Khi so sánh sông Hương với bản trường ca của rừng già, người đọc có thể liên tưởng Sông Hương ở đại
ngàn mang nhiều vẻ đẹp khác nhau nhưng vẻ đẹp nổi bật của nó là sự mãnh liệt, man dại và huyền bí khi
“rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác” và “cuộn xoáy như cơn lốc
vào đáy vực bí ẩn”.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa được đặt trong một câu văn dài, được chia làm nhiều vế, có sử dụng thủ
pháp điệp cấu trúc vừa để gợi dậy cái dư vang của trường ca, vừa tạo nên âm hưởng hùng tráng, mạnh
mẽ của con sông giữa rừng già.
Nhưng sông Hương ở rừng già có khi lại mang vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ tình khiến người ta không khỏi
say mê, cảm thán.
+ Trong lòng Trường Sơn, Hương giang trở nên “dịu dàng, say đắm” khi chảy giữa những dặm dài chói lọi
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
+ Sắc đỏ “chói lọi” của loài đỗ quyên càng làm nổi bật lên vẻ đẹp của một dòng sông giữa lòng Trường
Sơn hoang dã và bí ẩn. Dường như chỉ có duy nhất màu đỏ, một màu sắc đầy hoang dại ấy mới làm toát
lên được vẻ đẹp đầy ám ảnh, mê đắm nhưng lại rất đỗi bình dị của sông Hương giữa đại ngàn.
+ Đặc biệt, thủ pháp đối lập (giữa sự mãnh liệt, man dại, huyền bí và sự dịu dàng, say đắm) được sử
dụng một cách điêu luyện vừa thể hiện được vẻ đẹp phong phú sắc thái, vừa thể hiện được sức mạnh
hoang sơ của sông Hương khi nằm giữa rừng già, núi non, khơi gợi lên vẻ bí ẩn, đầy say mê của dòng
sông xứ Huế.
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng rất nhiều từ ngữ gợi hình và gợi cảm như bản trường ca của rừng
già, rầm rộ, mãnh liệt, dịu dàng, say đắm, cuộn xoáy như cơn lốc, đáy vực bí ẩn… để tô đậm vẻ đẹp đầy
gợi cảm của dòng sông. Nhưng đáng chú ý nhất là biện pháp so sánh nhân hóa ví dòng sông như một cô
gái Di-gan phóng khoáng và man dại, rừng già đã hun đúc cho nó bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do,
phóng khoáng…
+ Nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật vẻ đẹp căng đầy sức sống của dòng sông khi nó giống như người
con gái tuổi đôi mươi, hơn nữa đây còn là những cô gái Digan thích sống du mục, nhảy múa, ca hát.
+ Những liên tưởng thú vị và độc đáo ấy đã chạm khắc vào tâm trí người đọc ấn tượng mạnh mẽ về vẻ
đẹp hoang dại nhưng cũng đầy quyến rũ, tình tứ, tinh tế, đầy cá tính của sông Hương, khiến sông Hương
khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ say đắm
Sông Hương trên thủy trình trở về với vùng châu thổ êm đềm
+ Không chỉ dừng lại ở đó, nhà văn đã còn nhân hoá sông Hương khiến nó hiện lên như một con người có
cá tính, có tâm hồn: “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.”
Đó là phần tâm hồn sâu thẳm mà sông Hương không muốn bộc lộ nên luôn giấu kín khi ra khỏi rừng nó
đóng cửa rừng và ném chìa khóa dưới chân núi Kim Phụng.
+ Ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng thay đổi hình hài, tính cách, mang một sắc đẹp dịu dàng và trí
tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Hình ảnh nhân hoá độc đáo đã khắc hoạ vẻ
đẹp phong phú của dòng sông. Sông Hương không những bồi đắp phù sa cho ruộng vườn tốt tươi, mà còn
góp phần hình thành bản sắc văn hoá xứ Huế.
+ Như vậy, nhà văn đã xem sông Hương như một đấng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn
hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Đây là một phát hiện độc đáo về sông Hương chỉ có thể có ở một
người gắn bó và am tường về mảnh đất cố đô.
+ Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý hình ảnh sông Hương
của nguồn cội thì sẽ khó để hiểu hết vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó không muốn
bộc lộ. Nói đến sông Hương, người ta chỉ nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng của nó. Nhưng trở về cội
nguồn của dòng sông, Hoàng Phủ còn cho ta thấy một vẻ đẹp khác, và đó cũng chính là một phát hiện sâu
sắc và bất ngờ của nhà văn về dòng sông.
SƠ KẾT
Qua lăng kính của nhà thơ, ông đã phát hiện dòng sông giống như một cô gái Di – gan, một bà mẹ
phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, khám phá ra “phần đời” mà dòng sông không muốn bộc lộ là vẻ
đẹp ở thượng nguồn với cảnh sắc thiên nhiên phong phú và đa dạng.
Phải là một con người có vốn tri thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa, đặc biệt là phải có một tình
yêu thiết tha, mãnh liệt với dòng sông Hương, với thành phố Huế, với quê hương xứ sở, nhà văn mới
có được góc nhìn mới mẻ, độc đáo đến vậy.
Bằng tình yêu và niềm tự hào với dòng sông quê hương, với trí tưởng tượng phong phú và khả năng
khám phá tài tình, độc đáo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng sông Hương trong vẻ đẹp
nguyên sơ, đầy cá tính và văn hóa. Vì vậy, thật không ngoa khi một nhà phê bình văn học từng nhận
xét: “Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn
đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang
viết ấy....Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa
không dễ một lần thứ hai viết được như thế”.
Thật vậy, qua từng câu, từng chữ trong đoạn trích, hình ảnh cái tôi của tác giả hiện lên vô cùng rõ
nét. Trước hết, đó là một cái tôi uyên bác, nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện những
vẻ đẹp của sông Hương và xứ Huế. Hơn nữa, đoạn văn cũng như tác phẩm còn thể hiện một cái tôi
mê đắm, tài hòa và vô cùng lãng mạn. Ông đã có những liên tưởng thú vị mang tính sáng tạo bất ngờ
về dóng sông Hương. Đoạn trích còn thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt và đặc sắc của Hoàng
Phủ Ngọc Tường: Sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa
chiều.
Sông Hương ở Huế gắn liền với hình ảnh cây cầu trắng
Nổi bật trên nền xanh của dòng Hương giang ở Huế là hình ảnh đầy ấn tượng: “chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Ai đã từng đến Huế đều biết đến cây cầu Tràng
Tiền nổi tiếng vẫn soi bóng trên dòng Hương giang, gợi một vẻ đẹp rất riêng mà chỉ có xứ Huế mộng và
thơ mới có. Hình ảnh cây cầu ấy của đất cố đô đã đi vào thi ca với vẻ đẹp quyến rũ kì lạ: “Cầu cong như
chiếc lược ngà Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ” (Nguyễn Bính) Nguyễn Bính và Hoàng Phủ Ngọc
Tường đều cảm nhận được đường cong gợi cảm của cây cầu vắt ngang dòng sông Hương. Nhưng nếu
nhà thơ Nguyễn Bính so sánh cầu Tràng Tiền như chiếc lược ngà thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại so sánh
với vành trăng non – một so sánh độc đáo, mới lạ để gợi tả thêm vẻ đẹp duyên dáng, tươi sáng của cây
cầu. Khi sông Hương gặp Huế, vẻ đẹp của dòng sông và cây cầu như hoà vào làm một. Cây cầu như một
nét đẹp bừng sáng tô điểm cho vẻ đẹp của của dòng sông cũng như thành phố Huế.
Sông Hương được so sánh với các dòng sông đẹp trên thế giới
+ Để làm nổi bật vẻ đẹp đặc trưng của dòng sông Hương ở Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh sông
Hương với một số dòng sông đẹp và nổi tiếng trên thế giới. Nhàvăn so sánh sông Hương với sông Xen
của Pa-ri và sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét để thấy vẻ đẹp riêng của dòng sông Hương là nó thuộc về một
thành phố duy nhất và chỉ một mình nó còn nằm trong tổng thể một đô thị cổ. Nó trôi đi bên cạnh
những cây đa cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, mà ở đó vẫn lập lòe
trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ. Vẻ đẹp cổ kính ấy của Huế,
của sông Hương “không có một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Có thể nói lời nhận xét tràn
đầy tình yêu say đắm ấy không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng mà còn thể hiện niềm tự hào, kiêu
hãnh của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với dòng sông thuộc về quê hương xứ sở mình sinh ra và lớn lên.
+ Sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn so sánh sông Hương với dòng sông Nê-va ở Lê-nin-grat để nhấn
mạnh điểm khác biệt là nếu như dòng sông Nê-va chảy rất nhanh, thì sông Hương có dòng chảy chậm,
thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh, làm bật lên vẻ đẹp chậm rãi, sâu lắng và tình tứ của
dòng sông.
+ Hương Giang chảy lặng lờ như một “điệu slow” tình cảm mà nó dành riêng cho xứ Huế. Sông Hương
chậm rãi, lặng lờ mang đậm khí vị của xứ Huế mộng mơ qua sự miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở
đây cũng rất giống với sự miêu tả của nhà thơ Thu Bồn:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
+ Nhà văn còn tô đậm dòng chảy chậm của Hương giang một lần nữa bằng cảm nhận của thị giác qua
hàng nghìn ánh đèn hoa đăng bồng bềnh trên sông Hương vào dịp rằm tháng bảy, từ điện Hòn Chén trôi
về đến Huế thì ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như vấn vương của một nỗi
lòng.
+ Từ đặc điểm địa lí tự nhiên thì những chi lưu tỏa ra khắp phố thị cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã
làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước. Nhưng mặt khác, bằng lí lẽ của trái tim tác giả cho rằng “điệu chảy
lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông Hương là do tình cảm của nó dành riêng cho Huế. Sông
Hương do quá yêu thành phố thân thương của mình nên dùng dằng không nỡ rời xa, nó chảy chậm, thật
chậm để được ở bên người tình mong đợi.
+ Có thể nói sông Hương dường như đang hòa điệu tâm hồn mình vào Huế để tôn lên vẻ đẹp thơ mộng
của cố đô. Đứng trước sông Hương, người ta không chỉ cảm nhận trước một bức tranh sông nước diễm
lệ mà còn đứng trước một biểu tượng của Huế, tâm hồn Huế, văn hóa Huế.
SƠ KẾT
Đoạn văn nhẹ nhàng với ngòi bút tinh tế, lối viết giàu cảm xúc, kết hợp giữa miêu tả và tự sự. Bằng sự
quan sát tinh tường, tỉ mỉ, tưởng tượng phong phú, tác giả đã miêu tả sông Hương từ góc nhìn địa lí,
hành trình sông Hương tìm về với Huế như về với tình nhân của mình. Các biện pháp nghệ thuật như so
sánh, nhân hóa… được sử dụng hiệu quả. Tác giả còn vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu
biết sâu sắc về nhiều mặt như địa lý, thơ ca, âm nhạc, hội họa… để làm giàu cho giá trị nhận thức của
đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung. Chất thơ thể hiện rõ qua ngôn từ, hình ảnh… tạo nên những
câu văn rất hay như “chiếc cầu trắng…nhỏ nhắn như những vành trăng non”, “sông Hương uốn một cánh
cung rất nhẹ… một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”… Vẻ đẹp của sông Hương cùng tài năng của
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên đoạn văn đậm chất nhạc và chất họa. Nhìn bằng con mắt của hội họa,
sông Hương cùng những chi lưu tạo nên những đường nét thật mềm mại, tinh tế và cổ kính. Cảm nhận
bằng âm nhạc thì sông Hương đang trong điệu slow du dương, sâu lắng và ngập tràn tình cảm với Huế.
Tất cả cho thấy một cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự tài hoa, uyên bác và chân thành, tha thiết yêu
sông Hương - xứ Huế. Đoạn trích còn thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt và đặc sắc của Hoàng Phủ
Ngọc Tường: Sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
+ Hương giang đã sinh thành nên toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế góp phần làm nên một xứ Huế
“trong sáng và thư thái”. Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ
sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn
hoá đặc trưng ở nơi đây. Tác giả khẳng định toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt
nước của dòng sông này.
+ Tác giả tưởng tượng: “Trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái
chèo khuya…” Phải có độ nhạy cảm về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc xứ Huế thì tác giả mới có được
sự liên tưởng này
+ Viết về sông Hương, nhà văn còn có một phát hiện, phán đoán rất bất ngờ là dòng sông Hương với âm
nhạc Huế có ảnh hưởng đến kiệt tác “Truyện Kiều”: “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông
này với một phiên trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều… rất giống với Tứ đại cảnh.”
+ Như vậy, dòng sông Hương trong lòng thành phố với nhịp điệu chậm rãi, khoan thai như một điệu slow
tình cảm đã tạo nên cái thần, cái hồn rất riêng đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng.của nhã nhạc
cung đình Huế, tạo nên vẻ đẹp rất riêng của kiệt tác văn học dân tộc “Truyện Kiều”.
Sông Hương mang đặc điểm tâm hồn con người xứ Huế
+ Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn đi sâu khám phá vẻ đẹp của sông Hương trong chiều sâu văn hóa
của xứ Huế. Sông Hương không chỉ góp phần kiến tạo nên gương mặt văn hóa Huế khi sản sinh ra nền
âm nhạc Huế, những bài Nam ai Nam bình da diết… mà còn được khám phá trong mối quan hệ với con
người và dòng sông mang đậm đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế. Bằng quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu vô cùng nghiêm túc tác giả đã nhận thấy một điều rất đặc biệt: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và
giống với con người nơi đây”. Như thế có nghĩa là sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên
mà nó còn là kết đọng rõ nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế, vẻ đẹp của tính cách, tâm
hồn Huế. Dòng chảy dịu êm của sông Hương là vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của con người xứ này. Sông
Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về với biển cả”. Tác giả liên hệ: “Lời thề ấy vang vọng khắp
khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy chính là tấm lòng người dân Châu Hoá xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở”. Sự chí tình của Hương giang cũng bắt nguồn từ tính cách con người xứ
Huế mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Nghệ thuật
Đoạn văn có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan. Bằng sự quan sát tinh tường,
tỉ mỉ, tưởng tượng phong phú, tác giả đã miêu tả sông Hương từ góc nhìn địa lí, văn hóa. Ngôn ngữ trong
sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như : So sánh,
nhân hoá, ẩn dụ… Tác giả còn vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu biết sâu sắc về nhiều mặt
như địa lý, thơ ca, âm nhạc… để làm giàu cho giá trị nhận thức của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói
chung. Đặc biệt, trong đoạn trích sông Hương được cảm nhận nhiều từ góc độ âm nhạc khi được so sánh
với người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, qua khẳng định toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh
thành trên mặt nước sông Hương và nhắc đến những bản đàn trong cuộc đời nàng Kiều…
3.2. Nội dung Tài năng của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo ra hình tượng nghệ thuật về dòng sông Hương
thật trữ tình, thơ mộng và lãng mạn. Dòng sông Hương trong trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường
khiến cho ai từng đọc qua bài bút kí đều có mong muốn được một lần đặt chân đến xứ Huế để đắm
chìm trong cảnh sắc thiên nhiên và những câu ca ngọt ngào, da diết.
3.3. Đánh giá về tình cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho xứ Huế Nếu chỉ là cảm xúc rung động
nhất thời trước vẻ đẹp của con sông xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những
trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế. Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những
rung cảm mãnh liệt để tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn, tạo nên
cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác. Bằng con mắt tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên
những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, tài hoa. Với cảm
hứng ngợi ca, bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? như lời cảm tạ của tác giả đối với đất mẹ Huế nơi nuôi
dưỡng tâm hồn nhà văn. Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang và xứ Huế rộng hơn
chính là tình yêu quê hương, đất nước tha thiết.
Mở đầu đoạn văn, nhà văn khẳng định: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của
sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc”. Câu văn này đã thể hiện rõ cái tôi nội cảm và bộc lộ cảm nhận
của tác giả về vẻ đẹp của sông Hương có sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Có thể nói rằng
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương ở cảnh sắc thiên nhiên,
thấy nó ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hóa, cho
cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh
thần lịch sử. Dòng sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi…” anh hùng bởi từ góc
nhìn lịch sử, sông Hương đã trở thành chứng nhân của lịch sử. Nó chứng kiến bao nhiêu biến thiên mà
xứ Huế trải qua như ở đoạn văn trước đó nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng
sông Hương trong lịch sử dân tộc. Nó là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong
những thế kỷ trung đại nó mang tên là linh Giang, đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam
của Tổ quốc Đại Việt. Thế kỉ 18, nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế
kỷ 19, nó sống hết lịch sử bi tráng với máu của những cuộc khởi nghĩa. Nó đóng góp cho cách mạng
tháng tám bằng những chiến công rung chuyển. Nó bị tàn phá nặng nề trong mùa xuân năm Mậu Thân…
Từ đó mà đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nói về dòng sông Hương và xứ Huế “Lịch sử đảng đã ghi bằng nét
son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho tổ quốc”. Từ góc
nhìn lịch sử, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu
dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử. Dòng chảy của của sông Hương đã đi trọn vẹn
chiều dài của lịch sử dân tộc. Diện mạo và chiều sâu của lịch sử dân tộc đã đem đến cho Sông Hương
một tầm vóc kỳ vĩ lớn lao. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đây đã phát hiện ra một vẻ đẹp của dòng
sông mà không phải ai cũng nhận thấy. Đó là một vẻ đẹp của một bản anh hùng ca với sức mạnh quật
khởi của dân tộc từ thuở lập quốc
Nhà văn sau đó còn bình luận về cách dòng sông Hương cống hiến cho lịch sử dân tộc. Khi nghe lời gọi
của Tổ quốc, sông Hương biết cách “tự hiến đời mình làm một chiến công”. Cũng như những dòng sông
khác trên đất nước Việt Nam, cũng con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ đẹp truyền thống đã
làm thành bản sắc văn hóa Việt, như Huy Cận từng khái quát: Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái
chan hòa.
Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi được “viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Với
lối sử dụng hình ảnh ấy, nhà văn đã nhấn mạnh dòng sông Hương vừa là một bản hùng ca, vừa là một
bản tình ca dịu dàng, tươi đẹp. Giữa đời thường, cảnh sắc thiên nhiên sông Hương chính là vẻ đẹp của
thiên nhiên quê hương đất nước. Hơn nữa, sông Hương còn là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn
dài – Còn về, còn nhớ…”. Đó không chỉ là nét riêng trong vẻ đẹp của dòng sông Hương mà còn là vẻ đẹp
của Huế
Sông Hương gắn liền với nền văn hóa phi vật thể của xứ Huế Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông
Hương còn hàm chứa trong nó cả nền văn hoá phi vật thể của Huế. Từ góc nhìn văn hóa ấy mà nhà văn
nhận ra Hương giang khi “trở về với cuộc sống bình thường là người con gái dịu dàng của đất nước”. Nhà
văn hoài niệm đến khắc khoải khi bắt gặp một sắc màu của chiếc áo cưới ở Huế xưa cũ “màu áo điều lục
với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện”
mà các cô dâu Huế mặc sau tiết sương giáng, phát hiện màu áo cưới ấy rất giống với “màu của sương
khói trên sông Hương”. Để rồi từ cái sắc màu văn hoá đặc trưng của Huế ấy mà tác giả liên tưởng một
cách đầy ngẫu hứng mà rất có lí rằng sắc áo điều lục mà người Huế ưa thích vốn là màu của sương khói
trên sông Hương “giống như một tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của
dòng sông”. Có lẽ, thông qua sự liên tưởng này nhà văn muốn ngợi ca sông Hương vì nó góp phần làm
cho Huế trở thành một bức tranh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình, muốn khẳng định sông Hương trong
đời thường mang vẻ đẹp dịu dàng của một cô gái Huế, tô đậm vẻ đẹp của dòng sông trong sự gắn bó với
văn hóa Huế. Như vậy, sông Hương đã là một phần trong đời sống tâm hồn của người Huế trầm mặc,
lắng sâu.
2.3. Sông Hương là nguồn cảm hứng dạt dào cho thi ca, nghệ thuật
Tác giả cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương: đó là dòng sông không lặp lại mình:
Mặt khác, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương ở góc độ thi ca, nghệ thuật,
khẳng định sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông
thi ca về sông Hương và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy
không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà
thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”.
Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan sông Hương là “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng”. Sông
Hương còn quả thực rất Kiều và mang sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu…
2.4. Truy tìm câu trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Không chỉ trong đoạn
văn này mà cả bài bút kí dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt
tên cho dòng sông?”. Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào
hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung
động. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vốn là câu hỏi của một nhà thơ Hà Nội khi ngắm nhìn vẻ đẹp của
dòng sông Hương. Câu hỏi này còn được lặp lại nhiều lần trong tác phẩm nhằm mục đích lưu ý người
đọc về cái tên đẹp của dòng sông: sông Hương (sông thơm). Chính câu hỏi ấy đã khơi lên mạch viết dạt
dào cảm xúc về vẻ đẹp thiên phú và đánh động bao nhiêu vốn liếng văn hóa về dòng sông Hương chảy
qua cố đô Huế. Tác giả sau đó đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của dòng sông ấy, nhắc
đến một giai thoại đẹp mà nhà văn đã phải kỳ công lục tìm “Người làng Thành Chung có nghề trồng rau
thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng vì quá yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu
nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi”. Huyền thoại ấy đã khẳng
định cái tên thân thương “sông Hương” hóa ra được bắt nguồn từ tình yêu quê hương đất nước của
những người dân xứ Huế. Chính họ là những người đã khai sơn phá thạch, chứng kiến những thăng trầm
của xứ Huế, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử và góp phần kiến tạo nên bản sắc văn hóa,
muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ sở. Và cũng chính họ
đã là người đã đặt cho dòng sông cái tên đẹp ấy. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gợi ra bao nhiêu
vẻ đẹp của dòng sông nên không thể trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài.
Nguyễn Tuân, một nhà văn cũng chuyên viết kí nhận xét “Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh
lửa”. Phải chăng ánh lửa trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là vẻ đẹp của văn chương được thắp lên
từ những con chữ biến hóa như phép màu. Đúng như Maiacốpxki nhận xét về quá trình sáng tạo của
người nghệ sĩ: Phải đổi lấy hàng ngàn cân quặng chữ Để thu về một chữ mà thôi Nhưng chữ ấy làm cho
rung động Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” xứng đáng là một áng
văn hay đặc sắc về xứ sở, về tình yêu quê hương đất nước và cũng rất tiêu biểu cho phong cách bút ký
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dòng sông Hương trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khiến cho ai đã
từng đọc qua đều mong muốn được một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì
nên thơ nhất của xứ Huế.