You are on page 1of 7

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

Đề bài: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sông Hương trong "Ai đã đặt tên cho dòng
sông?". Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
Bài làm:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Ông là nhà văn có phong cách sáng tác độc đáo và đặc biệt sở trường về thể văn bút kí, tùy
bút. Kí của ông có một diện mạo riêng - vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, vừa phong phú về
phương diện tri thức văn hóa lịch sử. Chính vì vậy, các bài kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
đóng góp rất nhiều cho văn xuôi hiện đại Việt Nam. Đặc biệt với bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện về dòng sông
Hương đẹp dịu dàng của xứ Huế và thể hiện điều đó bằng lối hành văn mang phong cách rất riêng
và độc đáo của mình. Đoạn văn miêu tả dòng sông Hương vùng thượng lưu đã chứng minh điều
đó.
Sông Hương và xứ Huế là vùng thẩm mĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là quê hương văn hóa đích
thực của ông. Ông viết về đối tượng này với một tình yêu say đắm, một vốn liếng ngôn từ tinh
luyện và một kho tri thức phong phú để tạo nên những trang văn vừa đẹp, vừa sang, vừa lấp lánh
trí tuệ và chan chứa ân tình. Đặc biệt ở đoạn đầu khi viết về sông Hương vùng thượng lưu, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã thể hiện cái nhìn mang tính khám phá mới mẻ về vẻ đẹp ít ai biết đến của
dòng sông xứ Huế: vẻ đẹp thiên tạo với sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính mà sông
Hương luôn giấu kín khi nó còn ở rừng già. Vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách sáng tạo, độc đáo
và đặc sắc thông qua lối hành văn riêng biệt của tác giả: một lối hành văn hướng nội, súc tích, độc
đáo và vô cùng tài hoa, uyên bác.
Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn vô cùng độc đáo về Sông Hương: ông tìm về nguồn cội của
dòng sông để phát hiện ra vẻ đẹp man dại, phong khoáng của dòng sông tưởng như hiền hòa, dịu
dàng này. Mở đầu đoạn trích, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhận xét vô cùng chút quan: “Trong
những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc
về một thành phố duy nhất.” Lời nhận xét tràn đầy tình yêu say đắm ấy không chỉ thể hiện tình
cảm gắn bó sâu nặng của của Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với dòng sông quê hương mà còn thể
hiện niềm tự hào, kiêu hãnh của bản thân khi đặt ngang hàng sông Hương với những dòng sông
đẹp trên thể giới. Cách nhận xét chủ quan này thể hiện tình cảm thiên vị của Hoàng Phủ Ngọc
Tường đối với dòng sông xứ Huế - dòng sông được coi là vùng thẩm mĩ của ông. Nói tới xứ Huế,
không ai không nghĩ tới sông Hương - dòng sông đại diện cho vẻ đẹp của miền đất này. Và khi
nói tới Sông Hương người ta thường nghĩ ngay đến dòng sông hiền hòa với dòng chảy lặng lờ, êm
dịu, dòng sông dịu dàng thơ mộng với tiếng mái chèo khua nước bán âm giữa đêm khuya, dòng
sông mẹ chở nặng phù sa yên bình, dòng sông đại diện cho tình yêu đằm thắm thủy chung với xứ
Huế. Tuy nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ nhìn vào vẻ đẹp dịu dàng thơ mộng mà sông
Hương thể hiện ra ở Kinh Thành Huế, ông muốn ngược dòng tìm về nguồn cội của dòng sông trữ
tình này để rồi phát hiện ra vẻ đẹp độc đáo hoang dã, man dại nhưng cũng rất trữ tình không ai
ngờ tới của Sông Hương. “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca
của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn
lốc vào đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Đó cùng chính là phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông tưởng
chừng như vô cùng dịu dàng đằm thắm giữa lòng thành phố. Đặt dòng sông Hương trong mối
quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn khi nhìn từ cội nguồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có phát
hiện vô cùng mới mẻ, đặc sắc: dòng sông Hương tựa như “một bản trường ca của rừng già”. Khi
nói tới trường ca, người ta sẽ liên tưởng đến một bản nhạc vô cùng phong phú về giai điệu: có
những nốt cao rung động lòng người cũng có những nốt trầm xao xuyến, tiết tấu khi thì mạnh,
nhanh thể hiện cảm xúc mãnh liệt, khi thì chậm rãi, nhẹ nhàng tựa như dòng suối nhỏ róc rách
chảy thấm sâu vào lòng người. Và sông Hương thực sự mang vẻ đẹp đã sắc thái ấy trong đôi mắt
tha thiết yêu, tha thiết nhớ của một tâm hồn rất Huế. Dòng sông ấy, khi thì “rầm rộ giữa những
bóng cây đại ngàn”, khi lại “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, lúc thì “cuộn xoáy như cơn lốc vào
đáy vực bí ẩn” nhưng cũng có khi lại “dịu dàng và say đắm” khi trôi giữa những dặm hoa rừng đỏ
rực như ngọn đuốc. Đặc biệt, thủ pháp đối lập được sử dụng một cách điêu luyện vừa thể hiện
được vẻ đẹp phong phú sắc thái, vừa thể hiện được sức mạnh hoang sơ của sông Hương khi nằm
giữa rừng già, núi non, khơi gợi lên bí ẩn say mê của dòng sông xứ Huế. Cùng viết về dòng sông
với những khám phá độc đáo, đặc biệt về những vẻ đẹp đối lập nhau, Nguyễn Tuân đã vẽ nên vẻ
đẹp hùng vĩ, hiểm trở của sông Đà bằng ngôn ngữ tài hoa, uyên bác, sắc cạnh. “Hùng vĩ của sông
Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông dựng vách thành, mặt sông
chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu....”.
Còn Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông không miêu tả đá bờ sông, không vẽ nên cảnh đá bờ sông cheo
leo nguy hiểm mà ông nhìn con sông Hương như một cô gái với cá tính mạnh mẽ, hoang dã.
Không chỉ dừng lại ở thủ pháp đối lập, bằng biện pháp tu từ nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường
còn thấy sông Hương tựa như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan
dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Chính vẻ đẹp cuồng dã gợi cảm, sự mạnh mẽ man dại của bộ
tộc yêu thích sự tự do được gắn với dòng chảy hoang dã, phong phú sắc thái đã khiến sông Hương
mang vẻ đẹp quyến rũ đắm say một cách kì lạ, bí ẩn. Vẻ đẹp ấy càng sâu sắc thêm khi Hoàng Phủ
Ngọc Tường so sánh vùng thượng lưu sông Hương và khi con sông chảy về miền châu thổ. Trong
cái nhìn đầy suy tư sâu sắc của nhà văn, Sông Hương từ một cô gái dân tộc gợi cảm cuồng dã đã
dần thu mình lại, khoác lên mình “một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến kinh thành Huế - sự
dịu dàng bình yên tựa như phần lắng đọng sâu lắng của tâm hồn mà con người ta luôn hướng tới
sau khi phải trải qua phong ba bão táp. Đến đây, sông Hương đã giấu đi dự man dại, sự phóng
túng tự do của một con người từng trải, ẩn sâu dưới cái vỏ êm đềm, tĩnh lặng, dịu dàng của dòng
sông mang trong mình nét văn hóa, lịch sử của vùng đất kinh kì. Tất cả phần tâm hồn sâu thẳm
nhất, quá khứ tự do, oanh liệt nhất của người con gái ấy dường như đã vĩnh viễn “đóng kín lại ở
cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” để trở thành “người
mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Tóm lại, khi nói về Sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc
Tường không chỉ thấy vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông chốn kinh đô xưa mà nhờ việc ngược dòng
tìm hiểu về cội nguồn của dòng sông, ông đã phát hiện ra một phương diện khác, một vẻ đẹp khác
ẩn sâu hơn – sự phóng khoáng và man dại. Tác giả gọi đó là phần bản chất, phần tâm hồn sâu
thẳm của dòng sông. Đây là một phát hiện bất ngờ và sâu sắc: trong cái dịu dàng, thơ mộng vẫn
ẩn chứa một sức sống mãnh liệt, hoang dại đầy cá tình mà dòng sông ấy đã mãi mãi gửi lại nơi
cửa rừng.
Vẻ đẹp ấy của dòng sông Hương đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua lối hành văn
mang đậm dấu ấn cá nhân: hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Thật vậy, qua từng câu, từng
chữ trong đoạn trích, hình ảnh cái tôi của tác giả hiện lên vô cùng rõ nét. Trước hết, đó là một cái
tôi uyên bác, nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện những vẻ đẹp của sông Hương và
xứ Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường quê gốc không phải ở Huế song ông lại sinh ra ở Huế, lớn lên và
học tập, hoạt động cách mạng ở Huế. Vì thế, ta không thể phủ nhận rằng hơn ai hết, Hoàng Phủ
Ngọc Tường có một tình yêu thương sâu nặng, có một sự gắn bó bền chặt bằng cả trái tim, máu
thịt và tâm hồn mình với mảnh đất kinh đô xưa. Chính vì vậy khi viết những ánh văn về Huế, về
dòng sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ hời hợt nhìn vào vẻ đẹp mà dòng
sông ấy thể hiện ở giữa lòng thành phố mà ông đã tìm hiểu một cách tinh tường và sâu sắc từ
nguồn cội của dòng sông để khám phá và khẳng định những vẻ đẹp riêng, sức quyến rũ riêng của
dòng sông này. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu quê hương tha thiết, sâu sắc của ông trong
từng áng văn viết về sông Hương, xứ Huế, đặc biệt là trong đoạn trích của tác phẩm “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?” Không chỉ có vậy, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thể hiện một cái tôi mê đắm, tài
hòa và vô cùng lãng mạn. Điều đó được thể hiện bởi lối so sánh độc đáo: “Trước khi về đến vùng
châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh
liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên
dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.” Sự độc đáo
trong so sánh vẻ đẹp phong phú của sông Hương với nốt thăng, nốt trầm của một bản nhạc khiến
vẻ đẹp ấy của dòng sông lại càng được tôn thêm nét sang trọng rất riêng biệt của phong cách sáng
tác Hoàng Phủ Ngọc Tường. Không chỉ có vậy, sự liên tưởng đặc biệt cũng là một trong số những
biểu hiện cho sự lãng mạn, tài hoa của nhà văn. Ông đã có những liên tưởng thú vị mang tính sáng
tạo bất ngờ: “Sông Hương sống nửa đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
hay “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không
hiểu một cách đầy đủ bản chất của dòng sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã
vượt qua, không hiểu thấy phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn
bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim
Phụng”. Chính sự liên tưởng mới mẻ đó đã mang đến cho trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường
sự mới lạ, độc đáo và quyến rũ đến lạ kì. Từ đoạn trích thể hiện vẻ đẹp phong phú của sông
Hương vùng thượng lưu, ta cảm nhận được tình yêu say đắm tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc
Tường đối với sông Hương và đặc biệt đối với xứ Huế - nơi mà ông gắn bó hơn ai hết bằng tất cả
máu thịt và tâm hồn mình. Vì vậy, thật không ngoa khi một nhà phê bình văn học từng nhận xét:
“Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên. Tôi muốn
đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ mãn của những trang
viết ấy... Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài
hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như không khác được: viết về sông Hương
là phải vậy, viết về "văn hóa vườn" ở Huế là phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được chọn
lựa cân nhắc kỹ càng, vì hình ảnh được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong phú bất ngờ, mới mẻ.”
Ngoài ra, đoạn trích còn thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt và đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc
Tường: Sự kết hợp giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
Chính nhờ cái nhìn toàn diện về mọi mặt ấy đã giúp ông phát hiện ra vẻ đẹp ẩn giấu mà dòng sông
Hương đã cố ý giấu đi dưới vẻ đẹp hiền hòa, yên bình. Và chính điều đó cũng tạo nên một tác
phẩm bút kí đi vào lòng nhiều thế hệ bạn đọc như “Ai đã đặt tên cho dòng sông.”
Tóm lại, đoạn trích miêu tả vẻ đẹp phong phú về sắc thái của sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt
tên cho dòng sông?” đã thể hiện một cái nhìn độc đáo mang tính phát hiện và nét riêng trong lối
hành văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Chính bởi tình yêu mãnh liệt dành cho sông Hương, xứ
Huế, nhà văn mới có thể viết nên những trang văn hay và sâu sắc tới vậy. Quả đúng là “Hoàng
Phủ Ngọc Tường thì thầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của
Huế.”
2. Sông Hương ở hạ lưu :

Có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu. Con
sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Bởi vậy mà, nó đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận
cho nghệ thuật trong đó có văn chương. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương
chính là tùy bút "ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nổi bật của tác phẩm
này là hình tượng sông Hương đẹp, đầy màu sắc.

Trước hết, sông Hương là "bản trường ca của rừng già". Sông Hương gắn liền với đại ngàn
Trường Sơn hùng vĩ. Con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hùng tráng trữ tình
như bản trường ca bất tận của thiên nhiên: "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng
và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Câu văn dài gợi dậy
cái dư vang của trường ca. "Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Digan
phóng khoáng man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và
trong sáng". Đây là một liên tưởng thú vị độc đáo. Bằng việc ví sông Hương với cô gái Digan,
tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Sông Hương hiện lên như một
con người có cá tính, có tâm hồn với vẻ đẹp hoang dại đầy tình tứ. Khi ra khỏi rừng, "sông
Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng
văn hóa xứ sở". Cách gọi này giúp người đọc có thêm một cách nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp
hùng vĩ đầy chất thơ. Sông Hương còn là một đấng sáng tạo. Nó đã tạo nên, gìn giữ và bảo tồn
văn hóa của một vùng xứ sở.

Nhà văn tiếp tục hình dung sông Hương như "người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu
Hóa đầy hoa dại" được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây, thủy trình của sông Hương
khi nó bắt đầu về xuôi như một cuộc tìm kiếm có ý thức. Người tình nhân đích thực của một
người con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Thủy trình của sông Hương
được miêu tả với sức sống mới, vóc dáng mới. Dòng sông chuyển dòng một cách liên tục, vòng
giữa khúc quanh đột ngột uốn mình qua những đường cong thật mềm. Hành trình khá gian truân,
vượt qua nhiều thử thách: "từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn
Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều,
Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ, xuôi dần về Huế. Những câu văn miêu tả dòng chảy địa lý tự nhiên của dòng sông, biến
dòng chảy ấy trở thành một hành trình của người con gái đẹp duyên dáng.

Vào giữa lòng thành phố, sông Hương "vui tươi hẳn lên giữa những biến bãi xanh biếc". "Sông
Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình". Sông Hương phẳng lặng đã khiến cho
cảnh vật phố Huế trở nên mộng mị, ảo diệu, nhẹ nhàng. Sông Hương như "điệu slow tình cảm
dành riêng cho Huế". Sông Hương như một giai điệu chậm rãi khiến cho mọi cảnh vật, mọi thứ
xô bồ như một phút lặng. Sông Hương còn được ví với "tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Tác
giả đã gợi đến một nét đẹp văn hóa của Huế gắn với dòng sông thơ mộng: nhã nhạc cung đình
Huế. Nhã nhạc phải được biểu diễn trên sông vào đêm khuya mới cảm nhận hết được vẻ đẹp
âm nhạc và màu sắc văn hóa đặc trưng ở nơi đây.

Khi rời khỏi thành phố, sông Hương như một "người tình thủy chung". Khúc ngoặt về hướng
Đông của dòng sông trong con mắt của người nghệ sĩ là biểu hiện của nỗi vấn vương, cả một
chút lẳng lơ kín đáo. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại gặp Kim Trọng để
nói lời thề trước khi đi xa.

Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp
của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy
của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ
mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống
hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương
đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử
mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khả
năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu.

Hình tượng sông Hương hiện lên trong tác phẩm càng khiến cho bạn đọc yêu thêm dòng sông và
muốn được đến thăm thú, nhìn ngắm vẻ đẹp của dòng sông. Đó chính là thành công của Hoàng
Phủ Ngọc Tường

3. Sông Hương với góc độ văn hoá, lịch sử, thi ca :

"Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt, Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào
có được..." Huế là nơi con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau là một, nếu đã đến Huế
chắc hẳn mỗi chúng ta sẽ cảm nhận được điều này. Và có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một
lần ngắm nhìn sông Hương xuôi dòng. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Chính vì
thế mà từ bao giờ nó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn chương nói riêng và nghệ
thuật nói chung. Một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút "Ai đã đặt
tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ngoài vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng mà nó mang
trong mình thì đây còn là một dòng sông gắn với lịch sử đất nước và văn hóa xứ Huế nói riêng.

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương.
Chính vì ông là một con người dành nhiều tình cảm cho xứ Huế nên tâm hồn nhà văn thấm đẫm
đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm
Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường
Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng
chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học
nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.

Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương là dòng "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc" theo dòng thời gian sông Hương là chứng nhân lịch sử, nhà văn đã đưa người đọc trở về
với quá khứ gian truân mà hào hùng của đất nước để cảm nhận được hết nét đẹp này của sông
Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã bao lần làm quân thù khiếp sợ.
Châu Hóa giữ vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên cương của Tổ quốc Đại Việt. Lịch sử đã
gọi nó là Vạn Lí Trường Thành của Phương Nam. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông
Hương là dòng Linh Giang âm vang lịch sử, là dòng sông biên thùy từng chiến đấu oanh liệt để
bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Thế kỉ XVIII nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh
hùng Nguyễn Huệ. Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi
nghĩa. Thế kỉ XX, sông Hương đi vào Cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung chuyển
để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh
niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu
hãnh qua bao thăng trầm lịch sử. Khi hòa bình lặp lại, sông Hương đã trở về cuộc sống đời
thường khi đó nó là một người con gái dịu dàng của đất nước. Xuyên suốt trang văn của mình,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng Hương Giang. Ông đã hiểu
một cách thấu đáo, sông Hương từ cội nguồn của nó cho đến khi đổ ra biển Đông đều gắn với
lịch sử dựng và giữ nước oai hùng của dân tộc.

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chìm trong vẽ đẹp của Hương Giang để phát hiện ra cái nôi
văn hóa của kinh thành Huế đã được khai sinh.Từ đây bằng vốn kiến thức am hiểu sâu sắc về
nhiều lĩnh vực âm nhạc, thi ca văn hóa truyền thống, ông khẳng định '' toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này'' từ nhã nhạc cung đình, ca Huế,
cho đến những điệu hò dân gian, mái nhì, mái đẩy. Ai đã từng nghe ca Huế trên sông Hương
mới có thể cảm nhận hết nét thơ mộng, lãng mạn của hồn điệu dân gian xứ Huế, trong trường
liên tưởng của mình tác giả phát hiện ra mối quan hệ giữa những bản nhạc xưa của Huế với
truyện Kiều của Nguyễn Du để thấy được sự giao thoa tương đồng giữa thơ và nhạc.

Vẻ đẹp của sông Hương không được tô đậm, nếu nhà văn quên đi một dòng sông thi ca. Dòng
sông đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ và họ chưa bao giờ lặp lại mình. Khi nhìn vẻ
đẹp của Hương Giang nó vẫn mãi mãi là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới, thi sĩ
Tản Đà gọi dòng sông xanh biếc ấy là '' dòng sông trắng, lá cây xanh''. Từ một Linh Giang mơ
màng sông Hương còn bảng lảng nỗi sầu vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan. Đó còn là hình
ảnh dòng sông mang tráng khí cao người anh hùng Cao Bá Quát "Trường giang như kiếm dựng
thanh niên". Suy cho cùng vẻ đẹp phong phú biến ảo của Hương giang đã chảy qua những tâm
hồn, những trang thơ, trang văn của người nghệ sĩ làm phong phú thêm mạch nguồn thi ca dân
tộc.

Có người đã từng nói rằng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường rất uyên bác với vốn hiểu biết
phong phú về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật xứ Huế. Đó là sự uyên bác của một nhà Huế học.
Nhận xét đó rất đúng với nhà văn, ông đã mang đến cho người đọc những kiến thức rất mới mẽ,
sâu sắc về văn học Huế. Có lẽ vì yêu mến dòng sông Hương nên vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của
thiên nhiên ấy đã khơi gợi nguồn cảm hứng để những nghệ nhân xưa may trang phục truyền
thống của cô dâu Huế theo đúng màu sương khói trên sông Hương. Họ kết hợp loại vải vằn thưa
màu xanh chàm với màu đỏ để làm nên một màu tím nhân loại của xứ Huế. Sự phát hiện ấy cho
thấy sự am tường về văn hóa Huế đồng thời lối viết rất độc đáo, sáng tạo, bày tỏ được cảm xúc
mến thương dành cho sông Hương và xứ Huế.
******
2. Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn sông Hương chảy vào thành phố Huế:
Những chi lưu của sông Hương làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến dòng sống "trôi đi
chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh", đẹp như một điệu slow chậm rãi, trữ tình
dành riêng cho Huế.
Phép điệp ngữ "chậm", "thực chậm" cùng với hình ảnh so sánh giàu sức gợi "mặt hồ yên tĩnh" đã
khắc họa một trong những vẻ đẹp riêng biệt của sông Hương là dòng chảy yên bình, lặng lẽ.
Dòng chảy đã khiến bao người mê đắm, ngẩn ngơ:
"Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng Huế rất sâu."
Không giống với sông Hương vùng thượng nguồn, lúc "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn", lúc
"mãnh liệt vượt qua ghềnh thác", khi "cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn", sông
Hương khi chảy qua thành phố Huế mang diện mạo hoàn toàn khác. Điều đặc biệt là Hoàng phủ
Ngọc Tường không lí giải quá sâu đặc điểm này của sông Hương về mặt khoa học, mà qua cách
thể hiện của mình, ông đã mang đến cho người đọc một liên tưởng thú vị. Sở dĩ, dòng sông
"dùng dằng", "không chảy" bởi nó dành riêng cho Huế một tình cảm lắng sâu, đằm thắm. Nó
muốn neo lại thật lâu bên người tình mong đợi, người tình mà phải trải qua cả một hành trình
gian truân mới có thể tìm gặp, làm sao nỡ vội rời xa?
Ẩn bớt
3. Nếu so sánh sông Hương như một bản trường ca thì có lẽ, sông Hương khi chảy qua quãng
này chính là những nốt trầm sâu lắng nhất của bản trường ca kia. Phải chăng, chính vẻ trầm mặc
đó của sông Hương, của xứ Huế đã khơi nguồn cảm xúc để những giai điệu da diết ngân lên
trong nhạc phẩm "Huế tình yêu của tôi" :
Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư.
Cái tài của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ, từ một con sông chảy giữa tự nhiên, giữa
đời thường.. ông đã nhìn thấy thần thái của nó, rồi nảy một vài từ "trầm mặc.. như triết lý, như
cổ thi" – chính xác đến vô cùng để người đọc có thể hình dung rõ ràng vẻ đẹp tinh tế ấy của
dòng sông.
Đặt trong văn cảnh cả bài kí, ta có thể lý giải vẻ trầm mặc của dòng sông như một chút lo lắng,
bồn chồn của người con gái trước khi đối diện với người tình mong đợi. Dòng sông – người con
gái như băn khoăn trong lòng: Liệu đã tìm đúng đường về. Vậy nên, vẻ trầm mặc ấy "kéo dài
mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên
kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà." mới tiếp chuyển sang một trạng thái khác..
Ẩn bớt
------
4. Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn sông Hương khi ở thượng nguồn :
Trong tâm thức của mỗi người, dù có đi qua trăm núi, ngàn sông, thì dòng sông quê Hương vẫn
luôn là dòng nhớ, dòng thương vô tận. Với tình yêu sâu nặng dành cho con sông xứ sở, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông bằng cái nhìn đầy ưu ái, có chút "thiên vị" trong câu văn
đầu tiên của bài bút kí. Nhà văn chẳng ngại ngần khi xếp sông Hương ngang hàng cùng những
dòng sông đẹp trên thế giới. Không những vậy, sông Hương còn thuộc về duy nhất thành phố
Huế. Đó là điểm riêng biệt của dòng Hương: Tạo hóa sinh ra sông Hương là để dành riêng cho
thành phố Huế. Nên không phải ngẫu nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường trong suốt bài kí này đã
nhất quán trong việc khắc họa con sông như đã đi cùng Huế bằng cả một mối tình trọn vẹn, nhìn
sông Hương và Huế như một cặp tình nhân lí tưởng, gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn
thuở:
Nếu như chẳng có dòng Hương
Câu thơ xứ Huế nửa đường đánh rơi
(Nếu như chẳng có sông Hương – Huy Tập)
Ẩn bớt
++++
5. Liên hệ mở rộng khi phân tích đoạn mở bài :
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu,
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát.
Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền, vượt thác,
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi."
"Trăm dáng sông xuôi ấy" không chỉ đẹp trong tự nhiên mà còn trở thành những dòng sông gợi
thương gợi nhớ trong trang văn, trang thơ của biết bao người nghệ sĩ. Đó là dòng Vàm Cỏ Đông
trong thơ Hoài Vũ, dòng sông quê hương "xanh biếc" trong thơ Tế Hanh, là "sông Đuống trôi đi
một dòng lấp lánh" trong thơ Hoàng Cầm, là dòng Đà giang "độc bắc lưu" trong tùy bút Nguyễn
Tuân.. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng mang đến cho văn đàn một áng văn tuyệt mĩ mà cảm hứng
được khơi nguồn từ dòng sông xứ Huế thơ mộng: Sông Hương. Trong bút kí "Ai đã đặt tên cho
dòng sông", dòng Hương giang được Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả, cảm nhận qua nhiều
phương diện và trong cả hành trình dài từ thượng nguồn đến khi ra biển cả. Đoạn văn: "Trong
những dòng sông.. chân núi Kim Phụng" khắc họa vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ
với dãy Trường Sơn. Qua đoạn văn người đọc còn cảm nhận được những nét độc đáo, tài hoa
trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ẩn bớt

You might also like