Professional Documents
Culture Documents
7. Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường
7. Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc Tường
I. Mở Bài
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Là người Huế ai cũng đầy lòng tự hào khi có dòng sông Hương thơ mộng chảy qua thành
phố Huế cổ kính với những lăng tẩm, đền đài. Con sông Hương đã chứng kiến bao đổi
thay của lịch sử, sự thăng trầm của cuộc sống. Có lẽ cũng vì điều đó mà sông Hương
cũng đã đi vào thơ ca, nhạc họa rất trữ tình và sâu lắng. Cũng tự nhiên như thế, sông
Hương đi vào trong những trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, để lại thương nhớ
không nguôi trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Tác phẩm đã lột tả được hết vẻ đẹp
và linh hồn của dòng sông Hương, con sông mang đậm đặc trưng và dấu ấn của xứ Huế
mộng mơ. ( Dẫn vào yêu cầu đề )
V. Thân Bài
1. Sông Hương dưới góc độ địa lí
a. Sông Hương ở thượng nguồn
Dẫn :
Nhà văn Lev Tolstoy quan niệm rằng: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của
tình yêu”, với ý nghĩa đó, ta hoàn toàn có căn cứ để khẳng định: Cây bút ký xuất sắc bậc
nhất của nền văn học Việt Nam - Hoàng Phủ Ngọc Tưởng đã dâng hiến trọn vẹn bầu máu
nóng của mình cho xứ Huế. Bởi suốt một cuộc đời cầm bút, ông đã nghiêng hết cho mảnh
đất cố đô này. Khám phá vẻ đẹp của công trình nghệ thuật tạo hóa ban tặng cho xứ Huế,
ta như có một “cuộc thám hiểm” thực sự nở hoa trên trang giấy. Xuôi theo hành trình đó,
Sông Hương ở vùng thượng nguồn là một điểm dừng chân đầy huyền bí.
LĐ1: Bản trường ca của rừng già
Nhìn từ cội nguồn, sông Hương là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy
Trường Sơn, được Hoàng Phủ Ngọc Tường ưu ái mà ví như “bản trường ca của rừng
già”. Nhà văn đã sử dụng tài tình những phép lặp cú pháp kết hợp với các cụm từ có cấu
trúc song hành và tương đồng: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” làm nổi bật các đặc
tính của dòng chảy, cũng là những âm điệu đặc trưng của con sông Hương khi ở giữa đại
ngàn. Các động, tính từ “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy” vừa gợi tả hình ảnh, vừa
gợi tả âm thanh, giúp người đọc hình dung về sự bất thường, dữ dội, hoang dã của con
sông Hương khi ở thượng nguồn, vừa giúp ta hình dung về địa hình hiểm trở, về hành
trình khó khăn mà con sông đã phải trải qua trước khi tìm đến được với thành phố Huế.
Tuy vậy, khi ở thượng nguồn, con sông Hương không phải lúc nào cũng dữ dội,
hoang dã. Nếu ví sông Hương là một bản trường ca, thì bên cạnh những âm điệu mạnh
còn có những âm điệu nhẹ nhàng. Dòng chảy của sông Hương không chỉ có “rầm rộ”,
“mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, mà đôi lúc nó bỗng trở nên “dịu dàng và say đắm”. Đó là một
thoáng bất ngờ của con sông, làm nên vẻ đẹp thơ mộng trữ tình khi dòng sông trôi đi
“giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
LĐ2 : Cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại
Khi đi giữa lòng Trường Sơn, tác giả phát hiện con sông Hương như “một cô gái
Digan phóng khoáng và man dại”. Hình ảnh “cô gái Digan” làm hiện lên trước mắt
chúng ta những cô gái có tâm hồn nghệ sĩ, sống cuộc đời phóng khoáng và say mê, đốt
cháy mình trong những lời ca điệu hát để làm say đắm bao người. Nhìn dòng chảy của
sông Hương rồi liên tưởng đến hình ảnh những “cô gái Digan”, đây quả là một sự liên
tưởng và so sánh vô cùng độc đáo và táo bạo. Tính từ “phóng khoáng” giúp ta hình dung
về một dòng chảy tự do, như một cuộc phiêu lưu ngẫu hứng của sông Hương giữa núi
rừng. Tính từ “man dại” lại gợi lên nét đẹp hoang sơ, nguyên thủy của con sông, nó cũng
cho ta thấy, khi ở giữa lòng Trường Sơn, dòng sông đang tràn trề sức sống thanh xuân,
thể hiện qua dòng chảy mãnh liệt, dữ dội, phấn khích, bất chấp, tạo nên những ghềnh thác
gầm thét vang dội.
Tiếp tục nhìn con sông từ góc độ nhân hóa và liên tưởng so sánh, tác giả nhận ra
rằng, bên trong cái vẻ phóng khoáng và man dại kia là một “bản lĩnh gan dạ, một tâm
hồn tự do và trong sáng”. Cụm từ “bản lĩnh gan dạ” gợi nhắc cuộc hành trình đầy những
thử thách khó khăn của dòng sông, phải vượt qua bao rừng núi, bao ghềnh thách cheo leo,
bao đáy vực bí ẩn. Nhưng dường như nó chưa bao giờ có ý định dừng lại, bởi đối với nó,
đó là một cuộc phiêu lưu kì thú, say mê, làm thỏa mãn tâm hồn luôn rộng mở, khao khát
tự do. Tính từ “trong sáng” vừa gợi hình ảnh sắc nước trong vắt ở thượng nguồn, vừa
cho thấy vẻ đẹp trong lành của dòng sông khi đắm mình giữa thiên nhiên hoang dã và
thuần khiết.
LĐ3 : Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở
Khi ra khỏi rừng, con sông Hương lại có những thay đổi để khoác lên mình một vẻ
đẹp “dịu dàng và trí tuệ” để trở thành “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi này của con sông, nhìn từ phương diện khoa học, là do
cấu trúc đặc biệt của rừng già đã chế ngự sức mạnh của nó. Bị ngăn trở bởi chân núi Kim
Phụng, sức nước của con sông đã không còn được tự do để mà “rầm rộ”, “mãnh liệt”,
“cuộn xoáy” như khi ở thượng nguồn, mà trở nên chậm rãi, êm đềm hơn. Chính điều này
làm nên vẻ đẹp “dịu dàng” của dòng sông. Không những thế, từ góc độ nhân hóa, Hoàng
Phủ Ngọc Tường còn nhận thấy con sông giờ đây trở nên “trí tuệ”. Cách nói này ám chỉ
sự trầm tĩnh của dòng chảy. Nó không còn phiêu lưu ngẫu hứng, dữ dội ầm ào nữa, mà
dường như đang lắng lại để suy ngẫm về hướng đi và đích đến của mình trong tương lai.
Từ một cô gái phóng khoáng, bồng bột, giờ đây, sông Hương dường như đã trưởng thành,
để chuẩn bị cho một sứ mệnh thiêng liêng: bồi đắp phù sa để sinh hạ ra cả “một vùng văn
hóa xứ sở”.
Qua quan sát dòng chảy của sông Hương ở thượng nguồn, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã nhận ra một vẻ đẹp khác của sông Hương, khác hẳn với “khuôn mặt kinh thành” của
nó. Trước khi trở thành một con sông “nước êm trôi lững lờ” với dòng chảy như một
“điệu slow tình cảm”, sông Hương cũng đã trải qua một đời sống dữ dội và oanh liệt.
Trước khi về được với vùng châu thổ êm đềm, nó đã phải trải qua cả một hành trình đầy
vất vả gian truân. Với việc miêu tả đặc trưng của sông Hương ở thượng nguồn, Hoàng
Phủ Ngọc Tường muốn cho ta một cái nhìn đầy đủ, để hiểu hơn về bản chất của con sông,
từ đó hiểu hơn về văn hóa và con người xứ Huế. Con sông Hương cũng thâm trầm như
nếp sống của những con người nơi đây, nhưng ẩn sâu dưới vẻ thâm trầm ấy là một tâm
hồn phóng khoáng với những tình cảm mãnh liệt, chỉ có điều, vì tính tình kín đáo nên
không bộc lộ ra, cũng như con sông Hương đã đóng kín phần sâu thẳm của tâm hồn mình
và “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” trước khi ra khỏi
cửa rừng già.
Tiểu kết :
Bằng những hình ảnh đầy ấn tượng kết hợp với việc sử dụng biện pháp tu từ nhân
hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi ra những tính cách đầy độc đáo của sông Hương ở
thượng nguồn. Ngay từ đầu trang viết, người đọc đã cảm nhận được sự tài hoa của ngòi
bút của ông: liên tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm... tất cả tạo sự cuốn hút, hấp
dẫn về một con sông có linh hồn. Nhà văn nhìn sông Hương không chỉ như một dòng
chảy tự nhiên mà còn ví nó là một quần thể sống, như một con người với vẻ đẹp tâm hồn
sâu thẳm, đầy nữ tính và mang những nét cá tính riêng.
b. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
Dẫn :
Nhà văn Nga Pautopxki từng khẳng định: “Nhà văn chân chính là người dẫn
đường đến xứ sở của cái đẹp”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ hấp dẫn ta bằng
hình ảnh con sông Hương ở thượng nguồn với những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính, ông
còn miêu tả hình ảnh con sông với một cuộc hành trình đầy khó khăn, thử thách trước khi
trở thành người tình dịu dàng, chung thủy của cố đô.
LĐ1: Người gái đẹp của cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dạ
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khéo léo gợi nhắc khoảng thời gian dài đằng đẵng từ
quá khứ đến thực tại “Phải nhiều thế kỉ trôi qua”, mở ra một khoảng không mơ màng,
yên ắng lạ kì. Nhắm mắt mường tượng nên hình ảnh dòng sông như đang kéo lê dòng
chảy của mình qua nhiều thế kỉ để rồi nó trở nên nhẹ nhàng, sâu lắng. Sông Hương ví như
“người tình mong đợi đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Câu văn dùng phép so sánh gợi không khí mơ màng huyền
diệu như cổ tích. Nó vừa cho thấy dòng chảy êm đềm của sông Hương, vừa làm nổi bật
vẻ đẹp yên bình hoang sơ của quang cảnh thiên nhiên vùng Châu Hóa.
LĐ2 : Dòng chảy của sông Hương dưới góc nhìn địa lí và hội họa
Nhưng dù trong giấc ngủ mơ màng ấy, con sông Hương vẫn không thôi khao khát
tình yêu. Nên khi vừa ra khỏi vùng núi, nó đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa
những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dưới cái nhìn
nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi đó là “một cuộc tìm kiếm có ý thức” đầy màu sắc
lãng mạn để tìm gặp người tình, “thành phố tương lai” của nó. Trong cuộc tìm kiếm có ý
thức ấy, sông Hương đã di chuyển qua rất nhiều vùng đất. Phép liệt kê các địa danh cộng
với việc sử dụng dày đặc các động từ miêu tả dòng chảy cho thấy sông Hương đã thực
hiện một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi. Mỗi khi gặp phải khó khăn, nó không nản lòng,
mà tiếp tục tìm đường đi mới, với một khát khao cháy bỏng là để gặp được người tình
trong mộng của mình.
Dù đã ra khỏi cửa rừng, nhưng sông Hương vẫn “đi trong dư vang của Trường
Sơn”, nghĩa là vẫn trôi đi giữa một vùng địa hình nhiều đồi núi với “những dãy đồi sừng
sững” và “những điểm cao đột ngột” . Từ những điểm cao này, con sông Hương đẹp như
một bức tranh thủy mặc với hình dáng uốn lượn “mềm như tấm lụa, với những chiếc
thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi”. Màu sắc cũng là một yếu tố tạo nên vẻ đẹp
của con sông Hương ở vùng ngoại vi thành phố. Đó là sắc nước xanh thẳm do phải “vượt
qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản”. Nó gợi ta nhớ đến “dòng xanh ngọc
bích” của con sông Đà vào mùa xuân trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân. Đó còn là màu sắc biến ảo theo từng thời điểm trong ngày “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím” do sự phản quang của cả mặt sông, ngọn núi và bầu trời.
LĐ3: Vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi
Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế, đến đây, như đang nép mình bên giấc
ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch.
Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông như bỗng trở nên nghiêm trang hơn, nó như
khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông
hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong
ngày hôm nay? Trên hành trình của một con sông mềm mại như lụa, nhà văn đã “hướng
ống kính máy quay” ra không gian xung quanh hai bên bờ sông. Hình ảnh thu được là
không gian văn hóa Huế thể hiện ở thiên nhiên và những lăng tẩm đền đài của vua chúa
thời Nguyễn. Sông Hương đi trong vẻ đẹp của thiên nhiên Huế và chính nó lại là tấm
gương phản chiếu nét đẹp của cảnh quan đất trời hai bên bờ sông. Không có sông Hương,
những cảnh sắc ở ngoại vi Huế vẫn có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp ấy sẽ mất đi cái long
lanh, cái đa sắc màu. Sông Hương chính là “trung tâm cảnh”, là linh hồn của vùng cố đô.
Tiểu kết :
Với tình yêu sâu sắc con sông Hương của xứ Huế và một cây bút nhất mực tài hoa
am hiểu văn hóa, văn học, tác giả đã viết những câu văn như mộng về vẻ đẹp trầm mặc
của con sông Hương, như nói lên tính cách con sông. Thủy trình của sông Hương khi bắt
đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình nhân đích thực của một người
con gái đẹp trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích, gắn với những thành
quách, lăng tẩm của vua chúa từ ngàn xưa.
c. Sông Hương trong lòng thành phố Huế
Dẫn :
Nhà phê bình văn học Lê Ngọc Trà nhận định: “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng
nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư”, đến với vẻ đẹp của
sông Hương, ta thấy tất thảy những tâm tư tình cảm của nhà văn. Trải qua cuộc hành trình
vạn dặm, sông Hương đắm mình trong Huế thật lâu, quấn quýt hòa quyện vào nhau như
thỏa nỗi mong đợi.
LĐ1 : Khi sắp vào thành phố Huế
Khi sắp vào thành phố Huế, con sông Hương như được đánh thức, không còn mơ
màng nữa mà mang một vẻ đẹp vui tươi: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, con sông
Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”.
Theo nghĩa tả thực, sự vui tươi của con sông có được là do nó đã ra khỏi những rừng
thông u tịch. Giờ đây nó trôi đi giữa những xóm làng trung du đầy âm thanh và hơi thở
của sự sống. Nhưng từ góc nhìn nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường xem tâm trạng vui
tươi ấy là do nó đã “tìm đúng đường về”, đã nhìn thấy bóng dáng của người tình mong
đợi, đó là thành phố Huế, mà dấu hiệu chính là “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần
trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non”. Cũng vì đã nhìn thấy người tình mong
đợi, con sông thôi không còn trăn trở băn khoăn nữa, mà trở nên tự tin, mạnh dạn, “kéo
một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”. Đó là một dòng chảy
thẳng, không còn quanh co uốn khúc liên tục, không còn phải ngóng trông, tìm kiếm như
lúc dòng sông vừa ra khỏi cửa rừng nữa.
LĐ2 : Khi giáp mặt thành phố Huế
Khi giáp mặt thành phố Huế, sông Hương mang vẻ đẹp e ấp, dịu dàng. “Giáp mặt
thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến; đường
cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi”. Về mặt địa lí, đường cong ấy là do dòng chảy
vấp phải vật cản, và đang chảy thẳng, khi bị uốn cong, quả thật hình dáng dòng sông trở
nên mềm mại hơn. Nhưng từ góc độ nhân hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường xem đó là một
thoáng thẹn thùng của con sông khi giáp mặt người tình. Đó là một tiếng “vâng” không
nói ra của tình yêu. Dù im lặng không nói, nhưng đó là sự im lặng ngụ ý bằng lòng. Bằng
cái nhìn tài hoa, lãng mạn, giàu liên tưởng, tác giả đã giúp người đọc hình dung về một
dòng sông không chỉ có tâm trạng, mà còn có phong cách, dáng điệu: phong cách của
một cô gái Huế kín đáo, e thẹn, dễ thương. Lối hành văn mê đắm, tài hoa đã biến sông
Hương thành một cô gái Huế đa tình mà duyên dáng, kín đáo; thuận tình mà ý tứ, e lệ.
LĐ3 : Khi nằm trong thành phố Huế
Dòng chảy của sông Hương
Sông Hương trong lòng thành phố không chảy nhanh như sông Nê-va mà nàng
chảy “chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh” như một điệu slow tình
cảm dành riêng cho Huế vậy. Ta cảm nhận dòng sông Hương như một cô gái đang độ yêu
đương say đắm, muốn sống mãi trong vòng tay của người yêu, không nỡ xa rời. Sông
Hương là tất cả những gì người dân xứ Huế có, họ yêu mến dòng sông đã gắn bó suốt bao
đời. Cũng chính vì yêu mến dòng sông, muốn nàng ở lại bên mình thật lâu cùng góp mặt
trong các hoạt động thường ngày nên họ đã đào những “nhánh sông mang nước Hương
giang tỏa đi khắp phố thị” từ đầu đến cuối kinh đô:
“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ”
So sánh với các dòng sông trên thế giới
Dân tộc Việt Nam tự hào vì có loài hoa, dù trong bùn lầy vẫn tỏa ngát hương thơm,
như người dân xứ Huế tự hào về dòng Hương giang được sánh ngang với các dòng sông
nổi tiếng trên thế giới. Sông Xen của Pa-ri quả thơ mộng, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét
cũng không kém cạnh với sự lặng lẽ vốn có, hay sông Nê-va ở Nga, một dòng sông mang
ý nghĩa lớn trong lịch sử của châu Âu. Các dòng sông này, cùng là nhịp cầu thổn thức của
các thành phố, vì đều chảy trong lòng thành phố. Nhưng trải qua bao thăng trầm của đất
nước cùng những đổi thay của nhân loại, nàng Hương vẫn ngẩng cao đầu đầy kiêu hãnh,
bởi “trong tổng thể nàng vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông” mà
không một dòng sông nào có được.
d. Sông Hương khi rời xa thành phố Huế
Dẫn : Nếu nói bình rượu hồi của thế gian là phải làm cho người ta say từ chén đầu đến
chén cuối, thì hành trình đi tìm vẻ đẹp sông Hương cũng thuận theo cái lẽ tự nhiên ấy.
Cái dáng điệu đắm say, ngây ngất của dòng sông còn ánh lên khi nó sắp phải từ giã thành
phố yêu thương, thân thuộc.
LĐ1: Tâm trạng lưu luyến
Sông Hương rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh
năm mơ màng trong sương khói, xa dần thành phố. Sông Hương luyến lưu, bịn rịn, tình
yêu và nỗi nhớ trải dài không nỡ rời xa, nàng “ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và
của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”, cái vườn cau đã xuất hiện trong thơ Hàn Mặc
Tử, nay đã làm sông Hương quyến luyến:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Sự lưu luyến ấy làm cho ta hình dung về tình yêu sâu nặng của con sông với kinh thành,
sự bịn rịn nhớ thương không nỡ xa rời. Cách nói “ôm lấy đảo Cồn Hến” thật giàu sức
gợi, nó như là một sự âu yếm sau cùng mà con sông dành cho Huế, một cái ôm tạm biệt,
một cái ôm da diết nhớ thương. Mà cũng đúng thôi, người con gái ấy đã vượt cả một
hành trình đầy thử thách và dài đằng đẵng để gặp được người tình trong mộng. Giờ phải
chia xa, thật khó khăn biết nhường nào.
LĐ2: Khúc quanh bất ngờ
Sông Hương như “sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ
sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”.
Trong cái nhìn lãng mạn của một trái tim đa tình, sông Hương trở thành “người con gái
dịu dàng và chung thủy”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra sự trở lại để gặp mặt
lần cuối góc phố cổ kính mang dấu ấn thời gian, mặc dù lúc này sông Hương đã rời khỏi
kinh thành Huế chếch về phía Bắc xa dần thành phố. Tác giả gọi đây là “nỗi vấn vương,
cả một chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu”. Trong trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường
dòng sông kia không còn là vật thể vô tri, vô giác mà nó còn có cảm xúc, có nỗi buồn có
sự thủy chung và nỗi nhớ nhung, lưu luyến.
Việc miêu tả cái khúc quanh kì lạ này của sông Hương so với hướng chảy trước đó của
nó là một phát hiện độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường, và độc đáo hơn khi sự phát
hiện ấy đã giúp ông nhận ra sự tương đồng của dòng sông và tâm hồn của con người xứ
Huế: những con người giàu tình nặng nghĩa nên cứ mãi vấn vương khi phải chia tay,
những con người đa tình, chất chứa trong lòng nỗi say mê mãnh liệt nhưng lại luôn thâm
trầm, kín đáo. Với tư duy đa chiều và óc liên tưởng tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi
nơi mà con sông trở lại ấy là “chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình”, nơi
thành phố cũng không nỡ rời xa con sông mến yêu, đã sắp sẵn tiệc rượu để mà được ngồi
lại cùng nhau thêm chút nữa.
Khúc quanh kì lạ ấy của dòng sông cũng khiến tác giả liên tưởng đến “nàng Kiều trong
đêm tình tự” đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng, để nói một lời thề”: “Còn non, còn
nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Đó là lời thề thể hiện tấm lòng chung thủy của dòng
sông, nguyện mãi mãi chỉ yêu thương một thành phố duy nhất. Đồng thời, mượn hình ảnh
đó, tác giả cũng nói tới tấm lòng chung tình gắn bó của con người nơi đây đối với quê
hương xứ sở. Nỗi lòng ấy thấm đẫm trong những câu hò dân gian vang vọng khắp một
vùng lưu vực của dòng sông:
“Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ sông Hương gió mát, nhớ Ngự Bình trăng trong”
2. Sông Hương dưới góc nhìn lịch sử, đời thường, âm nhạc và thi ca
a. Góc nhìn lịch sử
Dẫn : Nhà văn Maksim Gorky cho rằng: “Mỗi người đều mang trong mình nhiệm vụ của
người nghệ sĩ”, và Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không vì đam mê thế giới văn chương
mà quên đi thiên chức của mình. Ông đã huy động toàn bộ vốn tri thức lịch sử và văn hóa
đủ cả Đông Tây kim cổ vào từng trang viết, tạo nên những liên tưởng vừa rộng vừa sâu.
Đó là một dòng sông của những chiến công hiển hách, là vùng đất truyền thống cố đô
xưa.
LĐ1 : Những thế kỉ trước
Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp sông Hương dưới góc độ lịch sử thì ta có thể khẳng định
rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hóa Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương
trôi ở hiện tại, ngày ngày mang phù sa vun đắp cho cánh đồng Châu Hóa và mang nguồn
nước ngọt trao tặng cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như
là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần, cho những hào hùng trong suốt chiều dài lịch
sử của dân tộc. Từ thời các vua Hùng, sông Hương đã là “một dòng sông biên thùy xa xôi
của đất nước”; trong sách địa dư của Nguyễn Trãi: sông Hương từng mang tên Linh
Giang, nó “chiến đấu một cách oanh liệt để bảo vệ vùng biên giới phía Nam của Tổ
quốc”. Ở thế kỉ XVIII, XIX; nó “vẻ vang soi bóng kinh thành” và “sống hết lịch sử bị
tráng của dân tộc với những cuộc khởi nghĩa đẫm máu”.
LĐ2 : Thời hiện đại
Không dừng lại ở đó, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ, nó đã chứng kiến những chiến công long trời lở đất thời Cách mạng tháng Tám năm
1945, nó cổ vũ nồng nhiệt cho cuộc nổi dậy tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân năm
1968, nó đau đớn hứng chịu sự tàn phá khốc liệt của đế quốc Mĩ những năm 1975. Sự
mất mát mà sông Hương hay chính thành phố Huế gánh chịu nói riêng và của đất nước
nói chung “cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu
Âu” khi “các nhà thờ bị phá hoại”, như chính người Mĩ đã từng rất phẫn nộ khi nhận xét
như vậy, đơn giản vì “Huế là một thành phố kết hợp tất cả từ lịch sử, văn hóa, học thuật
và về chính quyền, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin,...”. Sông
Hương là một nhân chứng lịch sử đi cùng những đổi thay, gắn bó với biết bao thăng trầm
của thành phố Huế. Đúng như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu về sông Hương
và Huế: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng một nét tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ
những đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc” trong cuộc tiếp đón ở Thành ủy Huế
chào mừng đoàn đại biểu của Hội nghị tổng kết.
b. Góc nhìn đời thường
Sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ
lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi
nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.
Đọc những dòng này, bỗng dưng ta liên tưởng đến người lái đò sông Đà lão luyện cũng
từng góp mình vào những “chiến công” khi vượt qua dòng thác hung tợn, rồi khi gác tay
chèo, ông lại trở về với cuộc sống bình dị, đời thường giản đơn. Phải chăng những điều gì
quá đỗi đặc biệt đều đến từ sự chuyển hóa mình để luôn phù hợp với hoàn cảnh? Để luôn
khiêm nhường với mọi điều xung quanh? Nhà văn đã quan sát, nhìn ngắm, yêu và hiểu
sông Hương bằng tất cả trái tim mình, để rồi chắc chắn “Sông Hương là vậy” một cách
đầy trân trọng. Trong góc nhìn của Hoàng Phủ, nàng Hương vừa là một người con gái
kiên cường với bao chiến công hiển hách, gắn mình với lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc; khi trở về cuộc sống đời thường, nàng Hương càng giản đơn và dịu dàng như
cách một cô gái Huế e lệ duyên dáng trong tà áo dài mộng mơ trên đường phố cố đô.
Hình ảnh dòng sông và văn hoá Huế cứ quyện vào nhau mãnh liệt và đầy ắp, khiến người
đọc như đắm chìm trong vẻ đẹp tuyệt mĩ đó của Hương giang.
c. Góc nhìn âm nhạc và thi ca
LĐ1: Nền âm nhạc cổ điển
Không phải ngẫu nhiên mà “ca Huế” trên sông Hương lại được UNESCO công
nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, mà ở đó là “cả một nền âm nhạc cổ điển
được hình thành và phát triển song hành với những sinh hoạt âm nhạc cung đình từ đời
các vua chúa thời Nguyễn, trải dài suốt mấy thế kỉ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường thật tài tình
khi khắc họa sông Hương như “một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, một hình ảnh
vừa thể hiện được vẻ đẹp bí ẩn, âm vang của nàng Hương dưới cái khoảnh khắc trùng lại
của vùng sông nước, vừa thể hiện vẻ tài hoa, sâu lắng của mảnh đất cố đô và tâm hồn của
con người cùng cuộc sống nơi đây. Ông còn thật tinh tế và tài hoa hơn nữa khi liên tưởng
tới một người nghệ nhân già chơi đàn gần nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc
Kiều:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nữa với”
đã nhồm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách mà nói: “Đó là Tứ đại cảnh”. Nói về sự gắn bó
của sông Hương và thành phố của nó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn hình tượng của
cặp tình nhân ý tưởng Kim- Kiều để so sánh. Bóng dáng nàng Kiều năm nào dưới ngòi
bút của đại thi hào Nguyễn Du lại xuất hiện: “bao năm lênh đênh trên quãng sông này
với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Đây là một cách
liên tưởng độc đáo, tài hoa đến lạ kì nó mang đến cho người đọc những xao xuyến, “tìm
kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với nhau
trong một tình yêu muôn thuở”. Những lời hoa mỹ ấy, trong một khuôn khổ nhất định, cụ
thể là bài ký này, ta cũng có thể nói như vậy về sự gắn bó của Hoàng Phủ Ngọc Tường về
ký, về xứ Huế.
LĐ2: Văn chương, thi ca
Nhắc đến Sông Hương là nhắc đến dòng chảy giao hòa của những hồn thơ lai láng
và bền bỉ của bao thế hệ. Con người Huế với nét văn hóa “đặc sệt” từ giọng nói, dáng đi,
điệu ca... và cả những nét trầm tư cũng riêng biệt đã làm nên sự độc đáo mà vẫn giữ nét
truyền thống. Nơi đây đã nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn cho biết bao văn nhân, thi sĩ và
những tạo nhân mặc khách dẫu chỉ đôi lần đặt chân đến Huế.
Nhiều ý kiến cho rằng: Hoàng Phủ Ngọc Tường ưu ái cho Huế với những cảm hứng,
những khám phá độc đáo là lẽ thường tình. Nhưng không, mỗi nhà thơ khi đặt chân đến
Huế đều có một khám phá riêng về dòng sông này, để nhận xét một cách công bằng thì
“dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Bởi trong
cái nhìn tinh tế của Tản Đà, đó là “dòng sông trắng - lá cây xanh”, hay trong cái khí
phách của Cao Bá Quát khi xưa đã có sự ví von độc đáo và đầy hào khí của kẻ sĩ trước
non sông gấm vóc:
“Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng
Sông dài như kiếm dụng trời xanh”
Trong hồn thơ đa sầu đa cảm của Bà Huyện Thanh Quan thì nó như “nỗi quan vạn cổ với
bóng chiều bảng lảng”. Hàn Mặc Tử là nhà thơ có nhiều tình cảm đặc biệt với Huế, cũng
tôn vinh sông Hương như một dải ngân hà giữa chốn trần gian:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chỗ trăng về kịp tối nay...”
Dù trong bất cứ trang văn của thi sĩ nào thì sông Hương cũng mang một vẻ đẹp khiến
người khác phải ngỡ ngàng và say đắm chẳng thể dứt.
3. Giai thoại về dòng Hương giang
Dẫn : Leonop Leonit khẳng định: “Một tác phẩm nghệ thuật phải là một phát minh về
hình thức, một khám khá về nội dung”. Để nội dung cập bến tâm hồn người thưởng thức,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khéo léo truyền tải vẻ đẹp của dòng sông qua những câu văn
dài hơi, uốn lượn và biến đổi không ngừng. Nhà văn đã sử dụng mượt mà những so sánh,
ví von, câu văn có nhịp điệu ngọt ngào tựa như lời ca xứ Huế khoan thai, hình ảnh trong
trẻo tuyệt vời. Cùng với đó là một lối hành văn hướng nội mê đắm và tài hoa kết hợp với
trí tưởng tượng bay bổng đã hòa quyện kết tinh nên một sông Hương để thương, để nhớ.
Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường
trên mọi phương diện, từ những câu chữ thơm thảo trên giấy, đến vốn kiến thức sâu rộng,
hay trong trí tưởng tượng của tác giả về giai thoại dòng Hương giang. Lý giải về cái tên
thơ mộng này, giới nghiên cứu cho rằng: “Xưa nay, người ta thường gọi tên một con
sông bằng tên của vùng đất mà nó chảy qua. Vào các thời kì lịch sử nói trên, khi vùng
đất ấy còn mang tên là huyện Kim Trà thì con sông chúng ta đang nói đến là huyện Kim
Trà. Sau đó, khi tên huyện đổi thành Hương Trà thì tên sông cũng đổi theo: sông Hương
Trà. Từ sông Hương Trà đến sông Hương chỉ còn một bước, vì trong, bất cứ ngôn ngữ
nước nào, dân gian thường hay rút gọn. Và chăng, hai chữ sông Hương đẹp quá, giới
văn chương trí thức cũng không muốn gì hơn”. Còn trong cách lý giải của nhà văn:
Người làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: vì yêu quý con sông xinh
đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng
sông làm cho làn nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho. Dù theo cách hiểu nào, thì cái tên
sông Hương hay Hương giang cũng quá đủ để làm nổi bật những gì thuộc về Huế. Còn
trong bút ký xin lấy nguyên văn cách lý giải của nhà văn để giải đáp cho câu hỏi từ nhan
đề.