You are on page 1of 6

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

(trích)
Hoàng Phủ Ngọc Tường
Các đề văn:
Đề 1:Phân tích đoạn Sông Hương ở thượng nguồn
Đề 2:Phân tích đoạn Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
Đề 3:Phân tích đoạn Sông Hương giữa lòng thành phố Huế
Đề 4: Phân tích đoạn Sông Hương giữa lòng thành phố Huế
 HS lưu ý đề 2, 3
I. Mở bài
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn xứ Huế, ông là một trong những nhà văn đặc biệt thành công ở thể loại bút
ký.
- Ai đặt tên cho dòng sông, là bài bút kí xuất sắc viết tại Huế 1981, tác phẩm làm nổi bật vẻ đẹp trầm tích của
sông Hương ở các phương diện lịch sử, địa lí và văn hóa.
- Đoạn trích từ “…”, đến “…” đã làm nổi bật (lệnh đề chính/ phụ)
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến
thức phong phú về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích,
mê đắm và tài hoa.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông là đoạn trích thuộc phần thứ nhất của tác phẩm. Hình tượng sông Hương là biểu
tượng cho vẻ đẹp của cảnh và người đất kinh thành trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi
ca.
- Đoạn trích …đã cảm nhận vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn/ hoặc ngoại vi thành phố Huế/ giữa lòng
thành phố Huế/ ra biển cả.
2. Phân tích vẻ đẹp sông Hương từ góc nhìn thiên nhiên
a. Sông Hương ở thượng nguồn
-Câu văn mở đầu đoạn trích là lời nhận xét mang đậm tính chủ quan của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường:
“Trong những dòng sông đẹp của các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như chỉ có sông Hương là đẹp đẽ
nhất.
+ Với cụm từ “Trong những dòng sông đẹp”, tác giả đã khẳng định: Sông Hương đẹp
+ Tác giả có niềm tự hào khi nói về sự độc đáo của dòng sông Hương ấy: “Chỉ có sông Hương” thuộc về
một thành phố duy nhất. Như vậy, lời mở đầu đã thể hiện tình cảm kiêu hãnh
* Sông Hương - “bản trường ca của rừng già”
-Nói tới sông Hương của xứ Huế, người ta thường nghĩ tới sự phẳng lặng êm đềm. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại ngược dòng để trở về với cội nguồn đại ngàn để khám phá vẻ đẹp dữ dội. Ở khúc thượng nguồn, sông
Hương hiện ra với vẻ đẹp hoang dại, đầy cá tính, mạnh mẽ, phóng khoáng nhưng vẫn giữ được nét dịu dàng và
say đắm → Ở đây tác giả đã so sánh sông Hương với bản trường ca của rừng già
+ Hai chữ trường ca gợi liên tưởng đến áng văn chương đồ sộ mang ảnh hưởng ngợi ca
+ Hai chữ “rừng già” gợi hình ảnh những cánh rừng hoang sơ bí ẩn, mênh mông
+ Dòng sông mang trong mình tất cả những sắc thái của rừng già. Khi “Rầm rộ giữa những bóng cây đại
ngàn mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc những dặm dài chói lọi màu đỏ của qua đỗ quyên rừng”.
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện đôi bàn tay họa sĩ khéo léo và tài hoa khi ông phối sắc đỏ chói lọi
của màu hoa đỗ quyên rừng vào giữa màu xanh mênh mang của rừng già và sông nước. Vậy là trong cái lạnh
lẽo âm u thì lại xuất hiện ngọn lửa ấm nóng của hoa đỗ quyên rừng khiến cho con sông bỗng trở nên lung linh
rực rỡ và tỏa sáng
* Sông Hương tựa như cô gái Digan phóng khoáng và man dại
-Khi còn ở thượng nguồn, sông Hương được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh và nhân hóa như cô gái
Digan phóng khoáng và man dại
+ Hình ảnh cô gái Digan là hình ảnh đặc sắc, gợi tả về những cô gái xinh đẹp, vừa ca hát nhảy múa sống
cuộc đời tự do. Tính cách phóng khoáng của những con người luôn tự do đã khiến cho người đọc khắc sâu ấn
tượng về một dòng sông vừa quyến rũ vừa tình tứ
+ Cụm từ phóng khoáng man dại, lại được làm rõ bằng bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng đã
làm nổi bật tính cách mạnh mẽ và phóng túng của dòng sông
⇒ Như vậy sông Hương trong liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tưởng luôn quyến rũ đắm say, luôn mang
cho mình vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống
* Sông Hương tựa như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở
-Nhà văn đã lý giải vẻ đẹp của sông Hương khi ở khúc thượng nguồn, không chỉ bằng kiến thức địa lí đơn thuần
mà cần bằng cả cái nhìn suy tư thấm đẫm tình yêu. Trong cái nhìn ấy, sông Hương tựa như “Người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi ra khỏi Trường Sơn, sông Hương nhanh chóng mang vẻ đẹp dịu dàng và trí
tuệ. Sự dịu dàng như một bến bình yên sau những thác ghềnh sóng gió, cái vẻ trí tuệ sau những trải nghiệm gian
truân. Từ cô gái, nhà văn đã nâng lên thành người mẹ dịu dàng và trí tuệ như thế.
-Hình ảnh vừa so sánh vừa liên tưởng đã gợi nhắc đến “công tạo hóa” của sông Hương đối với xứ Huế. Ròng
công ngày đêm âm thầm lặng lẽ bồi đắp phù sa để ngày nay chúng ta có Huế là một vùng văn hóa xứ sở, là một
kinh đô vừa thăng trầm cổ kính lại vừa xinh đẹp và quyến rũ. Không quá khi ta khẳng định rằng, nếu không có
sông Hương thì ta không thể có Huế mộng mơ.
-TL: Đoạn văn với những câu văn dài, được ngắt vế liên tục kết hợp với thủ pháp so sánh nhân hóa điệp cấu
trúc, cách dùng từ ngữ giá trị gợi tả gợi cảnh cho người đọc thưởng thức hình ảnh dòng sông Hương khúc
thượng nguồn vừa trẻ trung, tràn đầy sức sống, vừa đằm thắm kín đáo và vô cùng sâu lắng
⇒ Đoạn trích cho ta thấy một tình cảm đặc biệt của Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương nói riêng và
xứ Huế nói chung. Nhà văn đã viết về sông Hương bằng kiến thức về địa lý và bằng cả trái tim thương yêu của
mình.
2. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
* Chuyển ý: Nếu hình tượng sông Hương ở thượng nguồn mang vẻ đẹp hùng vĩ mạnh mẽ và phóng khoáng thì
khi về đến ngoại vi thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp trẻ trung, tràn đầy sức sống, vừa trầm mặc như triết lí,
như cổ thi.
* Trước hết, qua ngọn bút mê đắm và tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì sông Hương trong đoạn trích
trên đã thể hiện vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống khi về đến ngoại vi thành phố:
-Trong cái nhìn tình tứ của nhà văn, toàn bộ hành trình của sông Hương, từ thượng nguồn tới Huế giống như
một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cô gái đẹp trong câu chuyện về tình yêu.
-Khi ở cửa rừng, vẻ đẹp của sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh, nhân hóa, viễn tưởng “Như
người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu Á đầy hoa dại”.
+ Hình ảnh “Người con gái đẹp” gợi cho ta hình dạng về một cô gái xinh đẹp, duyên dáng và yêu kiều. Và như
thế, với Hoàng Phủ Ngọc Tường. sông Hương chính là một cô gái yêu kiều ấy
+ Giữa cánh đồng châu Á đầy hoa dại, sông Hương hiện ra một vẻ đẹp tràn đầy sức sống khi vừa bừng tỉnh sau
giấc ngủ dài trong cánh rừng sâu, vươn mình ra khỏi rừng núi âm u trầm mặc để bắt đầu một cuộc tìm kiếm
người tình nhân đích thực. Vẻ đẹp trẻ trung đó thể hiện trong vóc dáng mới, sức sống mới đầy khao khát và lãng
mạn: “Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục”, “vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo đường
cong”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “Trôi đi giữa những dãy đồi sừng sững như thành quách” ⇒ Những trang
từ “liên tục, đột ngột” đã miêu tả sự đổi dáng đầy băn khoăn, khiến ta liên tưởng đến tâm trạng băn
khoăn, bối rối, trăn trở của người con gái đẹp sông Hương trước khi gặp gỡ người tình Cố đô. ⇒ Nhà văn
sử dụng hàng loạt các động từ mang sắc thái nhân hóa để vẽ nên một hành trình sống động: Chuyển dòng, vòng
giữa, uốn mình, ôm lấy khiến cho sông Hương trở nên duyên dáng hẳn, yêu kiều hẳn. ⇒ Những câu văn dài nối
tiếp nhau lại được ngắt vế liên tục làm nên dòng chảy miên man của sông Hương, vừa mạnh mẽ với những dư
vang của Trường Sơn còn phảng phất, vừa duyên dáng với những khúc lượn vòng mềm mại đầy nữ tính.
⇒ Những địa danh riêng xuất hiện dày đặc trong đoạn trích này: Núi Ngọc Trản, bãi Nguyệt Biều - Lương
Quán, điện Hòn Chén, đồi Thiên Mụ,... để thấy được trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của
Cố đô thì sông Hương đã phải trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách. Nhưng chính trong thủy trình
gian truân ấy, qua cách miêu tả tài hoa và cái nhìn tình tứ của nhà văn thì sông Hương lại có cơ hội phô khoe tất
cả những vẻ đẹp của mình, từ những đường cong tuyệt mĩ trên thân hình mềm mại, kiều diễm cho đến những âu
yếm nồng nàn trong tâm hồn người con gái đang khao khát đắm say tìm đến tình yêu. ⇒ Thông qua những địa
danh trên, chúng ta thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường có vốn hiểu biết vô cùng phong phú về địa lí và văn hóa của
mảnh đất cố đô. Mỗi chặng đường của sông Hương không chỉ được tái hiện một cách chân thực theo dòng chảy
tự nhiên trên bản đồ địa lí mà còn thấm đượm chất trữ tình khi hình dung đó là một cuộc tìm kiếm bờ bến tình
yêu của một người con gái đẹp. Bên cạnh đó, những thay đổi đã làm cho sông Hương trở nên duyên dáng hơn,
Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn tiếp tục miêu tả vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống khi sông Hương về đến Ngã ba
tuần, dưới chân đồi Thiên Mụ. Khi về đến ngã ba tuần, chảy trôi giữa đôi bờ của ngoại vi thành phố Huế, sông
Hương vừa dịu dàng, lại vừa mạnh mẽ. Dịu dàng với những khúc lượn vòng mềm mại đầy nữ tính, mạnh mẽ với
những dư vang của Trường Sơn còn phảng phất. Ở đây, sông Hương như cô gái digan hoang dã, sau khi ra
khỏi cánh rừng đại ngàn đã tự làm đẹp làm mới mình để trở nên êm dịu như tấm lụa, hiền dịu, lượn vòng quanh
thành phố. Biện pháp so sánh đã góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp quý giá tươi sáng của dòng sông. Dòng sông như
một tấm lụa mềm mại vắt qua đất trời xứ Huế. Có thể thấy bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa
dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bươvs đi của
sông Hương. Nhờ đó mà hành trình về xuôi của Hương giang không đơn điệu nhàm chán mà trái lại nó khiến
người đọc đi từ ngạc nhiên thú vị này đến bất ngờ thú vị khác. Thủ pháp nhân hóa và so sánh cũng góp phần
đáng kể trong việc khắc họa một dòng sông thơ mộng và trữ tình. Con sông như một cô gái biết tự làm mới
mình trước khi về với thành phố của nó.
* Chuyển ý: Trong đoạn trích, vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống của sông Hương không chỉ thể hiện
qua hình dáng yêu kiều mềm mại mà còn thể hiện qua màu nước vô cùng biến ảo.
- Khi ở thượng nguồn, sông Hương mạnh mẽ phóng khoáng nhưng khi về đến ngoại vi thành phố, dòng sông
đã “tự trang điểm” rực rỡ hơn, lung linh hơn dù vẫn trôi đi trong dư vang của Trường Sơn nhưng sắc nước của
dòng sông “đã trở nên xanh thẳm”. Xanh thẳm là màu xanh có sự hòa quyện, màu xanh của trời, của cây cối
hai bên bờ sông và nó thể hiện độ sâu, độ trong veo của dòng sông. Đây là sắc màu vô cùng quyến rũ góp
phần làm cho hình ảnh sông Hương dịu ngọt hơn, mát lạnh hơn
- Mở rộng: Ta đã từng bắt gặp màu xanh ngọc bích của sông Đà vào mùa Xuân trong tùy bút Người lái đò
sông Đà của Nguyễn Tuân. Cũng là sắc xanh, nhưng xanh thẳm của sông Hương vẫn có sức hấp dẫn đặc biệt
- Vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống của sông Hương còn được Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả qua màu
nước biến ảo “son, xanh, tươi vàng, chiều tím”. Trong một ngày, buổi sớm mai nước sông Hương màu xanh,
màu xanh tươi sáng; khi trưa đến, dưới ánh nắng mặt trời, sông Hương như được phủ lớp vàng lấp lánh trên
mặt nước. Dòng sông bỗng trở nên lung linh, quý phái. Và đặc biệt, theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, buổi chiều
sông Hương lại thay màu sang sắc nước tím mộng mơ - “chiều tím”. Màu tím ấy phải chăng là màu tím mà
nhà thơ Thanh Hải từng miêu tả: “Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bông hoa tím biếc”. Nhà thơ Xuân Diệu
cũng từng nhận ra màu tím như thế khi viết về sông Hương: “Sáng trông mặt đất thương xanh núi/ Chiều
vọng chân mây nhớ tím trời”. Có lẽ màu tím trong chữ chiều tím của Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là
màu tím của hoa lục bình mà nó là một gam màu tượng trưng cho không gian Huế “Mà chẳng nơi nào có
được”
* Tóm lại: Với đôi bàn tay của người họa sĩ rất léo léo, tài hoa, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện
vẻ đẹp trẻ trung, tràn đầy sức sống của sông Hương trước khi về đến thành phố Huế. Điều đặc biệt là tác giả
luôn đặt sông Hương trong chiều liên tưởng, rất logic và độc đáo. Sông Hương như một cô gái biết làm mới
mình, tự trang điểm cho mình để trở nên mềm mại hơn, dịu dàng hơn, sâu lắng hơn trước giờ phút gặp gỡ
người tình tri kỉ. Và những nét vẽ tinh tế, ta thấy vóc dáng của con sông, màu nước của sông thật sự yêu kiều
quyến rũ
Đoạn trích không chỉ thể hiện vẻ đẹp trẻ trung tràn đầy sức sống mà còn khiến ta ấn tượng với vẻ đẹp trầm
mặc như triết lí, cổ thi của sông Hương
- Theo thủy trình, khi về đến ngoại vi thành phố, ở quãng sông này, Hương giang mang vẻ đẹp đặc trưng nhất
của xứ Huế. Đó là vẻ đẹp dịu dàng và sâu lắng. Có một nhạc sĩ đã dùng những ca từ đẹp nhất để nói về vẻ đẹp
đặc trưng này: “Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được. Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”.
- Tính cách trầm mặc của dòng sông được bộc lộ chân thực nhất khi sông Hương chảy xuôi dưới những rừng
thông, những lăng tộc, những thành quách,... Sông Hương ngày đêm chuyển mình bên những giấc ngủ ngàn
năm của vua chúa cho nên nó càng trở nên lặng lẽ và u tịch hơn. Dòng chảy hiền hòa của sông Hương qua
những rừng thông u tịch khiến cho ta tưởng tượng được những ngày đẹp ở cánh đồng châu Á khi trước giờ
đây đã khoác lên mình tấm áo trầm mặc, mang triết lí cổ thi của cố nhân
- Để làm rõ chất thơ và chất họa trong vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhắc
đến vần thơ cổ: “Bộn bề núi phủ mây phong/ Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Nếu ai đã từng một
lần thăm thú khiêm lăng hẳn sẽ cảm nhận hết được vẻ đẹp tác giả muốn nói đến. Vẻ đẹp trầm lắng u tịch, sâu
lắng của sông Hương khi gần về đến thành phố Huế
- Sắp đến thành phố mến thương, sông Hương bỗng trở nên mơ màng rồi bừng lên vẻ tươi tắn khi bắt gặp
“tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Chi
tiết đắt giá trong đoạn văn ghi dấu lại cuộc gặp gỡ giữa sông Hương và tiếng chuôn chùa Thiên Mụ - nơi
chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất cố đô. Chùa Thiên Mụ vẫn luôn hiên ngang và kiêu hãnh
bên dòng Hương giang mơ màng để tạo nên vẻ đẹp tình tứ thuần khiết cho mảnh đất nơi đây
=> Chốt: Đoạn trích đã cho người đọc cảm nhận về vẻ đẹp đặc sắc của dòng sông Hương khi chảy trôi bên
những thành quách, lăng tộc để về với thành phố thân yêu, như một cô gái đã trải qua bao gian truân thử
thách, giờ đây sông Hương trở nên trầm lắng cùng sâu sắc. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện một
cách tài hoa và tinh tế trong việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh kết hợp liên tưởng độc đáo và
cách hành văn uyển chuyển tình tứ. Con sông quê hương qua cảm nhận chủ quan của Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã trở nên có linh hồn, tâm trạng, suy nghĩ. Sông Hương từ một cô gái trẻ trung sôi nổi, tràn đầy sức sống đã
trở nên sâu lắng, thiết tha.
c. Sông Hương giữa lòng TP Huế:
* Nhận xét chung: Trải qua hành trình đầy thử thách đầy gian truân, sông Hương đã về đến thành phố Huế thân
yêu của mình bằng những so sánh đặc sắc và những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến cho sông Hương
hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương của góc nhìn hội họa và góc nhìn âm nhạc của nhà văn
Hoàng Phủ Ngọc Tường
* Góc nhìn hội họa: Sông Hương “Điệu slow tình cảm dành riêng cho Thành phố Huế”
– Trước tiên, sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm” khi vào đến thành Huế, cách miêu tả
đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông khi tìm thấy
chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một
thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi. Nghệ thuật nhân
hóa đã khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.
– Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen thuộc của mình
trong những nét uốn lượn tình tứ. Đó là việc “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng đến Cồn Hến”, với
liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng”
không nói ra của tình yêu”. Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình dịu dàng, e
ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế.
– Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sỹ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Màu sắc của
dòng sông là màu “xanh thẳm” của chính nó, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội
trên sông, lung linh sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi
đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”; từ màu thanh
khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”, nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm”
của những vầng cổ thụ, 5 ánh “lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn
Vĩ Dạ cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra như một bức tranh tuyệt đẹp
trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng. Âm nhạc: Qua cách cảm nhận của âm
nhạc, sông Hương đẹp và êm đềm như một điệu slow chậm rãi, trữ tình, sâu lắng.
– Chất âm nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ. Đó là một nhịp điệu
êm đềm, tĩnh lặng, được tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, bởi sự
giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh mang trong không gian,
thăm thẳm trong thời gian. Chất liệu miêu tả đã làm hiện hữu sinh động đối tượng miêu tả, nhịp điệu ngôn từ đã
mô phỏng tài hoa nhịp điệu êm đềm, yên ả của dòng sông.
– Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả dòng chảy của sông Hương: “một dòng sông trôi đi chậm,
thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”, trong đó từ nhịp ngắt, các yếu tố điệp cho đến so sánh đều
góp phần làm đậm thêm nhịp chảy chậm rãi, yên ả của dòng sông; có lúc nhà văn không giấu được tình yêu
thiên vị của mình khi so sánh dòng chảy băng băng của sông Nêva lúc xuân về với “điệu chảy lặng tờ” của dòng
sông xứ Huế, nhà văn còn cho rằng chỉ dòng chảy êm lặng ấy mới giúp con người cảm nhận được tâm hồn dịu
dàng, đa cảm của một dòng sông “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn
vương của một nỗi lòng”.
– Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính dòng sông và cảnh sắc đôi bờ.
Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc của “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm
thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một tình yêu
e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán
âm”, tiếng “những mái chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những liên tưởng tới
“nền âm nhạc cổ điển Huế” – một giá trị văn hóa đặc sắc của cố đô, luôn gắn bó và làm nên một phần linh hồn
của dòng sông xứ Huế. Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến dòng
sông Hương hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương, vừa dịu dàng mềm mại như một bức tranh
lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm đềm.
- Như từng thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu mà dấu hiệu là cầu trắng in ngần trên nền trời. Người
tình SH trút bỏ dung nhan đượm buồn khi trôi qua lằng tẩm, SH mang tâm trạng rạo rực “vui tươi hẳn lên giữa
những bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long”. Rồi kéo một nét thẳng đầy cá tính “theo hướng tây nam-đông
bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”. SH thật dịu dàng, e thẹn, ưng thuận, dòng sông
mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
- Khi vào trong lòng thành phố Huế SH và Huế đều mang vẻ đẹp đắm say: Huế nguyên dạng là một đô thị cổ,
cầu Tràng Tiền như vành trăng non, trải dọc hai bên bờ sông. Huế soi bóng xuống dòng sông và SH ôm trọn
Huế vào lòng. SH và Huế hoàn toàn tan vào nhau tạo nên sự hài hòa tình tứ trong không gian của phố thị.
- Khi miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố Huế, HPNT đã chọn cho mình kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ
này, sông Hương chính là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh slow có nghĩa là chậm và
sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi dành riêng cho Huế. HPNT đã rất tinh tế khi nhìn ra một đặc
trưng riêng của Hương giang: so với những dòng sông khác ở VN và thế giới, lưu tốc của Hương giang không
nhanh. Điều này nhà văn lí giả từ đặc điểm đại lí: “Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã
làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước khiến cho Hương giang khi đi qua thành phố trôi chậm, thực chậm, cơ hồ
chỉ còn là mặt hồ yến tĩnh”. Từ đó nhà văn liên tưởng đến lưu tốc của dòng sông Nê-va... HPNT còn đem đến
một kiến giải khác hết sức thú vị về lưu tốc của sông Hương. Đó là cách kiến giải bằng “trái tim”: sông Hương
chảy chậm vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương
trước khi phải rời xa.Nó muốn ngưng đọng bên cạnh người tình bởi thế mà “Dòng sông dùng dằng dòng sông
không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Bởi thế nhà văn thốt lên tôi thấy yêu quý con sông của tôi
thế , tôi thấy quý điệu chảy lặng lờ
- Sông Hươngđược liên tưởng - “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. SH say mê bên cạnh người tình thăng
hoa trong khúc nhạc.Một nét đẹp của thành phố Huế là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế. Ở góc nhìn
âm nhạc này, tác giả gọi SH là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” Ai đã từng đến Huế thưởng thức nhã
nhạc cung đình Huế trên sông nước Hương giang mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc nơi đây. Toàn bộ nền âm
nhạc ấy sinh thành trên mặt nước SH, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là nó khi “sinh thành trên mặt
nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo
khuya”. SH thực sự đẹp trong đêm hội nghìn ánh hoa đăng bồng bênh trong đêm hội rằm tháng bảy, ngập
ngừng vấn vương như một nỗi niềm...Sông Hương - người tình dịu dàng và chung thủy.
->Ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, hình ảnh so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, cảm xúc miên man tha thiết, câu văn
giàu chất thơ, giàu triết lí, HPNT đã làm nổi bật vẻ đẹp rất riêng của SH khi ở trong lòng thành phố Huế. SH
mang vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa lãng mạng đa tình đã thể hiện tình yêu tha thiết và chất đa tình của HPNT.
d. SH ra biển cả
- Dòng sông mang tâm trạng chia ly và những nỗi buồn: SH ôm lấy Cồn Hến xa dần thành phố lưu luyến ra đi
giữa màu xanh của tre trúc, Huế dõi xa mười dặm trường đình...Nhưng rồi như một sự nhớ ra điều gì chưa kịp
nói nó đột ngột đổi dòng để gặp thành phố lần cuối, chỗ ấy là thị trấn Bao Vinh.
- Trong con mắt của ng nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy là biểu hiện của nỗi vương vấn thậm chí có chút lẳng lơ
kín đáo của người tình chung thủy và chí tình. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim
trọng để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây dúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị độc đáo và đậm màu
sắc văn chương của tác giả. Sông Hương đã đẹp nay càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc.
Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong. Con sông như
nàng Kiều trong đêm tình tự, trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước lúc đi xa…Trong cái nhìn đa tình
của tác giả: khúc quanh bất ngờ đó tựa như “một mỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ
kín đáo của tình yêu”...
-> Cách so sánh rất tài hoa, SH và Huế nhân hóa là cuộc chia tay TY đầy lưu luyến nhớ thương, nhưng chia tay
mà thủy chung son sắt “chung tình với quê hương sứ sở”đó là vẻ đẹp thủy chung của SH và đó cũng là vẻ đẹp
của người Châu Hóa.
TL: Có thể nói hình tượng SH qua vẻ đẹp thiên nhiên bộc lộ sinh động, đa dạng Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa
như "một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng"; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một "bản
trường ca của rừng già". Có khi dịu dàng và trí tuệ như "người mẹ phù sa"; có khi biến ảo "sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím"; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh . Nét thống nhất ở hình tượng này chính là SH
mang vẻ đẹp của người con gái, đa tình, lãng mạn, nữ tính và chung thủy. Với cảm xúc say sưa, tha thiết, ngôn
ngữ hướng nội tài hoa, bút pháp trữ tình lãng mạn HPNT đã cho người đọc thấy yêu quý và tự hào về xứ Huế và
quê hương đất nước.
3. Lệnh đề phụ:Đoạn trích đã thể hiện cái “tôi” tài hoa của NPNT
- Khám phá sông Hương ở góc nhìn địa lí, đây là dòng sông đẹp có mối quan hệ đặc biệt với kinh thành Huế.
- Sông Hương được nhìn như môt cô gái đẹp, có tâm hồn tính cách đa dạng phong phú. Sông Hương có lúc đằm
thắm dịu dàng, có lúc dữ dội các tính, có lúc đắm say nồng nàn như tâm hồn tính cách sâu thẳm của người con
gái Huế.
- Nhà văn đã sử dụng kiến thức đa ngành để khám phá vẻ đẹp đa chiều của sông Hương, lối văn hướng nội xúc
tích, mê đắm tài hoa, sử dụng nhiều các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ngôn ngữ giàu chất thơ.
- Đoạn trích đã cho thấy một phong cách nghệ thuật uyên bác, “chất lửa” trong bút kí rất riêng của HPNT, một
tình yêu quê hương xứ sở sâu sắc.
III. Kết bài: Có thể nói SH là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi được viết bằng màu cỏ lá xanh
biếc. Bằng kiến thức phong phú về triết học, địa lí, lịch sử, nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp đa chiều của dòng
sông. Vẻ đẹp đó luôn hấp dẫn đối với du khách . Đoạn trích đã bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào
lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương.

You might also like