You are on page 1of 11

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?

(Trích) - Hoàng Phủ Ngọc Tường

I. Kiến thức cơ bản cần nắm vững:


1. Tác giả:
a.Tiểu sử:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế .Quê gốc làng Bích Khê, huyện
Triệu Phong , tỉnh Quảng Trị .
- Nhiều năm sống và hoạt động cách mạng, công tác tại Huế , gắn bó với mảnh đất và con
người nơi đây, am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh hồn văn hóa xứ sở.
b.Con người:
- Trí thức yêu nước.
-Vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.
c.  Sáng tác:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa
chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học , văn hóa, lịch sử, địa lí …Tất cả
được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
- Các tác phẩm bút kí chính : Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh
lửa(1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh
(1999)…
2.Tác phẩm
a. Xuất xứ:
- Viết tại Huế, 1981.
- In trong tập sách cùng tên. Tác giả đã lấy tác phẩm làm nhan đề cho một tập bút kí. Đây tác
phẩm bút kí tiêu biểu nhất của nhà văn.
b. Thể loại : Bài viết thuộc thể loại bút kí.
c. Nội dung: Viết về vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ gắn bó với thành phố Huế.
a. Vẻ đẹp của sông Hương ở không gian địa lí:
* Sông Hương ở thượng nguồn:
Biện pháp nhân hóa, so sánh, liên tưởng giàu cảm xúc (…)→ sông Hương với sức sống mãnh
liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng, đắm say và mang nét “tính cách” đáng trân trọng .
* Sông Hương ở đồng bằng:
- Sông Hương với những dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế (…)
-> phô ra tất cả vẻ đẹp gợi cảm của mình, cuộc hành trình của người con gái đẹp và tình tứ.
- Sông Hương với những vẻ đẹp dịu dàng, đa màu sắc (…).
- Sông Hương với những vẻ đẹp “trầm mặc”, “cổ kính”, bừng sáng, tươi tắn, trẻ trung (…).
→ Kết hợp kể, tả, so sánh, nhân hóa: Sông Hương đẹp bởi phối cảnh kỳ thú với thiên nhiên xứ
Huế.
* Sông Hương khi chảy vào thành phố:
- Bằng con mắt hội họa: Sông Hương tạo đường nét tinh tế làm nên vẻ đẹp của cố đô.
- Qua cách cảm nhận âm nhạc: Sông Hương đẹp như một điệu slow chậm rãi, sâu lắng,…
- Sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”-> mqh không thể tách rời giữa sông
Hương và âm nhạc cổ điển Huế.
- Bằng cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình: Sông Hương là người tình dịu dàng và chung
thủy.

1
→ Nhân hóa, quan sát tinh tế, so sánh, liên tưởng: Sông Hương được khám phá dưới góc độ
văn hóa.
b. Vẻ đẹp sông Hương trong chiều dài l/sử:
- Sông Hương mang vẻ đẹp của 1 bản hùng ca ghi dấu bao chiến công oanh liệt từ thời cha ông
dựng nước.
- Chiến đấu oanh liệt trong thời kì trung đại.
- Nhân chứng lịch sử vẻ vang thời N/ Huệ.
- Chứng kiến thời đại mới của CMTT.
- Anh dũng qua 2 cuộc chiến tranh vệ quốc.
→ Dòng sông có bề dày lịch sử oai hùng.
c. Sông Hương với đời thường và thi ca:
- Sau những thăng trầm của cuộc đời, dòng sông “trở về với cuộc sống bình thường, làm một
người con gái dịu dàng của đất nước”.
- Sông Hương là nguồn cảm hứng không lặp lại của các nhà thơ.
* Bài tùy bút có kết thúc bằng cách lí giải tên của dòng sông (…): Cách lí giải để lại nhiều cảm
xúc cho người đọc.

3. “Cái tôi” trữ tình- nét đẹp văn phong :


- “Cái tôi” say mê kiếm tìm cái đẹp và luôn gắn bó với thiên nhiên .
- “Cái tôi” yêu quê hương đất nước và luôn hướng về cội nguồn :trân trọng tự hào về bề dày
lịch sử, bề dày văn hóa Huế và tâm hồn con người vùng đất cố đô.
- “Cái tôi” tài hoa, uyên bác: Hoàng Phủ Ngọc Tường có cách sáng tạo hình ảnh riêng : vừa tả
thực, vừa so sánh, ẩn dụ đã tạo ra những liên tưởng bất ngờ, cùng những hình ảnh đường nét,
màu sắc và cả âm thanh.Sông Hương còn được nhìn từ nhiều phía : Nhìn từ đôi mắt của người
nghệ sĩ lãng du về cảnh sắc thiên nhiên , từ văn hóa và chiều sâu lịch sử để khám phá chiều sâu
ý nghĩa toát lên từ dòng sông.
4. Nghệ thuật:
- Ngôn ngữ: phong phú, giàu hình ảnh, gợi cảm.
- Sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa…, câu văn giàu nhạc điệu.
- Kết hợp kể, tả với sự liên tưởng, tưởng tượng phung phú cộng với vốn kiến thức uyên bác về
các phương diện lịch sử, địa lí , văn hóa, nghệ thuật đã tạo nên một áng văn đắc sắc.
- Cảm xúc, trí tuệ uyên bác cùng với văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
II. Luyện tập:
*Đề 1: Vẻ đẹp của sông Hương ở cảnh sắc thiên nhiên (Đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng
sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường).
* Dàn ý
a. Mở bài:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó với mảnh đất và con người xứ Huế, am hiểu sâu sắc cội
nguồn và linh hồn văn hóa nơi đây.
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông”? là bài bút kí xuất sắc được viết tại Huế ngày 4/1/19981, được
in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí là những cảm nhận, đánh giá mới mẻ, tài hoa của HPNT
về vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của sông Hương, đồng thời đó cũng là niềm tự hào của tác giả đối
với dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương.
- Vẻ đẹp của sông Hương được miêu tả ở nhiều góc độ, đặc biệt là cái nhìn lí thú, mới mẻ, độc
đáo của tác giả về vẻ đẹp sông Hương ở cảnh sắc thiên nhiên, ở thủy trình của dòng Hương
giang.
b. Thân bài:
2
- Sông Hương nhìn từ thượng nguồn: Sông Hương vùng thượng nguồn mang vẻ đẹp của một
sức sống mãnh liệt, hoang dại, cũng có lúc dịu dàng, say đắm.
+ Sông Hương – “bản trường ca của rừng già” : câu văn dài chia làm nhiều vế liên tục,
thủ pháp điệp cấu trúc kết hợp những động từ mạnh, tính từ toát lên vẻ đẹp của một sức sống
mãnh liệt vừa hùng tráng vừa trữ tình.
+ Sông Hương – “cô gái di gan phóng khoáng và man dại”: đây là một liên tưởng thú
vị và độc đáo, khiến dòng sông trở nên có cá tính, có tâm hồn, gợi ấn tượng mạnh về vẻ đẹp
hoang dại nhưng cũng rất tình tứ, quyến rũ của sông Hương.
+ Khi nó trôi “giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng” để dòng sông nên
thơ, tình tứ, mê đắm
+ Sông Hương – “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: sông Hương là khởi
nguồn, là “đấng sáng tạo” góp phần tạo nên, gìn giữ, bảo tồn văn hóa Huế. So sánh hình ảnh
sông Hương từ “cô gái di gan” đến “người mẹ phù sa”, nhà văn muốn khẳng định sự trưởng
thành của dòng sông, chiều sâu vẻ đẹp và “nhân cách” đáng trân trọng của sông Hương.
- Sông Hương đi qua đồng bằng Châu Hóa:
+ Trước khi trở thành “Người tình dịu dàng và chung thuỷ của cố đô”, toàn bộ thuỷ trình của
dòng sông tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái
trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích:
. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại: Sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng” được
người tình mong đợi đến đánh thức.
. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi: Sông Hương như người gái đẹp bừng tỉnh sau một
giấc ngủ dài với sức sống mới đầy khát khao và lãng mạn “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng
giữa khúc quanh đột ngột”, “vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “sông
Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, rồi “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như
thành quách”…
" Mỗi “đường đi nước bước” của con sông gắn liền với những địa danh khác nhau của
xứ Huế đã được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng với một động từ phù hợp, nhờ thế
mà hành trình về xuôi của sông Hương không đơn điệu, nhàm chán mà thú vị và hấp dẫn. Đồng
thời, HPNT đã gợi lên hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái đẹp” sông
Hương khá gian truân và đầy thử thách khi nó phải vượt qua một loạt “chướng ngại vật” (Hòn
Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán). Nhưng cũng chính quá trình ấy người gái đẹp
sông Hương lại như có cơ hội phô khoe hết những vẻ đẹp gợi cảm của những đường cong tuyệt
mĩ.
+ Sông Hương mang vẻ đẹp thơ mộng, đa màu sắc “sáng xanh, trưa vàng, chiều tím” như
người con gái biết tự làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn với những sắc áo “xanh,
vàng, tím” trước khi gặp người tình mà nó mong đợi.
+ Sông Hương khoác lên mình vẻ đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi” khi chảy bên
những lăng tẩm, thành quách của vua chúa nhà Nguyễn. Nó lại “bừng sáng, tươi tắn, trẻ
trung… khi gặp xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
" Những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tượng → Kiến thức về địa lý đã giúp tác giả
không chỉ tái hiện một cách chân thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lý của dòng sông mà
quan trọng hơn là biến thủy trình ấy thành một hành trình của người con gái đẹp, duyên dáng
và tình tứ → cảm nhận độc đáo, thi vị về sông Hương của tác giả.
- Sông Hương đến với kinh thành Huế:
+ Như tìm thấy chính mình khi gặp “người tình mong đợi” – thành phố Huế, sông Hương
“vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long” rồi kéo một nét thẳng
đầy cá tính “theo hướng tây nam – đông bắc
3
+ Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên , sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến
Cồn Hến” làm cho dòng sông mềm hẳn đi , “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.
Đây là một so sánh lạ , dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng , e ấp, ngập ngừng , ý vị trên bờ môi
cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng sông. Lối so sánh mang cái
nhìn tình tứ đã đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm mĩ độc đáo.
+ Sông Hương - “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”: nhà văn đã liên tưởng, so sánh
với con sông Nê-va băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích; mượn
câu nói của nhà triết học Hê-ra-clit trong một câu nói rất hình ảnh “khóc suốt đời vì một dòng
sông chảy đi quá nhanh” → nhà văn không chỉ lí giải lưu tốc của sông Hương từ đặc điểm địa
lý mà còn lý giải bằng “trái tim”: sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ vì nó quá yêu
thành phố của mình, nó muốn nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải
rời xa.
+ Sông Hương -“người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” : Tác giả tưởng tượng: “trong một
khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”; HPNT nhớ tới
Nguyễn Du; “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu.
Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều” → HPNT khẳng định mối quan hệ gắn bó
không thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế → văn hóa Huế nói chung và
vẻ đẹp của sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào.
+ Sông Hương – người tình dịu dàng và chung thủy: Trước khi rời khỏi kinh thành,“như sực
nhớ điều gì chưa kịp nói”, sông Hương đột ngột đổi dòng, “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để
gặp lại thành phố lần cuối cùng ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, khúc quanh bất ngờ đó tựa
như “một nỗi vương vấn”, và “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhà văn hình dung sông
Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói lời thề trước khi đi xa " phát hiện, liên
tưởng thú vị, độc đáo, đậm màu sắc văn chương.
c. Kết bài:
- Vẻ đẹp sông Hương ở cảnh sắc thiên nhiên được HPNT miêu tả độc đáo, tài hoa từ nhiều
không gian và thời gian khác nhau.
- Tình cảm yêu mến, gắn bó thiết tha, niềm tự hào, trân trọng của tác giả đối với vẻ đep tự
nhiên và đậm nét văn hóa của dòng sông quê Hương.

* Đề 2: Dựa vào đoạn trích bút kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, hãy thể hiện sự cảm nhận của anh, chị về sông Hương trong mối quan hệ với kinh
thành Huế.
* Dàn ý:
a. Mở bài
- Phần đầu của đoạn trích bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, nhà văn Hoàng Phủ ngọc
Tường đã khắc hoạ một sông Hương có vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy
cá tính.
- Từ đoạn thứ hai, tác giả mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về sông
Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế.
b. Thân bài:
* Sông Hương trong mối quan hệ với thành phố Huế từ góc nhìn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường về phương diện điạ lí của nó.
- Khi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế, sông Hương như một tình nhân dịu dàng và
chung thuỷ của cố đô. Hành trình của sông Hương về thành phố huế là hành trình tìm kiếm có
ý thức để trở về với người tình mong đợi.

4
- Khi chảy vào thành phố Huế sông Hương chậm rãi, êm dịu, mềm mại, như vấn vương một nỗi
lòng:
+ Sông Hương vui hẳn lên khi đã tìm thấy đường về và nhìn thấy bóng dáng người yêu, đó là
của chiếc cầu trắng in trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.
+ Giáp mặt với thành phố ở cồn Giã viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến
cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của
tình yêu. Đấy là niềm hạnh phúc của người con gái khi gặp lại người tình cố đô...
+ Sông Hương có điệu chảy lặng lờ của nó…Đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế.
- Nỗi lưu luyến của sông Hương khi chia tay thành phố Huế.
* Sông Hương gắn bó với Huế ở phương diện văn hóa, lịch sử
- Ở phương diện lịch sử
+ Thế kỉ mười tám, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng
Nguyễn Huệ.
+ Sông Hương đi vào thời đại CMT8 với những chiến công rung chuyển. Sông Hương cũng
đã chứng kiến những tổn thất nặng nề về lịch sử, văn hóa khi đế quốc Mỹ dội bom thành nội
Huế.
- Ở phương diện văn hóa
+ Sông Hương còn được tác giả so sánh với sông Xen của Pa-ri, sông Đa- nuýt của Bu-đa-
pét, sông Nê-va để làm nổi bật vẻ đẹp cổ kính của sông Hương và thành phố Huế mà không có
một thành phố hiện đại nào có được. Đó là hình ảnh những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u
sầm xuống những xóm thuyền chài. Đó là hình ảnh những ánh lửa lập lòe trong đêm sương và
trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy.
+ Sông Hương về đến thành phố trở thành người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya. Theo tác
giả toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên bến sông này.
+ Sông Hương còn gắn bó với Nguyễn Du và truyện Kiều-niềm tự hào của vh dân tộc.
+ Có một dòng thi ca về sông Hương. Và sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm
hứng của các nhà thơ.
+ Sông Hương còn gắn với màu áo tím của người xứ Huế: Những ngày nắng, những chiếc áo
của người con gái huế được đem ra phơi, sông Hương tạo thành một màu tím ẩn hiện thấp
thoáng theo bóng người.
c. Kết bài:
- Khả năng diễn đạt và kiến thức uyên bác của nhà văn ở nhiều phương diện về sông Hương đã
giúp đọc giả khám phá nhiều vẻ đẹp về dòng sông của quê hương,đất nước.
- Khả năng viết kí tuyệt vời…

*Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác phẩm “Người lái đò
sông Đà” – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường.
*Dàn ý:
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà
– Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng sông
– Giới thiệu vấn đề nghị luận : vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà. 
II. Thân bài:
1. Nét tương đồng của 2 dòng sông:

5
a/ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình có tính cách
với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất
nước.
b/ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.
– Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó trên nhiều
phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như đang bày trùng vi
thạch trận.
– Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của rừng già,
tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
c/ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:
– Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay đổi qua từng
mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính…
– Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái ngủ mơ màng chờ người
tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế…
d/ Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
– Tài hoa: 2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:
+ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy
nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.
+ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn liền với những
nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
– Uyên bác: cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên nhiều lĩnh
vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dòng sông. 2. Nét độc đáo riêng trong từng hình
tượng dòng sông
*Sông Đà:
– Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà giống như 1 kẻ
thù hiểm độc và hung ác
-> Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi thạch trận
chực lấy đi mạng sống của con người. – Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ dội, phi
thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng, đá trên sông đà
mỗi viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến…
– Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa, tài trí của người
lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt thác của người lái đò là
mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá…
* Sông Hương:
– Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng
vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi ở thượng nguồn, nó là
cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ
màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà
lại chung tình, là người con gái dịu dàng của đất nước.
– Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù sa bồi đắp
cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay.
– Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông Hương là thủy
trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế, sông Hương mềm hẳn đi như 1
tiếng ” vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như người con
gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện 1 nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.

6
– Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét đẹp lãng mạn,
trữ tình của đất trời xứ Huế
III/ Kết luận:
– Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2 tâm hồn có
tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông đất nước Việt Nam.
– Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình tượng các dòng
sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về vẻ đẹp của quê hương, đất
nước mình.

Đề 5.
Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương
đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong
thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba
Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang
tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về
phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong
dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên
xanh thắm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột
ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như
tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên
những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những
vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng
tầm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ
bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài
mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia,
giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà... 
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường, 
Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 198-199)
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tính trữ tình của bút
kí Hoàng Phủ Ngọc Tường. 

Gợi ý:
I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường:
+ Là một nhà văn chuyên viết về bút ký, được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là một trong mấy người
viết ký hay nhất của văn học đương đại.
+ Ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa
chiều. Tất cả được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về lịch sử, địa lý, văn hóa, triết học,.. với lối
hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
- Nêu khái quát chung về tác phẩm “Ai đã đạt tên cho dòng sông”:
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông là bài bút ký xuất sắc in trong tập sách cùng tên.
+ Sáng tác ngay sau chiến thắng 1975 nên vẫn còn dư âm của khí thế chống giặc ngoại xâm và ngợi ca
chủ nghĩa anh hùng.
- Khái quát nội dung: Vẻ đẹp con sông Hương dưới góc nhìn địa lý khi chảy ở ngoại ô thành phố Huế.
Qua đó tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện rõ nét.
II. Thân bài

7
* Vị trí đoạn trích: Nằm ở ngay đầu tác phẩm, đây là khi con sông Hương vừa chảy ra khỏi rừng già và
đến với sự thơ mộng của cánh đồng Châu Hóa cùng cảnh vật những ngôi làng ngoại ô kinh thành Huế.
Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ đẹp của
dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua
ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ "sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng
già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như
cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ
quyên rừng". Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt,
lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng nguồn, hứng
chịu nhiều biến đổi của thời tiết. Ông đã luôn cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một
tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình
để khi ra khỏi rừng, "sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người
mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở".đến đây không ai có thể hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của
nó mà chính nó hình như cũng không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và chìa khóa trong
những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
1. Vẻ đẹp con sông Hương dưới góc nhìn địa lý khi chảy ở ngoại ô thành phố Huế qua vùng châu
thổ êm đềm.
- Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận
ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông hương không
chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương.
Hình ảnh liên tưởng: Người gái đẹp đang nằm ngủ mơ màng giữa cách đồng Châu Hóa đầy hoa dại
được người tình mong đợi đến đánh thức.
Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như "cô gái đẹp ngủ mơ màng chờ người tình
mong đợi đến đánh thức" - một vẻ đẹp màu màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp.
Người gái đẹp: Người con gái ở độ tuổi trăng trong, nhăn sắc trẻ trung phơi phới sức sống.
+ Nằm ngủ mơ màng: Giấc ngủ êm đềm với một giấc mộng đẹp kéo dài đến mấy thế kỉ.
+ Cánh đồng đầy hoa dại: Cánh đồng được sông Hương bồi đắp trở nên trù phú. Hoa dại là một loại
hoa có sức sống mãnh liệt, màu sắc rực rỡ, mang hương thơm của đồng nội.
+ Người tình mong đợi: Chờ đợi càng kéo dài thì hạnh phúc càng lớn lao.
- Hành trình của sông Hương liên tưởng tới hành trình của người gái đẹp đi tìm người tình nhân đích
thực của mình. Gọi là người tình đích thực vì người ấy rất xứng đáng, xứng đôi vừa lứa. Hành trình này
vô cùng lãng mạn giống như những câu truyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Hành trình sông Hương về
với Huế giống như hành trình cuộc tình nhân lý tưởng trong truyện Kiều: Tìm kiếm và đuổi bắt, hào
hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc.
- Vẻ đẹp của sông Hương trong hành trình đi tìm người yêu.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ
thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông
Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, "theo những đường cong thật mềm, như
một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó".
+ Sông Hương không ngừng hoàn thiện vẻ đẹp của mình để phô khoe trước người yêu, là để dâng tặng
trước người yêu của mình.
+ Hành trình của sông Hương đi qua rất nhiều đoạn chảy nhỏ và được cảnh quan của đôi bờ soi bóng,
tô điểm cho nên sông Hương ở mỗi đoạn chảy lại mang những nét đẹp đa dạng, phong phú.
++ Sông Hương tỉnh dậy sau một giấc ngủ kéo dài đến mấy thế kỉ sau một thời gian dài chờ đợi được
người tình mong đợi đến đánh thức,trong niềm hạnh phúc trang ngập, sông Hương với Sức sống mạnh
mẽ và háo hức đi tìm người yêu. Nhưng hành trình này không dễ dàng, khá là gian truân vượt qua rất
nhiều chướng ngại vật (điện hòn 3 Chén; gò vấp, thềm đất bãi) uốn lượn quanh co được tác giả diễn tả
qua những hình ảnh rất đẹp. Sông Hương chuyển dòng liên tục vòng giữa những khúc quanh rồi đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, vẽ một cánh cung thật trong ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ.

8
=> Trong quá trình vất vả để vượt qua chướng ngại vật sông Hương đã vô tình phô bày khoe những nét
đẹp riêng rất ấn tượng.
+ Khi Sông Hương tiếp tục đi trong dư vang của Trường Sơn , vượt qua một lòng vực sâu dưới chân
núi. Sắc nước có màu xanh thẳm rất khác với màu xanh ngọc bích của sông Đà, màu xanh của sông
Hương gợi độ sâu, không thuần túy là cái đẹp hình thức mà có cả độ lắng của trải nghiệm.
+ Trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, đồi núi trùng điệp, cao vững chãi như những
bức tường thành dang che chở, bao bọc cho sông Hương. Tù đó Sông Hương trở nên mềm như tấm lụa
mặt sông trải rộng, êm đềm -> Con thuyền trên sông giống như những con thoi. , với những chiến
thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng những con thoi.
+ Những dãy đồi núi với điểm cao đột ngột đã tạo nên những phản quang nhiều màu sắc cho dòng
sông: Sớm mang màu xanh của nền trời in bóng mang theo độ trong của mặt nước. Đến trưa sông
Hương lại chuyển màu do phản chiếu màu nắng rực rỡ. Đến chiều mặt nước sông hương lại chuyển
sang màu tím. -> Thay đổi theo các thời điểm từng ngày đều tươi sáng, rực rỡ -> Sông Hương là một
người con gái rát điệu đà, rất đáng yêu.
+ Sông Hương tiếp tục đi qua những lăng tẩm đồ sộ – nơi yên nghỉ ngàn thu của các vua chúa mang
niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong lòng những lòng sông u tịch.. Lúc này Sông Hương trở nên
trầm mặc như triết lý, như cổ thi.
+ Sông Hương nhận thấy những dấu hiệu từ xa của thành phố hay chính người tính từ xa. Đây là những
dấu hiệu âm thanh: Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung
du bát ngát tiếng gà -> Gợi cuộc sống bình yên, yên ả.
=> Sông Hương trở nên bừng sáng, tươi tắn.
- Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui
tươi hẵn lên, "nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc, nơi cuối đường, nó
đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non". Nhà văn đã
dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái
sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu.
Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với
con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết
na, ý nhị của người con gái cố đô. Những chi lưu ấy, cùng với gai hòn đảo nhỏ trên sông đã là giảm lưu
tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi chạy đi chậm, thực chậm, cơ hồ
chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh.Như một sự nuối tiếc không nở rời xa “thành phố tương lai” mà sông Hương
cố tình đi thật chậm, thật ra nó muốn lưu lại nơi này nhưng hành trình của nó không cho phép điều đó.
Nên sông Hương chỉ có thể đi chậm nhất có thể mà thôi. Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông
Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,... Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp
độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, "vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền
chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được". Nhà
văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng "Đây là điệu slow tình cảm
dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào
những đêm hội rằm tháng bảy... chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng."
- Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong nó cả nền văn hoá phi vật thể
của Huế. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, sắc áo điều lục - màu tím mà người Huế ưa thích vốn là màu
của sương khói trên sông Hương. Nó tựa một tấm voan huyền ảo đến từ thiên nhiên. Dòng sông cũng
góp phần làm nên vẻ đẹp êm đềm, phẳng lặng của người Huế. Sông Hương cũng đã khơi nguồn cho
biết bao thế hệ nghệ sĩ. Dòng sông trở thành nàng thơ trong tâm hồn thi sĩ với vẻ đẹp đa dạng, biến ảo,
không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nhà thơ. Ở thơ Tản Đà, đó là “dòng sông trắng, lá
cây xanh” tha thướt, mơ màng. Ở thơ Cao Bá Quát nó hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh”. Ở thơ Bà
Huyện Thanh Quan nó là “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng. Không chỉ thế, nó còn gắn
với những câu hò, điệu hát. Ở sông Hương là sự tồn tại song song giữa hai dòng nhạc cung đình và dân
gian. Âm nhạc được sinh ra trên dòng chảy sông Hương khi người nghệ sĩ lênh đênh trên sông Hương,
trên một khoang thuyền nào đó, nghe tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya mà nảy sinh
9
cảm hứng viết nên những bản đàn. Chính vì vậy, với Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương giống như
một tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya thanh vắng.
Rời khỏi kinh thành sông Hương ôm lấy đảo Cồn Hến để lưu luyến ra đi. Rồi đang chảy theo hướng
chính Bắc, dòng sông đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố yêu dấu
lần cuối. Cái khúc quanh đột ngột này của sông Hương được người ta ví như nỗi vướng bận và mang cả
một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và nó giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này,
sông Hương đã chí tình trở lại tìm kim Trọng cảu nó, để nói một lời thề trước khi ra biển “ Còn non,
còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Có thể thấy, dưới góc nhìn địa lý, sông Hương vừa êm đềm,
vừa thơ mộng trữ tình nhưng cũng vừa mãnh liệt, hoang sơ. Toàn bộ thuỷ trình của dòng sông giống
như một cuộc tìm kiếm có ý thức của một người con gái, kiếm tìm một tình yêu đích thực trong câu
chuyện tình đẹp như cổ tích của mình.
2. Tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Làm nên sức hấp dẫn cúa đoạn trích trước hết là nhờ xúc cảm sâu lắng của tác giả in hằn trong từng
câu chữ.
- Tính trữ tình được tổng hợp từ vốn hiểu biết sâu rộng về lịch sử, địa lý, văn hóa, văn chương của Huế
cùng với đó là tình yêu tha thiết với thành phố Huế thân yêu.
- Tính trữ tình thể hiện thông qua văn phong súc tích, hướng nội, tinh tế, tài hoa.
- Biện pháp nghệ thuật sử dụng rất dày đặc như so sánh, nhân hóa,... gắn với liên tưởng bất ngờ, sáng
tạo
-> Mang đến sự thích thú đặc biệt cho người đọc.
III. Kết bài:
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung.
Với kho vốn cảm xúc, kiến thức, tưởng tượng và trải nghiệm thực tế lại cộng thêm vốn chữ
nghĩa dồi dào mà rất đẹp, rất thơ, rất công phu, trau chuốt thậm chí đôi khi còn hơi làm dáng
điệu đà, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc để hoàn toàn chủ động
trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào hứng thưởng thức vẻ đẹp của một dòng
sông không phải như con sông địa li vô tri mà như một con người-một người con gái có nhan
sắc, có tâm hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc hành trình, sống trọn vẹn đời
sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng của nó.

10
11

You might also like