You are on page 1of 46

Văn bản: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG.

I. Mở bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn học
hiện đại Việt Nam. Một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Ông
cũng là người nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại và đặc biệt thành công ở thể loại bút kí. Nét
đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là sự kết hợp nhuần
nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều
được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,
cùng lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Trong sự nghiệp sáng tác văn
chương, bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được xem là tác phẩm đặc sắc nhất làm
nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường và cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
nhà văn. Tác phẩm nói về vẻ đẹp của dòng sông Hương qua những góc nhìn đa chiều và từ
các phương diện khác nhau, từ đó thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào sâu
sắc của tác giả đối với mảnh đất xứ Huế thân thương yêu dấu của mình…. (Đưa vấn đề cần
nghị luận vào)
II. Thân bài
Đoạn 1. Từ “ Trong những dòng sông đẹp …dưới chân núi Kim Phụng.”
Vấn đề cần nghị luận: Tác giả khám phá vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới góc nhìn địa lí ở
phần thượng nguồn.
1. Khái quát.
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên năm
1986.
+ Tác phẩm được tác giả trình bày dưới dạng bút kí, một thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như
tình cảm của con người một cách sâu sắc, chân thành nhất.
+ Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy
qua lòng thành phố Huế, đó là con sông Hương . Và nhà văn đã rất tài tình khi lột tả được hết
vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế mông mơ dưới nhiều góc độ của
lịch sử, địa lí, văn hóa…qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho
vẻ đẹp của vùng đất cố đô với những trang sử vẻ vang, hào hùng, với cảnh sắc thiên nhiên thơ
mộng, trữ tình trở thành biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người xứ Huế.
+ Bài bút kí gồm có ba phần, đoạn trích trong đề bài nằm ở đoạn văn đầu tiên của phần 1 tác
phẩm.
2. Phân tích.
Luận điểm: Vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới góc nhìn địa lí ở phần thượng nguồn.
+ Sông Hương chính là đối tượng để bộc lộ tâm tình, là khách thể của trang viết trong sự thể hiện cái tôi
của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.Sông Hương cũng chính là đối tượng để khảo cứu làm nên vẻ đẹp của
xứ Huế.
+ Chính vì vậy, dưới sự am tường sâu sắc về địa lý, nhà văn đã tìm hiểu trực tiếp sông Hương ở phần
thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông.
+ Đoạn trích bắt đầu bằng một câu văn rất giàu xúc cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường để ghi lại ấn tượng
đặc biệt về sông Hương trong tâm trí của mình.Hơn nữa là để tạo nên dấu ấn riêng trong lòng người đọc
về hình ảnh sông Hương “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như
chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.
+ Theo cảm nhận của tác giả thì sông Hương được xếp vào một trong số những dòng sông đẹp trên thế
giới này. Vẻ đẹp của con sông không chỉ dừng lại trong lãnh thổ đất nước Việt Nam mà còn vượt ra khỏi
không gian và thời gian. Và ở đây, cái tôi trữ tình đã phát hiện ra một nét riêng độc đáo chỉ có ở sông
Hương. Nếu như những dòng sông khác chảy qua nhiều tỉnh thành,cũng có những dòng sông nối liền giữa
các quốc gia, biên giới, lãnh thổ thì chỉ có “sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Sông Hương
chảy bao bọc xứ Huế, trở thành gương mặt, linh hồn của nơi đây. Do đó,nhắc đến xứ Huế không thể không
nhắc đến dòng sông Hương. Nhắc đến tình yêu dành cho xứ Huế lại càng không thể thiếu tình yêu dành
cho người con gái đẹp sông Hương.
+ Như vậy ngay câu văn mở đầu của đoạn trích, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gửi gắm vào đó
những xúc cảm xao xuyến, bâng khuâng, lòng ngợi ca, kiêu hãnh, tự hào và tình yêu sâu lắng
với sông Hương, với xứ Huế thân thương quê mình. Vẻ đẹp súc tích, tài hoa của cái tôi bút kí
Hoàng Phủ Ngọc Tường gói trọn trong câu văn này tựa như một giai điệu ngân vang lan toả,
xuyên suốt toàn bộ đoạn trích.
+ Nhìn từ cội nguồn của dòng chảy, sông Hương ở thượng nguồn có mối quan hệ sâu sắc với
núi rừng Trường sơn hùng vĩ. Chính từ đây nhà văn đã khắc họa dòng sông với hai nét đẹp nổi
bật: mãnh liệt, hoang dại, phóng khoáng , đầy cá tính và dịu dàng , say đắm, đậm chất trí tuệ.
+ Trước hết, vẻ đẹp mãnh liệt, phóng khoáng, hoang dại, đầy cá tính của sông Hương được
nhà văn miêu tả qua hình ảnh so sánh mang tính gợi cảm cao, đó là giống như “bản trường ca
của rừng già”. Quả là như vậy, con sông ở đây đã gắn liền với dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Nó
mang trong mình vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng: “rầm rộ giữa những
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những
đáy vực bí ẩn”.
+ Sử dụng câu văn dài, ngắt thành nhiều vế kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ, những động từ
mạnh như : rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy và lối điệp cấu trúc câu đã tô đậm dòng chảy mạnh
mẽ, mang âm hưởng hào hùng, đậm chất sử thi của dòng sông huyền thoại.
+ Nhưng cũng có lúc sông Hương lại trở nên hiền lành, thơ mộng, trữ tình, “dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Hai tính từ “dịu dàng” và “say đắm” đã làm
nên một thoáng bất ngờ của sông Hương. Màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng đã ánh lên dòng sông,
mang đến một vẻ tươi mới. Phải chăng đó là lúc con sông đẹp nhất.
+ Tiếp nối những dòng cảm xúc về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát huy trí liên tưởng,
tưởng tượng của cái tôi nội cảm giàu chất tài hoa phóng khoáng để miêu tả dòng sông Hương giữa
lòng Trường Sơn “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng
và man dại. Rừng già đã đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
+ Bằng lối so sánh và trí tưởng tượng phong phú, tác giả đã ẩn dụ, nhân hóa sông Hương thành
người thiếu nữ Di-gan với nét tính cách phóng khoáng, man dại, hồn nhiên, trẻ trung, tự do, trong
sáng. Hình tượng cô gái Di-gan là một hình tượng quen thuộc của phương Tây về những
nghệ sĩ hát rong, lang thang, tự do, đem lời ca, điệu múa của của mình đến với bao
người. Đây là lối so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ, lấp lánh trí tuệ, thể hiện được cái
nhìn đa chiều của tác giả trong sự hội nhập văn hóa của thời đại mới. Tác giả đã mang
văn hóa phương Tây vào văn hóa Việt Nam, mang thượng nguồn sông Hương của Việt Nam
ra thế giới một cách cụ thể, dễ hình dung nhất qua hình ảnh đó.
Tuy nhiên đó mới chỉ là sự khám phá sông Hương ở vẻ đẹp bên ngoài, càng khám phá bề sâu càng
hiện rõ những vẻ đẹp kì thú, bất ngờ của sông Hương.
+ Tác giả đã hướng người đọc vào bề sâu văn hóa của dòng sông Hương. Khi ra khỏi rừng già, thoát
khỏi sự chế ngự bấy lâu nay, sông Hương đã hoàn toàn rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để
“nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn
hóa xứ sở”.Có thể thấy, từ̀ một người thiếu nữ xinh đẹp giờ đây sông Hương đã trở thành người
mẹ dịu dàng, trí tuệ mang trong mình dòng chảy của nền văn hóa xứ Huế.
+ Vẻ đẹp ấy đã khiến cái tôi trữ tình phải thốt lên lời bình “Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt
kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương
với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó
mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong
những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
+ Rõ ràng, từ bấy lâu nay, ta mới chỉ nhìn sông Hương ở vẻ đẹp của nó mà không biết rằng sông
Hương chính là nơi khởi nguồn, nơi bắt đầu của không gian văn hóa. Sẽ không nói quá nếu cho rằng
không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay. Chính vì vậy, từng ngày từng giờ sông
Hương duy trì và bồi đắp phù sa cho cả một vùng văn hóa xứ sở. Ấy thế nhưng dòng sông không
muốn bộc lộ cái công lao to lớn ấy. Nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến nhiều thế kỉ qua. Và đây là
chiều sâu vẻ đẹp nhân cách của dòng sông, là nét tính cách đáng trân trọng của Hương giang mà
nhà văn muốn khắc họa.
Như vậy,với sự liên tưởng này Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ biến sông Hương thành một thực thể có linh hồn, có xúc
cảm mà còn đặc biệt nhấn mạnh làm nổi bật mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với mảnh đất cố đô từ bao
đời nay. Điều đó cũng phần nào thể hiện được tấm lòng gắn bó sâu nặng của nhà văn với quê hương, với dòng sông có
nhiều nét cá tính độc đáo này.
3. Đánh giá
Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Dưới cái nhìn tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương
được khám phá ở góc độ địa lí qua phần thượng nguồn. Nhà văn đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu
cảm, giữa chất trữ tình và chính luận, cảm xúc và trí tuệ trong lối văn hướng nội, súc tích vận dụng thành công các biện pháp
tu từ nghệ thuật như nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, liên tưởng, tưởng tượng, ngôn từ phong phú, đa dạng, giọng văn đầy biến
hóa linh hoạt đã khiến cho con sông từ vật vô tri vô giác nay bỗng trở nên có hồn, có tính cách, có tâm trạng khi thì dịu
dàng, say đắm, đậm chất trí tuệ, khi lại mạnh liệt, phóng khoáng, hoang dại, đầy cá tính.
III. Kết bài
Vẻ đẹp của dòng sông Hương ở phần thượng nguồn đã bộc lộ mọi cung bậc cảm xúc của nó, vừa mãnh
liệt, sâu lắng; vừa trữ tình thiết tha; vừa bình thản trí tuệ. Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả ca ngợi vẻ đẹp
thiên nhiên của sông Hương cũng chính là tôn vinh văn hóa của một vùng đất, khám phá tâm hồn con người xứ
Huế. Sông Hương trở thành một biểu tượng của Huế, tượng trưng cho vùng đất và con người cố đô. Qua những
phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương cũng đã bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự
hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương yêu dấu của mình.
Đoạn 2. Từ “ Phải nhiều thế kỉ qua đi…bát ngát tiếng gà…”
I. Mở bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn
học hiện đại Việt Nam. Một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều
lĩnh vực. Ông cũng là người nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại và đặc biệt thành công ở
thể loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó
chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị
luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, sâu rộng
về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và
tài hoa. Trong sự nghiệp sáng tác văn chương, bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
được xem là tác phẩm đặc sắc nhất làm nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường và
cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn. Tác phẩm nói về vẻ đẹp của
dòng sông Hương qua những góc nhìn đa chiều và từ các phương diện khác nhau, từ
đó thể hiện lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với
mảnh đất xứ Huế thân thương yêu dấu của mình…. (Đưa vấn đề cần nghị luận vào)
II. Thân bài
Đoạn 2. Từ “Phải nhiều thế kỉ qua đi…bát ngát tiếng gà...”
Vấn đề cần nghị luận: Tác giả khám phá vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới góc nhìn địa lí ở
phần ngoại vi thành phố Huế.
1.Khái quát.
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên năm
1986.
+ Tác phẩm được tác giả trình bày dưới dạng bút kí, một thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như
tình cảm của con người một cách sâu sắc, chân thành nhất.
+ Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy
qua lòng thành phố Huế, đó là con sông Hương . Và nhà văn đã rất tài tình khi lột tả được hết
vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế mông mơ dưới nhiều góc độ của
lịch sử, địa lí, văn hóa…qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho
vẻ đẹp của vùng đất cố đô với những trang sử vẻ vang, hào hùng, với cảnh sắc thiên nhiên thơ
mộng, trữ tình trở thành biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người xứ Huế.
+ Bài bút kí gồm có ba phần, đoạn trích trong đề bài nằm ở những đoạn văn đầu tiên của phần
1 tác phẩm.
2. Phân tích
Luận điểm: Vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới góc nhìn địa lí ở phần ngoại vi thành phố Huế.
+ Ngay từ câu văn mở đầu của đoạn trích, tác giả đã so sánh hình ảnh sông Hương
chảy qua cánh đồng Châu Hóa giống như một “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng
giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. 
+ Vận dụng nghệ thuật nhân cách hóa gợi liên tưởng thú vị tới truyện cổ tích
lãng mạn về tình yêu đó là “Nàng công chúa ngủ trong rừng”.Đặc biệt hai chữ
“mơ màng” gợi tả hình ảnh một giấc ngủ đẹp và đầy quyến rũ của dòng sông,
dòng sông như tỉnh như mơ, như thực như mộng.
+ Bên cạnh đó, hình ảnh “cánh đồng hoa dại”lại gợi lên một không gian trong
trẻo, thơ mộng nhuốm màu sắc cổ tích xa xưa.
+ Như vậy, chỉ một câu văn ngắn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp
trong sáng, hồn nhiên của dòng sông, để từ đó, ngòi bút của nhà văn cuốn hút
người đọc vào khám phá thuỷ trình đầy mê hoặc của Hương giang. 
+ Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa
khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có
ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”.
+ Câu văn mềm mại, uyển chuyển biết bao kết hợp với các động từ như chuyển dòng, vòng
giữa, uốn mình cùng với phép so sánh “như một cuộc tìm kiếm có ý thức” đã gợi ra hình ảnh
dòng sông mềm mại,uốn lượn nhịp nhàng, đầy vẻ nữ tính, gợi cảm, quyến rũ vô cùng. Nét đẹp
ấy cũng khiến ta liên tưởng đến nét “ngoằn ngoèo”, hay “áng tóc trữ tình” tuôn dài, tuôn dài
của con sông Đà dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Chính vẻ đẹp này đã cho ta
thêm một nét cảm nhận khác nữa về vẻ đẹp thiên nhiên bao la của đất nước để rồi từ đó càng
thêm trân quý những nét đẹp độc đáo của non sông đất nước mình.
+ Hành trình đến với "người tình mong đợi" của "người con gái đẹp" này khó khăn và đầy gian
nan, thử thách khi phải vượt qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi Nguyệt Biều, Lương Quán,
đồi Thiên Mụ thì mới gặp được.
+ Dòng chảy của sông Hương qua các địa danh được tác giả liệt kê, mang đến cho người đọc
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế cũng như vốn hiểu biết sâu rộng về văn
hoá, kiến thức địa lý phong phú của nhà văn.
+ Tác giả tiếp tục sử dụng một loạt các động từ chỉ đường nét khiến ta hình dung về dòng chảy
trữ tình của con sông thật sống động như : chuyển hướng, vòng qua, ôm lấy, xuôi dần..".
Chính hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có
hồn như một sinh thể sống động và giàu sức sống mãnh liệt. + Rõ ràng, với sự am hiểu tường
tận về kiến thức địa lý, nhà văn đã tái hiện lược đồ dòng chảy của sông Hương như một cuộn
phim tài liệu sống động. Hành trình về xuôi của dòng sông không hề đơn điệu, nhàm chán, tẻ
nhạt mà khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này đến sự bất ngờ khác. Người đọc có lúc
cứ ngỡ tác giả đã từng nhiều năm tháng du ngoạn ngược xuôi với con thuyền trên dòng sông
Hương.
+ Quan sát ở điểm nhìn gần hơn,“ Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của
Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh
thẳm”. Đi trong “dư vang” là đi trong âm vang, trong sự vang vọng của đại ngàn Trường Sơn
hùng vĩ. Dòng chảy ấy dù uốn quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc vẫn còn mạnh mẽ. Hai chữ
“vượt qua” gợi hành trình nhọc nhằn, gian truân, vất vả và “ sắc nước trở nên xanh thẳm”
chính là phần thưởng xứng đáng mà sông Hương có được sau hành trình nhọc nhằn ấy.
+ Thuỷ trình của sông Hương đã phần nào được kiềm chế sức mạnh khi “ nó trôi đi giữa hai
dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam
Thai, Lựu Bảo” .Từ đây người ta nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với sắc nước xanh
thẳm, hiền hoà. Có thể nói, chính sắc nước, dáng hình đã làm nên một vẻ đẹp bình yên mà
thơ mộng đến lạ lùng cho Hương giang.
+ Khi về với Huế, sắc nước của sông Hương bắt đầu thay đổi. Cái màu xanh thẳm kia sẽ
phản quang với núi đồi tạo nên màu sắc đầy biến ảo "Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" như
người Huế vẫn thường miêu tả về màu nước trên sông Hương. Đó là màu sắc đặc trưng của
sông Hương mà không một dòng sông nào có được. Tạo nên một bức tranh thiên nhiên kì
thú hài hòa. Màu xanh của nước, kết hợp với màu đỏ của đồi núi, màu trắng của hơi nước
tạo nên một sự biến ảo đầy màu sắc, đa chiều, đa diện như một bức tranh thủy mặc giữa
chốn trần gian.
+ Sông Hương và Huế thật đẹp, thật bí ẩn trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Độc
đáo là vậy, là không giống ai, là biến ảo, là huyền bí. Ta có cảm giác đến với sông Hương như
là được vén lên một bức màn của tấm voan mỏng để khám phá những nét đẹp trầm tích từ
bên trong, để từ đó lộ ra phần hồn sâu thẳm của dòng sông thơ mộng, quyến rũ này.
+ Đoạn trích khép lại bằng hai câu văn miêu tả sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lý, như
cổ thi”.
+ Khi chảy qua miền lăng tẩm đền đài, nơi yên nghỉ của các triều đại vua chúa, sông Hương như trầm
mặc hẳn đi, bởi nó đang đi qua một “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong
lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một
vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. 
+ Các từ ngữ như “u tịch”, “âm u”, “thiên cổ”, “vạn niên” gợi không khí cổ kính, thiêng liêng và cũng
như phần nào giải thích cho vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương.
+ Nhà văn đã khẳng định: “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi, kéo
dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên
kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”. 
+ “Trầm mặc” là vẻ đẹp trầm tư, gợi ra cảm giác im lìm, dáng đứng thâm nghiêm sâu lắng, mang nặng
nỗi niềm tâm sự, hoài niệm quá khứ. Nét đẹp ấy làm cho đất trời, con người cũng thấy nặng lòng. So
sánh với “triết lý” là sự trải nghiệm, là chân lý; “Cổ thi” là vẻ đẹp cổ kính, giàu chất thơ, chất họa.
Dòng sông như hội tụ đầy đủ dấu ấn của triết học, thi ca, nhạc họa. Đây cũng chính là cái tôi tài hoa
của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong cách miêu tả và khám phá sông Hương. 
+ Cách dùng từ của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở câu cuối của đoạn trích cũng rất độc đáo, đầy sự
sáng tạo. Nếu như từ “phẳng lặng” gợi hình ảnh mặt nước trong trẻo, yên bình, không gợn
sóng thì hai từ “ngân nga” gợi âm thanh ngân vang, luyến láy, như kéo dài ra mênh mang trong
cõi vô thường. Hơn nữa, từ láy “bát ngát” được đặt giữa hình ảnh “những xóm làng trung du
bát ngát tiếng gà” gợi ra không gian bao la mang vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, lắng đọng như đưa
người đọc trôi mênh mang vào một cõi ảo huyền đến nỗi thèm một cái giật mình để dứt ra
khỏi cảm giác ấy mà không được, cho đến khi bừng tỉnh bởi tiếng chuông chùa Thiên Mụ. 
3. Đánh giá
Bằng ngòi bút tài hoa, uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp của
sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế. Hình tượng sông Hương được miêu tả bằng ngôn ngữ
tinh tế, giàu chất thơ, lối hành văn hướng nội,súc tích, mê đắm, tài hoa, nghệ thuật so sánh,
nhân hóa sáng tạo, những liên tưởng độc đáo, bất ngờ...đã giúp nhà văn không chỉ tái hiện lại
một cách chân thực dòng chảy địa lí tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy
trình ấy thành "hành trình đi tìm người yêu" của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình
tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo, đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi
nó chảy vào lòng thành phố Huế thân yêu.
III. Kết bài
Như vậy, bằng tình yêu quê hương xứ sở sâu nặng kết hợp với
vốn kiến thức đa dạng phong phú để miêu tả dòng sông,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên bức tranh thiên nhiên đậm
sắc màu văn hóa và bản sắc riêng của sông Hương. Nhà văn
quả thật tài hoa khi biến dòng sông vô tri, vô giác thành một
sinh thể có hồn, có tâm trạng, cảm xúc để lại những ấn tượng
sâu lắng trong lòng người đọc, người nghe.
Đoạn 3. Từ “ Từ đây, như đã tìm đúng đường về…vấn vương của một nỗi lòng.”
I. Mở bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn
học hiện đại Việt Nam. Một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh
vực. Ông cũng là người nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại và đặc biệt thành công ở thể
loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là
sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, sâu rộng về triết
học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.
Trong sự nghiệp sáng tác văn chương, bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được
xem là tác phẩm đặc sắc nhất làm nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường và cũng tiêu
biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn. Tác phẩm nói về vẻ đẹp của dòng sông
Hương qua những góc nhìn đa chiều và từ các phương diện khác nhau, từ đó thể hiện
lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với mảnh đất xứ
Huế thân thương yêu dấu của mình…. (Đưa vấn đề cần nghị luận vào)
II. Thân bài
Đoạn 3. Từ “ Từ đây, như đã tìm đúng đường về…vấn vương của một nỗi lòng.”
Vấn đề cần nghị luận: Tác giả khám phá vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào thành phố
Huế thân yêu.
1.Khái quát.
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên năm
1986.
+ Tác phẩm được tác giả trình bày dưới dạng bút kí, một thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như
tình cảm của con người một cách sâu sắc, chân thành nhất.
+ Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy
qua lòng thành phố Huế, đó là con sông Hương . Và nhà văn đã rất tài tình khi lột tả được hết
vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế mông mơ dưới nhiều góc độ của
lịch sử, địa lí, văn hóa…qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng
cho vẻ đẹp văn hóa và tâm hồn con người cố đô với những trang sử vẻ vang, hào hùng, với
cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trữ tình.
+ Bài bút kí gồm có ba phần, đoạn trích trong đề bài nằm ở đoạn văn giữa của phần 1 tác
phẩm.
2. Phân tích
Luận điểm: Vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào thành phố Huế thân yêu.
+ Bằng ngòi bút hoa mỹ của một cái tôi tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận sông
Hương dưới góc nhìn hội hoạ với sự thay đổi của dòng chảy và tâm trạng của Hương Giang
giàu xúc cảm. Chính tiếng chuông chùa Thiên Mụ đã đánh thức dòng chảy đưa dòng sông từ
dáng vẻ trầm mặc đột khởi thành niềm vui. Do đó,trong đoạn trích này cũng như cả bài bút
kí, sông Hương được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân hóa thành một người con gái
đang yêu với tâm hồn phong phú và sâu thẳm.
+ Vượt qua hành trình gian truân, vất vả, khó khăn mới gặp được Huế, người tình mong
đợi, niềm vui của người con gái sông Hương như vỡ òa “Từ đây, như đã tim đúng đường về,
sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo
một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc.”
+Có thể thấy, sông Hương khi gặp Huế trong cái nhìn của nhà văn là dòng chảy của tâm
trạng chất chứa niềm vui, niềm hạnh phúc và cả sự tin tưởng, yên tâm của người con gái khi
đã tìm thấy chính mình, đã “tìm đúng đường về” trái tim mình.
+ Để rồi,trước khi giáp mặt thành phố Huế ở Cồn Giã Viên, sông Hương đã nhận ra người tình mong đợi của
mình qua hình ảnh cây cầu Tràng Tiền “ nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời,
nhỏ nhắn như những vành trăng non”.
+ Sự so sánh, liên tưởng độc đáo của nhà văn vừa tạo hình chính xác cây cầu Tràng Tiền, linh hồn của xứ Huế,
vừa gợi ra ánh mắt đắm say của người thiếu nữ dành cho người tình đích thực của mình. Do đó,trong hình
ảnh so sánh này vừa có màu sắc, hình dáng của chiếc cầu,vừa có ánh sáng của bầu trời lại vừa gợi ra nét
trong sáng, e ấp, dịu dàng, duyên dáng của người con gái Huế. Sông Hương và chiếc cầu Tràng Tiền hài hòa
với nhau làm nên vẻ đẹp vừa thanh thoát vừa thơ mộng cho xứ Huế.
+ Khi giáp mặt thành phố Huế ở Cồn Giã Viên, sông Hương đã phô bày hết vẻ đẹp nữ tính đầy quyến rũ của
mình “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến;đường cong ấy làm cho dòng sông mềm
hẳn đi , như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu” .
+Phép so sánh mới lạ khi tác giả đã so sánh “đường cong” mềm mai của dòng sông với “tiếng vâng không nói
ra của tình yêu” . Chính điều này cũng đã đem đến nhiều liên tưởng thú vị. “Tiếng “vâng” không nói ra của
tình yêu” phải chăng là sự thuận tình, sự đồng ý mà không cần đến ngôn ngữ âm thanh, nó thể hiện nét
duyên dáng, e ấp, ý nhị, kín đáo của người con gái trong tình yêu. Do đó, hình ảnh so sánh ấy vừa tạo hình
chính xác dòng chảy và vẻ đẹp tâm hồn của cả con người xứ Huế . Rõ ràng, sông Hương về đến Huế đã mang
linh hồn của mảnh đất và con người nơi đây.
+ Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật lãng mạn, tài hoa biết bao trong những câu văn đậm chất hội hoạ
và am hiểu tâm lý như thế.
+ Tiếp tục vận dụng nghệ thuật so sánh và cái nhìn hướng ngoại, nhà văn đã mở rộng tầm
nhìn tới những dòng sông đẹp trên thế giới. Đó là những dòng sông nổi tiếng đã đi vào thơ ca,
nhạc hoạ như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Pu-đa-pét hay dòng sông Nê va hùng vĩ của
nước Nga. Điều này không chỉ tôn thêm vẻ đẹp của sông Hương mà còn thể hiện niềm tự hào
sâu sắc của tác giả đối với dòng sông quê hương,đất nước mình.
+ Tiếp đến, là cái nhìn hướng nội, tác giả lại quay về với sông Hương, quay về với dòng sông
“nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình” và chợt nhận ra dòng sông khi chảy vào
thành phố Huế mang vẻ đẹp không chỉ ngoại hình mà còn đẹp ở tâm hồn thuỷ chung, chung
tình với Huế.
+ Với cái nhìn hoài cổ kết hợp với cảm nhận tình yêu, nhà văn đã thấu cảm được phần hồn sâu
lắng của con sông xinh đẹp. Trước hết, từ góc nhìn tình yêu, nhà văn nhìn thấy giữa lòng thành
phố, sông Hương tỏa thành nhiều nhánh sông Đào như những cánh tay mềm mại, ôm ấp lấy
người tình thủy chung. Còn ở góc nhìn hoài cổ, nhà văn lại thấy sông Hương mang nét đẹp cổ
thi đầy lãng mạn với hình ảnh: “ sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa cây cừa cổ
thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm
sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”.
 
+ Những hình ảnh “xóm thuyền xúm xít”, “ánh lửa…lập loè”, “đêm sương” làm sông
Hương vừa gần gũi đời thường, vừa lại như xa xăm như trong cõi mênh mang của cổ thi.
Có thể nói, vẻ đẹp của sông Hương giữa lòng thành phố Huế có sự đan cài giữa quá khứ
và hiện tại, giữa cổ điển và hiện đại. Sự đan xen ấy đã làm nên vẻ đẹp rất riêng cho sông
Hương và xứ Huế.
+ Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế còn nổi bật với dòng chảy buồn, nhịp chảy
chậm.Nhịp chảy chậm, thực chậm của sông Hương đã được nhà văn lí giải từ đặc điểm
địa lí “Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của
dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ
chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.
+ Không chỉ có vậy, mượn cách nói giàu hình ảnh của nhà triết học Hi Lạp Hê-ra-clit “đã
khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh.”, nhà văn đã đưa ra một kiến giải
hết sức thú vị về nhịp chảy của sông Hương trong lòng thành phố Huế. Đó là cách lí giải
từ trái tim. Cảm nhận bằng tâm hồn của một người con gái say đắm trong tình yêu, nhà
văn đã nhận ra “điệu chảy lặng lờ” của sông Hương khi ngang qua thành phố chính là
“điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.”
+ Điệu slow ấy của sông Hương thật lãng mạn, trữ tình, nó gắn với văn hoá tâm linh của con
người Huế: “có thể cảm nhận bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh từ những
đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi
muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. 
+ Bằng ngôn ngữ mượt mà, bóng bẩy, kết hợp với những tính từ, động từ, phép so sánh trong
câu văn trên như tả hết được nét đẹp lãng mạn mà giàu chất thơ, chất hoạ của sông Hương
làm cho điệu slow tình cảm ấy lại trở nên có linh hồn, vừa gợi lên nhịp chảy hiền hòa, chậm rãi
của dòng sông, vừa cho ta cảm nhận được sự gắn bó,vấn vương, quấn quýt, tình cảm đằm
thắm, thiết tha, sâu nặng của sông Hương dành riêng cho xứ Huế .
3.Đánh giá
Đoạn trích đã miêu tả thành công vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào lòng thành phố
Huế bằng ngòi bút tinh tế, lối viết giàu cảm xúc, kết hợp giữa miêu tả và tự sự, nghệ thuật
nhân hoá, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ, thú vị. Ngôn ngữ giàu chất thơ,
chất hoạ, chất nhạc, nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén
và suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa….
III. Kết bài
Qua những cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy vào
thành phố Huế, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận
và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi
điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện cách cảm nghĩ sâu sắc,
mới mẻ, độc đáo về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ
trong những cái nhìn ấy ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn
bó tha thiết, niềm tự hào và thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối
với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông
quê hương, xứ sở.
Đoạn 4. Từ “ Hình như trong khoảnh khắc …chung tình với quê hương xứ sở.”
I. Mở bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn
học hiện đại Việt Nam. Một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh
vực. Ông cũng là người nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại và đặc biệt thành công ở thể loại
bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là sự kết
hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với
suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, sâu rộng về triết học, văn
hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Trong sự
nghiệp sáng tác văn chương, bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được xem là tác
phẩm đặc sắc nhất làm nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường và cũng tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật của nhà văn. Tác phẩm nói về vẻ đẹp của dòng sông Hương qua
những góc nhìn đa chiều và từ các phương diện khác nhau, từ đó thể hiện lòng yêu quê
hương, đất nước, niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với mảnh đất xứ Huế thân thương
yêu dấu của mình…. (Đưa vấn đề cần nghị luận vào)
II. Thân bài
Đoạn 4. Từ “ Hình như trong khoảnh khắc…chung tình với quê hương xứ sở.”
Vấn đề cần nghị luận: Tác giả khám phá vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với nền văn hoá
xứ Huế và sự chung thuỷ của dòng sông khi chia tay rời khỏi kinh thành Huế để đi ra biển
cả.
1.Khái quát.
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên
năm 1986.
+ Tác phẩm được tác giả trình bày dưới dạng bút kí, một thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng
như tình cảm của con người một cách sâu sắc, chân thành nhất.
+ Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy
qua lòng thành phố Huế, đó là con sông Hương . Và nhà văn đã rất tài tình khi lột tả được hết
vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế mông mơ dưới nhiều góc độ
của lịch sử, địa lí, văn hóa…qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu
tượng cho vẻ đẹp văn hóa và tâm hồn con người cố đô với những trang sử vẻ vang, hào
hùng, với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trữ tình.
+ Bài bút kí gồm có ba phần, đoạn trích trong đề bài nằm ở đoạn văn giữa của phần 1 tác
phẩm.
2. Phân tích.
• Vẻ đẹp sông Hương trong mối quan hệ với văn hóa Huế
+ Sông Hương trước hết gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế. Bằng sự lãng mạn trữ
tình vốn có của một nhà văn đã gắn bó lâu năm với kinh thành Huế, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã nhìn dòng sông một cách đắm say và nhận ra, Hương giang giống như một
“người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”.
+ Bằng việc vân dụng nghệ thuật so sánh kết hợp với nhân cách hoá, liên tưởng độc
đáo, sáng tạo,sông Hương hiện lên như một người nghệ sĩ với bản đàn sông nước.
Nàng đẹp yêu kiều, diễm lệ; kiêu sa mà đằm thắm dịu dàng, quyến rũ. Người tài nữ ấy
đã đánh thức Huế bởi những bản đàn, đánh thức đêm kinh thành bằng lời ca và tiếng
hát. Chính không gian sông nước ấy là nơi khơi nguồn cảm hứng để: “toàn bộ nền âm
nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”.
+ Liên tưởng tới việc nghe ca Huế giữa ban ngày, hay trên sân khấu nhà hát, nhà văn
đã bày tỏ sự thất vọng của mình vì muốn hiểu được nhạc Huế, ca Huế thì phải nghe
chính nó trên chính dòng sông đã sinh ra nó.
+ Trong sự so sánh ấy, nhà văn lại tiếp tục đưa ta vào đêm Huế để lắng đọng cùng với âm nhạc
của xứ sở này. Với vốn am hiểu sâu sắc về âm nhạc cổ điển Huế, tác giả đã có một cảm nhận
hết sức tinh tế: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái
chèo khuya”. Đó là câu văn viết theo lối liên tưởng với cảm nhận âm nhạc. Phải là người có độ
thẩm âm cao mới phát hiện ra và có sự so sánh độc đáo đến vậy. “Tiếng nước rơi bán âm” là
tiếng nước rơi trầm đục, gợi hình dung về một đêm khuya thanh vắng trên dòng sông Hương.
Nơi đây, giữa bốn bề kinh thành trầm mặc, nền âm nhạc đã ra đời. Và cũng chính không gian
lắng đọng này mà nghe ca Huế trên sông thì thật là không gì bằng. Có lẽ chính vì vậy mà du
khách thập phương đến với Huế chẳng thể nào mà cưỡng lòng mình được khi theo chân
những ca công lên những con thuyền rồng để nghe nhã nhạc cũng đình Huế.
+ Viết về sông Hương, nhà văn còn có một phát hiện, phán đoán rất bất ngờ là dòng sông
Hương với âm nhạc Huế có ảnh hưởng đến kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Hoàng Phủ
Ngọc Tường cho rằng đại thi hào đã phải bao năm lênh đênh trên quãng sông này, nghe nhạc
Huế với một phiến trăng sầu. Và chính môi trường văn hóa ấy đã nuôi dưỡng hồn thơ của đại
thi hào, để từ đó những bản đàn đi suốt cuộc đời nàng Kiều.
+ Cái tôi tài hoa và phóng khoáng ấy của nhà văn còn phát hiện ra một
người nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc
nhạc Huế trong những trang Kiều của Nguyễn Du: “Trong như tiếng
hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Khúc âm trong trẻo
như tiếng hạc bay qua, lúc lại đục như tiếng suối mới sa nửa vời, gợi
nhớ đến “Tứ đại cảnh” – một bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua
Tự Đức sáng tác.
+ Ngày nay, nhã nhạc cung đình Huế đã được Unesco công nhận là di
sản văn hoá phi vật thể của thế giới. Đó không chỉ là niềm tự hào của
những con người xứ Huế mà đó còn là niềm tự hào của cả dân tộc Việt
Nam. Và có ai ngờ được rằng, nền âm nhạc ấy đã được sông Hương
khơi nguồn và vun đắp.
*Sông Hương khi rời khỏi kinh thành Huế
+ Khi rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên,
do đặc điểm địa lý đặc biệt nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó
phải chuyển dòng sang hướng đông tây và như vậy sẽ lại đi qua một góc của
thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của
dòng sông Hương nhưng với sự
miêu tả của một trái tim nhạy cảm, sông Hương chính là hiện thân của một
người tình đằm thắm, dịu dàng, thủy chung không nỡ rời xa thành phố thân
yêu của nó.
+ Bằng việc sử dụng các động từ như: chếch,ôm, đổi, rẽ, ngoặt, kết hợp với
các tính từ chỉ sắc thái tâm trạng “nhớ”, “lưu luyến”; từ chỉ địa danh Cồn
Hến, Vĩ Dạ; từ chỉ hướng như chính bắc, đông tây đã khắc hoạ rõ hơn cuộc li
biệt chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn,nhớ thương của dòng sông đối với thành
phố Huế.
+Sông Hương mang đặc điểm tâm hồn con người xứ Huế. Nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường luôn đi sâu khám phá vẻ đẹp của sông Hương trong chiều
sâu văn hóa của xứ Huế. Sông Hương không chỉ góp phần kiến tạo nên
gương mặt văn hóa Huế khi sản sinh ra nền âm nhạc Huế, những bài Nam
ai Nam bình da diết… mà còn được khám phá trong mối quan hệ với con
người khi dòng sông mang đậm đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế
nơi đây.
+ Với người Huế, nơi đây là nơi chia tay “dõi xa ngoài mười dặm trường
đình”. Là nơi sông Hương sẽ xuôi một dòng về với biển cả. Nên một lần đi
là đi mãi, một lần chia xa là đến cả ngàn vạn dặm đường. Bởi thế, khúc
quanh ấy thật bất ngờ mà cũng thật tự nhiên biết bao nhiêu. Người Huế
vốn sống nặng lòng, và con sông Hương kia cũng vậy.
+ Và “giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim
Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Chính khúc quanh đột ngột ấy
làm cho tác giả bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con
người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
+ Câu văn sử dụng phép so sánh, nhân hoá kết hợp các tính từ bộc lộ cảm xúc “vương
vấn, lẳng lơ” khiến dòng sông hiện lên sống động, trữ tình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
mượn câu Kiều để nói lên mối chung tình ấy: “Còn non, còn nước,còn dài, còn về, còn
nhớ “. Và người viết những dòng nhớ, dòng thương, dòng luyến lưu tha thiết ấy đã kết
luận “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và giống với con người nơi đây”. Như thế có
nghĩa là sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn là kết đọng rõ
nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế, vẻ đẹp của tính cách, tâm hồn Huế.
“Ấy là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ
sở”. Vâng! Sông Hương chung tình với kinh thành Huế như người dân Châu Hoá mãi
mãi yêu mảnh đất tình người của họ.
3. Đánh giá
Bằng sự quan sát tinh tường, tỉ mỉ, trí tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ trong sáng, uyển
chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu tư như so sánh, nhân hoá… vận
dụng những tri thức phong phú, những hiểu biết sâu sắc về nhiều mặt như địa lý, thơ ca, âm
nhạc… đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông Hương trong mối quan hệ với văn hoá
Huế và sự chung tình của nó với mảnh đất xứ Huế thân yêu.
III. Kết bài
Marcell Proust quan niệm: "Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ
sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập". Sông Hương từ bao đời trở thành
dòng sông của âm nhạc, thi ca; biết bao tác phẩm nghệ thuật khơi nguồn từ dòng chảy Hương
Giang mà khi chảy qua trang kí Hoàng Phủ Ngọc Tường lại vẫn đắm say, diệu kì đến thế. Đoạn
trích thể hiện được những nét độc đáo, mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong từng con
chữ công phu, tái hiện vẻ đẹp sông Hương khi rời khỏi kinh thành Huế. Từ đó, người đọc
không chỉ thấy được nét tài hoa, uyên bác trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường mà còn cảm
nhận nơi ông một tình yêu thiết tha, sâu nặng dành cho sông Hương và mảnh đất cố đô văn
hiến.
Đoạn 5. Từ “ Hiển nhiên là sông Hương …đột ngột của một lời thề”
I. Mở bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn
học hiện đại Việt Nam. Một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh
vực. Ông cũng là người nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại và đặc biệt thành công ở thể
loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là
sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, sâu rộng về triết
học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.
Trong sự nghiệp sáng tác văn chương, bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được
xem là tác phẩm đặc sắc nhất làm nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường và cũng tiêu
biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn. Tác phẩm nói về vẻ đẹp của dòng sông
Hương qua những góc nhìn đa chiều và từ các phương diện khác nhau, từ đó thể hiện
lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với mảnh đất xứ
Huế thân thương yêu dấu của mình…. (Đưa vấn đề cần nghị luận vào)
II. Thân bài
Đoạn 5. Từ “Hiển nhiên là sông Hương…đột ngột của một lời thề.”
Vấn đề cần nghị luận: Tác giả khám phá vẻ đẹp của dòng sông Hương trong mối quan hệ với
lịch sử dân tộc.
1.Khái quát.
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên năm
1986.
+ Tác phẩm được tác giả trình bày dưới dạng bút kí, một thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như
tình cảm của con người một cách sâu sắc, chân thành nhất.
+ Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy
qua lòng thành phố Huế, đó là con sông Hương . Và nhà văn đã rất tài tình khi lột tả được hết
vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế mông mơ dưới nhiều góc độ của
lịch sử, địa lí, văn hóa…qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho
vẻ đẹp văn hóa và tâm hồn con người cố đô với những trang sử vẻ vang, hào hùng, với cảnh sắc
thiên nhiên thơ mộng, trữ tình.
+ Bài bút kí gồm có ba phần, đoạn trích trong đề bài nằm ở đoạn văn cuối của phần 1 tác
phẩm.
2. Phân tích
Luận điểm: Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử của dân tộc.
Gợi ý.
+ Đặt trong mối quan hệ với lịch sử của dân tộc, sông Hương là bản anh hùng ca hào
hùng bi tráng, là chứng nhân nhẫn nại và kiên cường của đất nước qua bao thăng
trầm lịch sử.
+ Có mặt từ thuở lập nước,sông Hương đã chứng kiến và tham gia hầu hết những
biến cố quan trọng của đất nước trong chiều dài lịch sử. Sông Hương xuất hiện trong
lịch sử dân tộc trước hết với vai trò một dòng sông biên thuỳ của đất nước các vua
Hùng, thuở mang tên Linh Giang- dòng sông thiêng.
Trong sách “ Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, đó là dòng sông viễn châu, dòng sông ở
chốn xa xôi nhất của Tổ quốc đã tham gia vào những trận chiến đấu oanh liệt để bảo
vệ chủ quyền của đất nước Đại Việt thân yêu.
+ Dòng sông cũng đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng
Nguyễn Huệ ở thế kỉ XVIII, sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của biết
bao cuộc khởi nghĩa.
+ Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX, sông Hương đã trở
thành nhân chứng lịch sử, đóng góp sức mạnh để làm nên chiến thắng. Từ cách mạng
tháng 8/1945 bằng những chiến công rung chuyển đến mùa xuân Mậu Thân 1968,
sông Hương kiên cường chịu đựng những nỗi đau mất mát mà không gì có thể bù đắp
nổi khi thành phố Huế bị bom Mĩ tàn phá, khi những di sản văn hoá bị huỷ hoại…
+ Cùng với Huế, sông Hương đã trở thành một nét son chói lọi trong lịch sử Đảng, lịch
sử của dân tộc.
ÞNhư vậy, đặt sông Hương trong chiều dài lịch sử từ thời dựng nước các vua Hùng
đến thời kì đánh Mĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ thể hiện tâm trạng đau đớn,
xót xa, nuối tiếc và căm phẫn tột độ trước tội ác của bọn giặc Mĩ đã gây ra cho thành
phố Huế mà hơn hết đó là tình yêu, niềm tự hào, ngưỡng mộ, ngợi ca và tấm lòng
biết ơn sâu sắc của nhà văn dành cho Huế, cho con sông yêu quý của quê hương,
đất nước mình.
ÞSông Hương vừa là dòng sông của thời gian ngân vang, là sử thi viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc, vừa sử thi, vừa trữ tình, vừa là thiên anh hùng ca hào hùng lại vừa là khúc
tình ca tươi mát, dịu dàng.
Đoạn 6. Từ “ Sông Hương là vây, là dòng sông của thời gian ngân vang…Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”
I. Mở bài
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những gương mặt nhà văn tiêu biểu của nền văn
học hiện đại Việt Nam. Một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh
vực. Ông cũng là người nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại và đặc biệt thành công ở thể
loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là
sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, sâu rộng về triết
học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa.
Trong sự nghiệp sáng tác văn chương, bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được
xem là tác phẩm đặc sắc nhất làm nên tên tuổi của Hoàng Phủ Ngọc Tường và cũng tiêu
biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn. Tác phẩm nói về vẻ đẹp của dòng sông
Hương qua những góc nhìn đa chiều và từ các phương diện khác nhau, từ đó thể hiện
lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với mảnh đất xứ
Huế thân thương yêu dấu của mình…. (Đưa vấn đề cần nghị luận vào)
II. Thân bài
Đoạn 6. Từ “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang…Ai đã đặt tên cho
dòng sông?.”
Vấn đề cần nghị luận: Tác giả khám phá vẻ đẹp của dòng sông Hương trong mối quan hệ với
lịch sử, văn hoá, thơ ca.
1.Khái quát.
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết tại Huế năm 1981, in trong tập bút kí cùng tên
năm 1986.
+ Tác phẩm được tác giả trình bày dưới dạng bút kí, một thể loại văn ghi lại cảm xúc cũng như
tình cảm của con người một cách sâu sắc, chân thành nhất.
+ Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy
qua lòng thành phố Huế, đó là con sông Hương . Và nhà văn đã rất tài tình khi lột tả được hết
vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế mông mơ dưới nhiều góc độ
của lịch sử, địa lí, văn hóa…qua những suy tư và liên tưởng, dòng sông đã trở thành biểu
tượng cho vẻ đẹp văn hóa và tâm hồn con người cố đô với những trang sử vẻ vang, hào hùng,
với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trữ tình.
+ Bài bút kí gồm có ba phần, đoạn trích trong đề bài nằm ở đoạn văn cuối của phần 1 tác
phẩm.
2.Phân tích: Vẻ đẹp sông Hương trong đoạn trích
2.1. Sông Hương dưới góc nhìn của lịch sử.
+ Mở đầu đoạn văn, nhà văn khẳng định: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân
vang, của sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc”. Với lối sử dụng hình ảnh ấy, nhà văn đã
nhấn mạnh dòng sông Hương vừa là một bản hùng ca, vừa là một bản tình ca dịu dàng, đậm
chất trữ tình và tươi đẹp.
+ Có thể nói Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương ở
cảnh sắc thiên nhiên, thấy nó ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho
những cánh đồng Châu Hóa, cho cuộc sống người dân xứ Huế mà ông còn nhìn sông Hương
như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Bởi từ góc nhìn lịch sử, sông Hương đã
trở thành chứng nhân của lịch sử, chứng kiến biết bao biến thiên, thăng trầm mà xứ Huế đã
phải trải qua như ở đoạn văn trước đó nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò
của dòng sông Hương trong lịch sử dân tộc.
+ Nhà văn đã bình luận về cách dòng sông Hương cống hiến cho lịch sử dân tộc.Đó là khi nghe
lời gọi của Tổ quốc, sông Hương biết cách “tự hiến đời mình làm một chiến công”.
2.2 Sông Hương gắn liền với nền văn hóa phi vật thể của xứ Huế
Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, sông Hương còn hàm chứa trong nó cả nền văn hoá phi vật thể của
Huế. Từ góc nhìn văn hóa ấy mà nhà văn nhận ra Hương giang khi “trở về với cuộc sống bình thường là
người con gái dịu dàng của đất nước”.
+ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hoài niệm đến khắc khoải khi bắt gặp một sắc màu của chiếc áo cưới ở
Huế xưa cũ “màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo
thành một màu tím ẩn hiện” mà các cô dâu Huế mặc sau tiết sương giáng. Điều đặc biệt hơn nữa là tác
giả đã phát hiện màu áo cưới ấy rất giống với “màu của sương khói trên sông Hương”. Để rồi từ cái sắc
màu văn hoá đặc trưng của Huế ấy mà tác giả liên tưởng một cách đầy ngẫu hứng mà rất có lí rằng sắc
áo điều lục mà người Huế ưa thích vốn là màu của sương khói trên sông Hương “giống như một tấm
voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông”.
+ Có lẽ, thông qua sự liên tưởng này nhà văn muốn ngợi ca sông Hương vì nó góp phần làm cho Huế trở
thành một bức tranh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình, muốn khẳng định sông Hương trong đời thường
mang vẻ đẹp dịu dàng của một cô gái Huế, tô đậm vẻ đẹp của dòng sông trong sự gắn bó với nền văn
hóa của mảnh đất cố đô.
+ Như vậy, sông Hương đã là một phần không thể thiếu được trong đời sống tâm hồn của người Huế
trầm mặc,lắng sâu.
2.3. Sông Hương là nguồn cảm hứng dạt dào cho thơ ca, nghệ thuật
Sông Hương – dòng sông thi ca.
Bằng vốn kiến thức văn học giàu có và phong phú, tác giả đã chạm tới linh hồn của một dòng sông mà
văn chương nghệ thuật vẫn luôn gọi tên nhưng chính dòng sông ấy chẳng bao giờ tự lặp lại mình trong
cảm nhận và cảm hứng của những người nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó.
Trước hết:
+ Tác giả đã thổi hồn vào những vần thơ tâm đắc của Tản Đà về Huế: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”.
Từ hình ảnh thơ trên kết hợp cùng với tâm hồn thơ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng rõ
ràng nhất cho sự tương giao giữa những tâm hồn nghệ sĩ với những rung động nhạy cảm về sắc biếc
đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế.
+ Bên cạnh đó nhà văn cũng làm sống dậy một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời
xanh” trong thơ Cao Bá Quát hay hình ảnh một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều
bảng lảng” trong hồn thơ của Bà Huyện Thanh Quan, để rồi từ đó nó đột khởi thành sức mạnh
phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
+ Và điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Cách so sánh, liên
tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết trong văn chương
muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của một cái Tôi nhà văn giàu chất
thơ này.
+ Đoạn văn kết thúc với một câu hỏi tu từ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Rõ
ràng, không chỉ trong đoạn văn này mà cả bài bút kí dường như là cuộc hành
trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải, băn khoăn, trăn trở, nghĩ suy “Ai đã
đặt tên cho dòng sông?”. Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở
thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo
hình hài mà đó còn là độ lắng sâu của những rung động da diết trong tâm hồn
ở mỗi con người.
+ “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vốn là câu hỏi bâng khuâng của một nhà thơ
Hà Nội khi ngắm nhìn vẻ đẹp của dòng sông Hương. Câu hỏi này còn được lặp
lại nhiều lần trong tác phẩm nhằm mục đích lưu ý người đọc về cái tên đẹp của
dòng sông: sông Hương (sông thơm). Chính câu hỏi ấy đã khơi lên mạch viết
dạt dào cảm xúc về vẻ đẹp thiên phú và đánh động bao nhiêu vốn liếng văn
hóa về dòng sông Hương chảy qua cố đô Huế từ thuở xa xưa cho đến tận bây
giờ và mãi mãi mai sau .
3. Đánh giá.
Bằng sự am hiểu tinh tường, vốn kiến thức phong phú trên nhiều khía cạnh, ngôn ngữ
có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén
với những suy tư đa chiều, hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa đã giúp
Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá thành công vẻ đẹp của dòng sông Hương ở góc nhìn
lịch sử, văn hoá, thơ ca .Phải là một con người gắn bó thiết tha sâu nặng với dòng sông
quê hương, với mảnh đất xứ Huế thân yêu thì tác giả mới có những trang văn viết về
con sông hấp dẫn, cuốn hút và say mê lòng người như vậy.
III. Kết bài.
Đoạn trích đã thể hiện những cảm nhận tinh tế, độc đáo, mới mẻ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường về dòng sông Hương của kinh thành Huế. Nhà văn đã đưa người đọc, người
nghe đến một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về dòng sông này.Đoạn trích nói riêng
và bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” nói chung đã khẳng định tài năng của một cái
Tôi tài hoa trên con đường văn học ở thể bút kí. Cũng qua những trang văn của mình
viết về con sông Hương, tác giả đã góp phần, bồi đắp về tình yêu thiên nhiên, quê
hương đất nước ở mỗi con người Việt Nam.
Dạng đề khác. Trong bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, tác giả Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã nhiều lần ví von vẻ đẹp sông Hương:
+ Lúc ở thượng nguồn: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di- gan
phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính
rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức
mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí
tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”
+ Khi về ngoại vi thành phố Huế: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách
liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như
một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó.”
+ Và khi tạm biệt kinh thành Huế: sông Hương “như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt
sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay
dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh
đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người
ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng
Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó,để nói một lời thề trước khi về biển
cả…”
Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong những lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật nét tài hoa trong phong cách kí
Hoàng Phủ Ngọc Tường
*Nét tài hoa: + Sử dụng thành công thể bút kí
+ Khám phá, miêu tả con sông Hương dưới nhiều góc độ và phương diện khác
nhau.
+ Sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật, trí liên tưởng, tưởng tượng
độc đáo, giọng điệu…
* Chất thơ của một ngòi bút tài hoa:
+ Chất thơ toát ra từ những hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật: “những xóm
làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh
hồn mô tê xưa cũ…” ; qua cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần
trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”.
+ Chất thơ còn lấp lánh ở cách Hoàng Phủ Ngọc Tường điểm xuyết ca dao, lời thơ Tản Đà, Cao Bá
Quát, Bà Huyện Thanh Quan…
+ Chất thơ còn tỏa ra từ nhan đề bài kí gợi mãi những âm vang trầm lắng của dòng sông : “Ai đã đặt
tên cho dòng sông?”
* Chất trí tuệ khi có sự am hiểu tường tận, sâu sắc để khám phá con sông Hương dưới
nhiều góc độ, phương diện khác nhau: lịch sử, văn hoá, âm nhạc, thơ ca…

You might also like