You are on page 1of 5

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

(Hoàng Phủ Ngọc Tường)


1. Kiến thức
- Vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của sông Hương và tình yêu, niềm tự hào của tác giả đối với dòng sông quê
hương, xứ Huế thân thương và đất nước.
- Lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ gợi cảm, giàu hình ảnh và nhịp điệu; nhiều so sánh, liên tưởng
mới mẻ, bất ngờ, thú vị, nhiều ẩn dụ, nhân hóa, điệp ngữ được sử dụng tài tình.
- Trân trọng những giá trị văn hóa, bài học về sự gắn bó của cá nhân với quê hương đất nước.
- Yêu quê hương, đất nước, nhân ái và khoan dung, tự lập, tự tin, tự chủ, có trách nhiệm với bản thân,
cộng đồng và đất nước.

I. Giới thiệu chung


1. Tác giả:
a. Cuộc đời:
Hoàng Phủ Ngọc Tường quê ở Quảng Trị nhưng sinh ra, lớn lên và học tập tại Huế. Ông vừa dạy học,
vừa tham gia các phong trào yêu nước của học sinh, sinh viên Huế, tham gia chính quyền cách mạng ở
tỉnh Quảng Trị. Sau 1975 ông công tác trong lĩnh vực văn nghệ tại Huế. HPNT viết văn, làm báo từ
những năm 1960.
b. Phong cách nghệ thuật:
Ông có phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác, sở trường là thể tùy bút, bút kí vừa giàu chất trí tuệ và
giàu chất thơ với nội dung văn hóa, lịch sử phong phú.
c. Tác phẩm chính:
Nhà văn đã từng đc nhận nhiều giải thưởng quốc gia về văn xuôi với các tác phẩm: Rất nhiều ánh lửa,
Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi, Ngọn núi ảo ảnh,…
2. Hòan cảnh ra đời và chủ đề tác phẩm
a. Hoàn cảnh:
Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách gồm tám bài kí, viết ngay sau
chiến thắng mùa xuân 1975, đang bừng bừng cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng
ở HPNT, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thuờng gắn với tình yêu thiên nhiên và truyền thống văn hóa
sâu sắc
b. Chủ đề
Bài tùy bút thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gắn liền với tình yêu thiên nhiên sâu sắc, với
truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời, đồng thời truyền đạt bằng một ngòi bút tài hóa, với lời văn đẹp và
sang.
Linh hồn của bài viết chính là vẻ đẹp huyền thọai của dòng sông Hương, qua ngòi bút tài hoa, lãng mạn
của HPNT

II. Nội dung


1. Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương:
1.1. Sông Hương ở thượng nguồn:
- Giữa lòng Trường Sơn: Sông Hương được ví như:
+ “Bản trường ca của rừng già”:
✔ Rầm rộ, mãnh liệt, cuộn xoáy qua đại ngàn, qua ghềnh thác.

✔ Dịu dàng, say đắm qua những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
+ Một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại:
✔ Bản lĩnh gan dạ.

✔ Tâm hồn tự do, trong sáng


-> Câu văn mượt mà, nghệ thuật liên tưởng độc đáo, phép nhân hóa, so sánh, nhiều động từ, tính từ gợi
cảm.
-> Tô đậm vẻ đẹp hoang dã, mạnh mẽ, đầy cá tính, có sức sống mãnh liệt nhưng cũng dịu dàng và say
đắm của sông Hương ở thượng nguồn.
- Ra khỏi rừng già: Sông Hương trở thành:“Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”:
+ Rừng già đã “chế ngự sức mạnh bản năng”.
+ Mang sắc đẹp “dịu dàng và trí tuệ”
-> Hình ảnh ẩn dụ: sông Hương là ngọn nguồn cho cảm hứng nghệ thuật, văn hóa của người Huế nói
riêng, người Việt Nam nói chung.
=>Sơ kết: Bằng sự quan sát tinh tế, trí tưởng phong phú; với nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo
bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện, khắc hoạ vẻ đẹp trẻ trung, hoang dại, đầy cá tính của sông
Hương. Đó là vẻ đẹp kín đáo và sâu thẳm của sông Hương mà nếu chỉ nhìn khuôn mặt kinh thành của
nó thì sẽ không thể hiểu hết được.
1.2. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế (đồng bằng)
- Sông Hương – “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng” đợi người tình đánh thức-> nhuốm màu cổ tích.
- Thủy trình của sông Hương:
+ Dòng chảy quanh co, gập ghềnh;
+ Chuyển dòng liên tục;
Đi trong dư vang của Trường Sơn.
-> Tìm mọi cách để đến với thành phố thân yêu – người tình của nó.
-> Thủy trình của sông Hương về TP. Huế là hành trình tình yêu, cuộc tìm kiếm có ý thức người tình
mong đợi của người con gái đẹp.
- Vẻ đẹp:
+ Mềm mại, gợi cảm: “uốn những đường cong thật mềm”, “mềm như tấm lụa” -> duyên dáng, thẹn
thùng rất Huế.
+ Nhiều màu sắc, màu nước biến ảo: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” -> luôn biết làm mới mình.
+ Trầm mặc, cổ kính khi chảy dưới những rừng thông u tịch, những lăng mộ kiêu hãnh, âm u -> hài hòa
với vẻ đẹp cổ kính của cố đô.
-> Sự kết hợp tài hoa hai bút pháp kể và tả làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương hài hòa với cảnh sắc
thiên nhiên xứ Huế.

1.3. Sông Hương đến thành phố Huế (chảy qua thành phố):
*. Không còn vẻ trầm mặc cổ thi, không còn những tiết tấu hùng tráng, không còn những đường
cong gợi cảm, sông Hương ở quãng này được tác giả cảm nhận với sắc màu hội họa, sắc màu văn
hoá gắn bó với kinh thành Huế.

Bằng ngòi bút hoa mỹ của một cái tôi tài hoa, tác giả đã cảm nhận Sông Hương dưới góc nhìn hội hoạ
với sự thay đổi của dòng chảy và tâm trạng của cô gái Hương Giang giàu xúc cảm. Chính tiếng chuông
chùa Thiên Mụ đánh thức dòng chảy đưa dòng sông từ dáng vẻ trầm mặc đột khởi thành niềm vui. Bởi
thế mở đầu đoạn trích là hình ảnh ngọc nữ Hương giang với tâm trạng “vui tươi hẳn lên”. Nàng đã nhìn
thấy “chiếc cầu trắng in ngấn lên nền trời nhỏ nhắn như những vành trăng non”, và chợt nhận ra đó
chính là tín hiệu của người tình nhân mong đợi. Trước mắt người đọc bỗng hiện ra bức tranh phong cảnh
kinh thành Huế với sắc màu tươi tắn mà thanh thoát, nhẹ nhàng. Phải chăng chính cuộc tình đẹp đã làm
cho khung cảnh gặp gỡ của lứa đôi cũng thật nên thơ. Bởi thế dòng chảy của nàng Hương cũng trở nên
“thẳng thực yên tâm” chảy nhanh hơn để gặp người tình. Con sông vì thế mà như bỗng có hồn, có tâm
trạng, con sông mang cái náo nức, rạo rực, nôn nao, khao khát của một cô gái chuẩn bị gặp người mình
yêu. Và thế là “nàng công chúa ngủ trong rừng” đã sắp được gặp chàng hoàng tử ngàn năm mong chờ
thật rồi. Thấy mình đã “tìm đúng đường về” thật rồi – sông Hương như “vui tươi hẳn lên giữa những
biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Phép nhân hoá kết hợp với miêu tả trong những câu
văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường làm dòng sông hiện lên thật sống động và gợi cảm biết bao.
*. Đoạn văn tiếp theo, tác giả mang đến ấn tượng thật sâu đậm về hình ảnh của Hương giang đoạn
chảy qua thành phố Huế.

Nếu như trước đó, dòng sông chảy thật nhanh, chạy thật mau trong nỗi niềm háo hức được ôm chầm lấy
người mình yêu thì ở đoạn này sông Hương lại mang một tâm trạng khác, một nét tâm lý khác: “Giáp
thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến; đường cong ấy
làm dòng sông như mềm hẳn đi như một tiếng “Vâng” không nói ra của tình yêu”. Phép so sánh mới lạ,
độc đáo; cái hữu hình so sánh với tâm trạng nên lột tả được cái e thẹn, ngượng ngùng, xấu hổ của người
con gái Hương Giang. Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật lãng mạn, tài hoa biết bao trong những
câu văn đậm chất hội hoạ và am hiểu tâm lý như thế. Qua ngòi bút tài hoa, tinh tế ấy của nhà văn, sông
Hương hiện lên như một thiếu nữ Huế. Trong niềm vui hân hoan của hội ngộ mà phải đến “hàng thế kỷ
qua đi” nàng mới được gặp người mình yêu, nhưng nàng vẫn không đánh mất vẻ dịu dàng, e lệ, tình tứ
vốn có của mình.

Bằng phép so sánh và cái nhìn hướng ngoại, nhà văn đã mở rộng tầm nhìn tới những dòng sông đẹp
của thế giới. Đó là những dòng sông nổi tiếng đã đi vào thi ca, nhạc hoạ như sông Xen của Pari, sông
Đa-nuýp của Pu-đa-pét hay dòng sông Nê va hùng vĩ của nước Nga. Tiếp đến, là cái nhìn hướng nội, tác
giả lại quay về với Sông Hương, quay về với dòng sông “nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của
mình” và chợt nhận ra nàng Hương đoạn qua thành phố Huế mang vẻ đẹp không chỉ ngoại hình mà còn
đẹp ở tâm hồn thuỷ chung, chung tình với Huế. Thầy Phan Danh Hiếu. Nhà văn Nga Lê-ô-nit Lê-ô-nốp
từng nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” . Quả đúng
vậy, nếu nhà văn họ Hoàng sử dụng hình thức truyện ngắn hay tiểu thuyết để viết về sông Hương thì
chắc chắn sẽ không bao giờ lột tả hết được sức gợi của nó. Thể tuỳ bút đầy ngẫu hứng có lúc không thể
kiềm chế được cảm xúc của nhà văn nhưng chính nó đã mang lại vẻ đẹp lộng lẫy của sông Hương.
Chính nhờ thể tuỳ bút mà nhà văn đã “khám phá” được gần như đầy đủ nhất tâm hồn sâu thẳm của
Hương giang. Với cái nhìn hoài cổ kết hợp với cảm nhận tình yêu, nhà văn đã thấu cảm được phần hồn
sâu lắng của con sông xinh đẹp. Từ góc nhìn tình yêu, nhà văn nhìn thấy giữa lòng thành phố, sông
Hương tỏa thành nhiều nhánh sông Đào như những cánh tay mềm mại, ôm ấp lấy người tình thủy chung.
Ở góc nhìn hoài cổ, nhà văn lại thấy sông Hương mang nét đẹp cổ thi đầy lãng mạn với hình ảnh: “sông
Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền
xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô
tê xưa cũ”. Những hình ảnh ấy làm sông Hương vừa gần gũi đời thường, vừa lại như xa xăm như trong
cõi mênh mang của cổ thi. Hình ảnh “xóm thuyền xúm xít”, “ánh lửa…lập loè”, “đêm sương” lại gợi
nhớ “trăng tà chiếc quạ kêu sương”, “giang phong ngư hoả đối sầu miên” trong bài thơ Đường nổi tiếng
của Trương Kế –Phong Kiều dạ bạc. Nhưng sông Hương qua thành phố Huế không chỉ mang những nét
hội hoạ cổ thi như thế mà còn là một bản nhạc, một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.

Gặp gỡ người tình thủy chung, có lẽ ai cũng muốn thời gian trôi chậm lại, ngừng lại. Sông Hương cũng
vậy, phải trải qua một hành trình gian lao mới gặp được người tình mong đợi nên dòng sông dùng dằng
không chảy, lặng lẽ như chờ đợi. Vì thế qua Huế, dòng chảy chùng hẳn xuống như “vấn vương của một
nỗi lòng”. Chính đảo cồn Hến đã làm giảm lưu tốc của dòng sông và tạo cho khuôn mặt dòng sông cơ hồ
chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Nhà văn đã quan sát tinh tế, bắt đúng thần thái, không khí, linh hồn cố đô:
sâu lắng, kín đáo, suy tư. Thầy Phan Danh Hiếu. Trong sự liên tưởng tới dòng chảy hùng vĩ của sông Nê
Va với hình ảnh giàu chất thơ: “sông Nê va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới
ánh sáng của mặt trời mùa xuân” hay sự liên tưởng tới nhà triết học Hê –ra-clít đã khóc suốt đời vì
những dòng sông trôi qua quá nhanh. Nhà văn họ Hoàng lại đưa ta trở lại sông Hương trong nỗi nhớ da
diết, chảy bỏng: “tôi lại nhớ con sông Hương của tôi”. Rõ ràng, dù có đi trăm phương nghìn hướng thì
cũng không nơi nào đẹp bằng quê hương, và cũng chẳng có dòng sông nào lại có thể đẹp bằng dòng
sông của quê nhà. Qua cái nhìn hướng ngoại, lại hướng nội, nhà văn càng thấy điệu slow của sông
Hương thật trữ tình. Điệu slow ấy gắn với văn hoá tâm linh của Huế: “có thể cảm nhận bằng thị giác
qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh từ những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về,
qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một
nỗi lòng”. Ngôn ngữ mượt mà, bóng bẩy, những tính từ, động từ mỹ miều kết hợp phép so sánh trong
câu văn trên như tả hết được nét đẹp lãng mạn mà giàu chất thơ, chất hoạ của sông Hương làm cho điệu
slow tình cảm ấy lại trở nên có linh hồn. Dòng chảy này không chỉ xuất hiện trong cái nhìn của Hoàng
Phủ Ngọc Tường mà trong cái nhìn của nhà thơ mới Hàn Mặc Tử, sông Hương cũng trở nên vương vấn:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay


Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Hay trong cái nhìn của một nhà thơ kháng chiến:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Nên chảy vào lòng với Huế rất sâu
(Tạm biệt Huế – Thu Bồn)
Chính điệu slow trữ tình như bản tình ca dành riêng cho Huế đã làm cho tấm chung tình của sông
Hương với Huế trở nên da diết, đắm say. Tình yêu với Huế của sông Hương cũng vì thế mà trở nên rất
đỗi sâu nặng.
Đoạn văn tiếp theo, sông Hương hiện lên trong cảm nhận của một nhà sáng tác âm nhạc, một người
thẩm âm nghệ thuật và tâm trạng sông Hương khi rời xa thành phố Huế để về với biển cả của tổ quốc.
Phần sau đó tác giả cũng nói về sông Hương với mối quan hệ văn hoá, lịch sử và lý giải bằng huyền
thoại về dòng sông Hương thơ mộng.

1.4. Sông Hương khi rời khỏi thành phố Huế


- Lưu luyến ra đi giữa màu xanh biết của tre trúc và vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
- Đột ngột đổi dòng, rẽ hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh.
- Sông Hương chí tình trở lại gặp TP. Huế để nói lời thề trước khi ra biển như nàng Kiều chí tình trở lại
gặp Kim Trọng để nói một lời thề chung thủy.
-> Cuộc chia li đầy lưu luyến, vấn vương của đôi tình nhân, có cả chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu ->
tình cảm thủy chung của người dân Châu Hóa với Huế.
=> Sơ kết:
- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều
được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, ... , lối hành văn hướng nội
súc tích, mê đắm và tài hoa.
- Tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân
yêu.

2. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, trong cuộc đời và thi ca
a. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc
- Từ thời các vua Hùng: Sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi của Tổ quốc.
- Ở thế kỉ trung đại: Đời nhà Lê, sông Hương mang tên là Linh Giang. Đời nhà Nguyễn, sông “vẻ vang
soi bóng kinh thành Phú Xuân”. Sông chứng kiến những cuộc khởi nghĩa cuối thế kỉ 19.
- CMT8-1945: sông Hương gắn liền với những chiến công rung chuyển.
- Mùa xuân Mậu Thân, dòng sông cùng cố đô Huế chịu sự tàn phá nặng nề của đế quốc Mỹ.
→ Dòng sông đã sống gần như trọn vẹn một thời kì lịch sử bi tráng của đất nước.
b. Sông Hương với cuộc đời, thi ca:
- Bước ra khỏi chiến tranh, sông Hương trở về với hình ảnh dịu dàng quen thuộc với màu áo sương khói
huyền ảo của tự nhiên.
- Sông Hương trở thành nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ:
+ Tản Đà: cảm nhận tinh tế về màu sắc sông Hương “dòng sông trắng, lá cây xanh”.
+ Cao Bá Quát tạo chất hùng tráng ví sông Hương “như kiếm dựng trời xanh”.
+ Bà Huyện Thanh Quan phả vào dòng sông nét u buồn.
+ Tố Hữu nhìn sông Hương với “cái nhìn tha thiết tình người”.
→ Sông Hương như khoe hương tỏa sắc dưới ngòi bút nghệ thuật. Dòng sông như một dòng thi ca dạt
dào bất tận.
3. Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Kết thúc bài kí bằng cách lí giải tên của dòng sông: Sông Hương – sông thơm
- Lí giải bằng huyền thoại -> Huyền thoại ấy trả lời câu hỏi: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
- Chính nội dung bài kí là câu trả lời: ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên đẹp và phù hợp
với nó – Sông Hương.
-> Nhan đề và kết thúc bằng câu hỏi -> lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sông; gợi niềm biết ơn
đối với những người đã khai phá miền đất này; sự ngưỡng mộ và trân trọng, ngợi ca của tác giả với
sông Hương và xứ Huế.
-> Thiên nhiên đại ngàn, non cảnh hữu tình, lịch sử hào hùng, thi ca nghệ thuật đã đặt tên cho dòng
sông. Sông Hương tựu trung tất cả những vẻ đẹp tinh túy của thiên nhiên, cuộc sống, con người và đất
nước.

You might also like