You are on page 1of 13

Trường THPT Lê Quý Đôn – Hs:…………………………………………… Lớp: 12…..

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?


Trích bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”- Hoàng Phủ Ngọc Tường
I. GIỚI THIỆU CHUNG:
1. Tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937 -2023)
- Là nhà văn gắn bó sâu sắc với Huế.
- Là nhà trí thức lớn có vốn hiểu biết sâu rộng về lịch sử, địa lí, văn hóa của đất nước nhất là lịch sử,
địa lí, văn hóa của cố đô Huế.
- Là cây bút tài hóa, đặc biệt thành công với thể loại bút kí.
=> Kí của ông rất hấp dẫn: Kết hợp nhuần nhuyễn chất giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận
sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa
lý qua lối hành văn hướng nội mê đắm, súc tích và tài hoa.
*Tác phẩm tiêu biểu :Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông? Hoa trái quanh tôi,…
2. Tác phẩm : Ai đã đặt tên cho dòng sông?
a Xuất xứ: Bài được trích từ phần đầu bài bút kí: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (gồm 8 bài viết về
những đề tài khác nhau) viết ở Huế ngày 04/1/1981, được in trong Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập,
tập 2 (NXB Trẻ, TP.HCM ,2002)
Các đề tài trong tập tùy bút: Có những bài đậm chất sử thi với cảm hứng anh hùng, ca ngợi đất nước,
con người VN. Có những bài thiên về miêu tả thiên nhiên, qua đó nhà văn bộc lộ lòng gắn bó với quê
hương đất nước và niềm tự hào về truyền thống, văn hóa, lịch sử của dân tộc. Đặc biệt là những bài viết
về Huế.
b. Thể loại: Bút kí
c. Đề tài: Sông Hương là dòng sông đặc trưng của xứ Huế, đã đi vào thơ của nhiều nhà thơ VN như: Tố
Hữu, Hàn Mặc Tử, Thu Bồn,…
d. Chủ đề: Ca ngợi sông Hương và lòng yêu mến đến say mê sông Hương & vùng đất cố đô Huế: đẹp,
thơ mộng giàu chất thơ; ca ngợi lịch sử vẻ vang, nền văn hóa lâu đời & tâm hồn Huế, mà sông Hương là
biểu tượng của tất cả những gì là đẹp của cảnh & con người nơi đây.
II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
A. NỘI DUNG VĂN BẢN:
1. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương: (góc nhìn địa lí)
Bùi Giáng có câu thơ về sông Hương:
“ Dạ, thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”
Hương giang được nhà văn một đời gắn bó với xứ Huế viết bằng tình cảm tha thiết, bằng tiềm năng
văn hóa, khám phá vẻ đẹp & trở thành 1 biểu tượng của xứ Huế. Ngay khúc dạo đầu, nhà văn đã khẳng
định: “ Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi nghe nói đến hình như chỉ sông Hương là thuộc
về một thành phố duy nhất”. Câu văn khẳng định sông Hương là con sông đẹp & thuộc về 1 thành phố
Huế. Hiếm có con sông lớn nào chỉ thuộc về một thành phố duy nhất như Hương giang thuộc trọn thành
phố như người tình chung thủy. Nét độc đáo của sông Hương & sự am tường của người viết đã được thể
hiện ngay trong câu mở đầu bút kí.
a. Ở thượng nguồn
Sông Hương nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn, được miêu
tả với
một sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng có lúc dịu dàng và say đắm. Cảnh dòng sông được
khắc họa:
+ Với những hình ảnh đầy ấn tượng: “rầm rộ qua những bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những
Giáo án: Ngữ văn 12 – GV: Trần Thị Xuân Đào

1
ghềnh thác”, “ cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”,…
+ Với những màu sắc rực rỡ: “ màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
+ Với những từ ngữ gợi cảm: “ bản trường ca của rừng già”, “dịu dàng và say đắm”
+ Những phép so sánh kết hợp với nhân hóa : “ Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô
gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, “ Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn
tự do và trong sáng”
=> Vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hoành tráng vừa trữ tình.
Nhận xét:
- Nghệ thuật nhân hóa, hình ảnh so sánh đẹp, câu văn dài chia làm thành nhiều vế liên tục, điệp cấu
trúc với những động từ mạnh đã tạo nên âm hưởng hùng tráng mạnh mẽ của một con sông giữa rừng già.
- Sông Hương ở thượng nguồn được ví như “cô gái Digan….” là liên tưởng rất thú vị & độc đáo, tạo
nên ấn tượng về vẻ đẹp hoang dại nhưng tình tứ, lôi cuốn của con sông khiến sông Hương là 1 sinh thể
có tính cách mạnh mẽ, bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng . Đó là những phát hiện mới của
HPNT so với những cảm nhận của thi ca, nghệ thuật vốn quen thuộc về sông Hương.
- Những câu văn miêu tả sông Hương mang đậm chất sử thi, lãng mạn. Cũng là âm hưởng hào hùng
nhưng giọng văn của HPNT vẫn mượt mà, say đắm. Ra khỏi rừng già đại ngàn, sông Hương chuyển
dòng, giấu kín hành trình gian truân giữa lòng Trường Sơn, ném chìa khóa tâm hồn mình vào chân núi
Kim Phụng. Với cách viết gợi cảm ấy giúp người đọc hiểu thấu đáo vẻ đẹp dữ dội hùng vĩ của sông
Hương giữa rừng già, 1 vẻ đẹp còn ít người biết đến.
=> Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu sông Hương
từ nguồn cội, người ta khó mà hiểu hết được cái vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông hình
như không muốn bộc lộ.

b. Ở ngoại ô Huế:
SH có sự thay đổi về tính cách. Sông Hương như đã “chế ngự sức mạnh bản năng của người con
gái” để mang một sắc đẹp “dịu dàng và trí tuệ” khi trở thành “ người mẹ phù sa của một vùng văn hóa
xứ sở…”
- Trong cảm nghĩ của nhà văn, sông Hương giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại giống như “ người gái
đẹp nằm ngủ mơ màng” được “ người tình mong đợi” đến “đánh thức” đã hứa hẹn nhiều vẻ đẹp mới. Bắt
đầu từ đó, thủy trình sông Hương bắt đầu về xuôi. Tác giả khéo léo lồng câu chuyện tình yêu đầy lãng
mạn, nhuốm màu sắc cổ tích vào thủy trình của sông Hương.
- Sông Hương bừng tỉnh như cô gái mang dáng vóc mới, một sức sống mới khao khát, lãng mạn:
“Chuyển dòng liên tục”như “ một cuộc tìm kiếm có ý thức”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ
một hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”…..Hành trình đến với người tình mong đợi khá
gian truân, phải vượt qua nhiều thử thách, chướng ngại vật “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng
nam bắc qua điện Hòn Chén…..xuôi dần về Huế”
- Mềm như tấm lụa, giữa những khúc quanh uốn lượn dòng sông khoe những sắc màu thật tươi trẻ “sắc
trời trở nên xanh thẳm”, biến ảo nhiều màu sắc: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím
- Vẻ đẹp trầm mặc khi lặng lẽ chảy dưới chân những quần sơn đồi thấp với những rừng thông cô tịch và
những lăng mộ âm u.
- Vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi trong âm hưởng của tiếng chuông chùa Thiên Mụ.
- Vẻ đẹp xinh tươi khi đi qua những bờ bãi ngoại ô Kim Long, khi về thành phô chỉ còn lại là mặt hồ yên
tĩnh.
- Vẻ đẹp mơ màng trong sương khói, giữa màu xanh biếc của những vườn cau ngoại ô Vĩ Dạ
=> Như vậy, dòng sông Hương đẹp bởi có sự phối cảnh kì bí giữa dòng sông với đất trời, giữa dòng
sông với cảnh vật ven sông. Sông Hương tôn tạo cho vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế; ngược lại vẻ đẹp
Hương giang được hun đúc bởi âm vang của đất trời, của văn hóa vùng đất cô đô.
Nhận xét:

2
- Bằng lối hành văn uyển chuyển, dử dụng ngôn ngữ hình tượng trang nhã, gợi ra những liên tưởng bất
ngờ.
- Nhà văn có năng lực quan sát tinh tế, hiểu biết sâu sắc. Chính vì thế đã giúp tác giả viết nên những
câu văn đầy màu sắc và ấn tượng : “ Vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ
một cánh cung thật tròn về phía Đông bắc”. Đây là câu văn giàu chất họa. Lại có những câu văn gợi nên
nét mơ hồ tạo nên những liên tưởng & cảm xúc: “ Sông Hương đi trong dư vang của Trường Sơn”. Thủ
pháp nhân hóa & so sánh kết hợp với ngôn từ giàu hình ảnh & cảm xúc đã góp phần khắc họa dòng sông
Hương thơ mộng trữ tình khiến cảm nhận về sông Hương như người con gái đẹp ngày càng rõ nét.
- Kiến thức về văn hóa, văn học đã in dấu vào những câu văn viết về lăng tẩm, về vẻ đẹp trầm mặc của
sông Hương khi đi vào ngoại vi thành phố Huế, vào câu ca dao “ Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh
trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”.
- Với kiến thức địa lí sâu sắc, tác giả đã miêu tả tỉ mỉ sông Hương với những khúc quanh & lưu vực của
nó. Như thế tác giả không chỉ tái hiện một cách chân thực dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí mà còn
biến thủy trình dòng chảy ấy thành hành trình của người con gái đẹp duyên dáng, tình tứ. Đó là cảm
nhận riêng, độc đáo đầy thiên vị về dòng sông Hương khi nó chảy vào trong thành phố.
- Nhà văn còn muốn ghi công sông Hương như “người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa sứ xở” vì đã
góp phần tạo nền, giữ vững & bảo tồn văn hóa của của 1 vùng văn hóa thiên nhiên. Từng ngày, từng giờ
sông Hương vươn ra cửa Thuận An thì cũng là từng ngày từng giờ sông Hương duy trì & bồi đắp phù sa
cho cả một vùng văn hóa đã hình thành ở trên & 2 bên bờ sông Hương.
=> SH ở ngoại ô Huế hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, độc đáo.
c. Trong lòng thành phố Huế:
* Sông Hương khi chảy vào vào TP Huế như một người con xa xứ háo hức được trở về với quê
hương và đặc biệt chậm rãi, êm dịu , mềm mại:
- Con người ấy đã tìm đúng đường về nên “vui tươi hẳn lên”.
- Con người ấy với tâm trạng háo hức đã nhìn ngắm để thấy chiếc cầu trắng “in ngần trên nền trời, nhỏ
nhắn như những vành trăng non”. Sự so sánh hết sức tuyệt vời vừa miêu tả được hình dáng độc đáo của
cầu vừa gợi được sự dịu dàng thơ mộng của dòng sông, là nét bừng sáng ở chân trời nhưng không chói
lóa, vui tươi đấy nhưng không ồn ào.
- Giáp mặt thành phố Huế, “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ như tiếng vâng chưa nói ra của tình
yêu”. Một sự so sánh độc đáo, tài hoa khiến dòng sông mang trạng thái cảm xúc của con người như các
cô gái xứ Huế e lệ,kín đáo, duyên dáng… Chính sự gắn bó với xứ Huế nên cảnh vật nào cũng trở nên
thanh thoát, nhẹ nhàng, nhỏ nhắn & dịu dàng làm cho dòng sông mềm mại hẳn đi.
- Những phép tu từ so sánh kết hợp với nhân hóa và ẩn dụ độc đáo “dòng sông mềm hẳn đi, như tiếng
“vâng” chưa nói ra của tình yêu’”. Tiếng “vâng” ấy phát ra cách rất nhẹ nhàng bằng tiếng nói ngọt
ngào, dịu dàng, e ấp ấy chỉ có thể là tiếng nói của người con gái xứ Huế như một “nỗi vương vấn, cả một
chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Sông Hương về đến xứ Huế đã mang linh hồn của con người & mảnh
đất con người nơi đây. Nó duyên dáng, kín đáo, dịu dàng biết bao!
- Những kiến thức về phong tục, lễ hội trở thành những hình tượng nghệ thuật miêu tả dòng sông với “
trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh…. qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên
mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.
- Những kiến thức về âm nhạc cũng được tác giả huy động với những liên tưởng kì thú: “điệu chảy lặng
lờ của nó khi ngang qua thành phố. Đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế’ (khác hẳn với những
câu văn sắc cạnh của NTuân khi viết về sông Đà). Đây chính là đặc trưng của Huế, của sông Hương.
Bởi lưu tốc của sông Hương khi chảy vào trong kinh thành Huế rất chậm, nhiều người yêu Huế cũng bởi
cái lặng tờ của dòng sông Hương:
“ Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng, nên Huế rất sâu”
Hay:
Con sông nửa thực, nửa mơ

3
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Điều này đã được nhà văn lí giải bằng những đặc điểm của dòng sông “những chi lưu ấy…của dòng
sông” .
- Kí ức về dòng sông mà tác giả đã từng đi qua đã được vận dụng để so sánh để làm rõ nét đặc trưng
dòng chảy của sông Hương: “sông Xen của Pa-ri”, “sông Đa-nuýp của Bu-da-pét” và đặc biệt là dòng
sông Nê-va với những phiến băng trôi nhanh như chiếc thuyền của những chú hải âu,…
- Lập lòe trong sươngnhững ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ.
+ Khi rời khỏi kinh thành “sông Hương chếch về hướng chính bắc” tuy nhiên do đặc điểm địa lí của
nước ta các con sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển nên thủy triều sông Hương thay đổi, nó
chuyển dòng qua hướng đông & lại đi qua 1 góc của thành phố. Đó là đặc điểm địa lí tự nhiên của dòng
sông.
+ Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc sông ấy là nỗi “vương vấn” thậm chí có lúc kín
đáo của người tình chung thủy khi vươn cánh tay ôm lần cuối. Tác giả đã có cách gọi ví von, kín đáo như
“mấy dặm trường tình khi Thúy Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng để gởi lời thề thủy chung”.Thế là
thấp thoáng đâu đây dáng hình, tâm tình của những cô gái xứ Huế: tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình
mà kín đáo, lẳng lơ mà nhất mực thủy chung.
Nhận xét:
- Đoạn trích thể hiện vốn tri thức văn hóa sâu rộng của tác giả.
- Ngôn ngữ chọn lọc với những hình ảnh so sánh đẹp.
=> Qua những cảm nhận về sông Hương, HPNT đã tiếp cận & miêu tả dòng sông từ nhiều không gian
& thời gian khác nhau, ở mỗi góc độ đều thể hiện 1 cảm nghĩ mới mẻ, sâu sắc cho con sông đã trở thành
biểu tượng của xứ Huế. Từ đó bộc lộ lòng tự hào & thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với
những vẻ đẹp tự nhiên & đậm màu sắc của dòng sông quê hương.
=> SH duyên dáng nên thơ hài hòa trong lòng thành phố Huế cổ kính tạo cho thành phố một nét đẹp
rất riêng.
2. Vẻ đẹp văn hóa:
a. Sông Hương - dòng sông âm nhạc:
- Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển của xứ Huế được sản sinh trên mặt nước của dòng SH.
- SH là dòng sông của thời vang nân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ xanh biếc.
- SH trở thành người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya, nhắc đến những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển ở
Huế. Nghe nhạc Huế phải nghe vào ban đêm, nghe trên dòng Hương giang. Giữa sông nước mênh
mang, giữa cái tĩnh lặng của màn đêm, tiếng nhạc thấm sâu vào tâm hồn con người & để lại nhiều dư âm.
- Viết về sông Hương, tác giả nhiều lần liên tưởng đến “Truyện Kiều” của NDu vì: Đại thi hào NDu
từng có thời gian sống ở Huế, trong trí tưởng tượng của nhà văn, NDu có những đêm trăng xuôi thuyền
trên sông Hương, ngắm “phiến trăng sầu”, giữa dập dềnh trăng nước, lắng nghe những điệu nhạc dìu dặt
từ trong khoang thuyền. Phải chăng từ đó những câu thơ tả tiếng đàn của Thúy Kiều ra đời, phải chăng
trong tiếng đàn ai oán của Thúy Kiều có âm hưởng của âm nhạc cổ điển Huế? Đó là cơ sở để nhà văn
tưởng tượng & hóa thân vào một “nghệ nhân già”nghe những câu thơ tả tiếng đàn của Kiều chợt nhận ra
Nhã nhạc & thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh”. Bóng dáng ND & ‘TK” xuất hiện trong bài kí chứng tỏ
khả năng liên tưởng phong phú, 1 vốn liếng văn hóa sâu rộng & sự gắn kết với truyền thống như 1 sự
đồng điệu tâm hồn nhà văn
b. Sông Hương - dòng sông thi ca:
- Có một dòng thi ca về SH. Mỗi nhà thơ bằng tài năng & cảnh ngộ riêng của mình đã tìm thấy ở con
sông này những đồng điệu trong tâm hồn, những thăng hoa của cảm xúc:
+ Từ một dòng sông xanh biếc thường ngày,con sông bỗng thay đổi màu sàu sắc thật bất ngờ. Nhà văn
đã làm sống dậy 1 con sông Hương hiền lành, thướt tha, thơ mộng qua những vần thơ biếc xanh của
Tản Đà đó là “dòng sông trắng, lá cây xanh”.Giữa cái màu “cỏ lá xanh biếc”với “dòng sông trắng, lá
cây xanh” của nhà thơ đa tình Tản Đà có sự tương giao: đó là sự đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ
nhạy cảm với màu biếc của thiên nhiên.

4
+ Tác giả cũng làm sống dậy 1 con sông hùng tráng, bất tử trong thơ Cao Bá Quát “ như kiếm dựng
trời xanh”. Dòng sông Hương được miêu tả thật đẹp.
+ Tác giả còn cảm nhận trong không gian Huế & dòng sông Hương với nỗi niềm hoài cổ “nỗi quan
hoài vạn cổ”, nỗi buồn “trời non nước”trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan“ bảng lảng bóng hoàng
hôn”
+ Một lần nữa tác giả lại so sánh đặt dòng sông Hương bên những trang Kiều của NDu & từ thân phận
của nàng Kiều, nhà văn gợi đến dòng Hương giang có sức mạnh phục sinh tâm hồn: “Trên dòng Hương
giang/ Em buông mái chèo/ Trời trong veo, nuớc trong veo/ Em buông mái chèo”qua bài thơ “Tiếng hát
sông Hương”đầy giá trị nhân đạo của Tố Hữu.
=> Sông Hương đã thay hình đổi dạng qua những trang văn, qua những dòng thơ. Đó là dòng sông “mềm
như tấm lụa”,“dòng sông trắng”, “như kiếm dựng trời xanh” đều xuất phát từ những trái tim nặng lòng
với Huế. Bằng cách viết liên văn bản, bằng vốn kiến thức văn học phong phú, bằng cách viết đầy chất
thơ, nhà văn đã làm sống lại “một dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ
sĩ”.
Như vậy:
SH đã góp phần rất lớn vào quá trình phát triển văn hóa của cố đô Huế và của dân tộc.
3. Vẻ đẹp lịch sử:
a. Sông Hương- bản anh hùng ca của xứ Huế:
Trong mối quan hệ trang nghiêm này, sông Hương mang vẻ đẹp của bản anh hùng ca ghi dấu
những thế kỉ vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó. Nhà văn đã ngược về quá khứ để liệt kê những sự
kiện lịch sử to lớn mà sông Hương đã từng tham dự & chứng kiến:
- Sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng.
- Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng Linh Giang (sông Thiêng) – dòng sông
viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung
đại.
- Thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ
- Thế kỉ XIX, sông Hương sống hết thế kỉ bi tráng với máu của những cuộc khởi nghĩa .
- Trong công cuộc CMT8, sông Hương đã đi vào thời đại bằng những chiến công rung chuyển.
- Đến cuộc nổi dậy xuân Mậu Thân, sông Hương cùng với Huế tham gia vào cuộc chiến tranh chống Mĩ
vĩ đại.
-> Khi viết về những chiến công vĩ đại trong thời kì chống Mĩ, tác giả thiên về tội ác hủy diệt văn
hóa, dẫn ra nguyên văn lời đánh giá của người Mĩ về sức tàn phá ghê gớm ấy. Vì thế người đọc vẫn nhận
ra không có gì thâm độc & tàn bạo bằng sự tàn phá những di sản văn hóa của một DT.
Nhận xét: Chất trữ tình của tùy bút giảm đi ở đoạn này nhường chỗ cho chất phóng sự đối với những sự
kiện lịch sử cụ thể được liệt kê theo trình tự thời gian
=> Quay về với quá khứ xa xưa ngòi bút của nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông
có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng đã từng giữ những nhiêm vụ lịch sử vinh quang.
b. Sông Hương- bài ca trữ tình:
- Sông Hương không chỉ là bản anh hùng ca tấu lên bao chiến công trong lịch sử, sông Hương còn là
nhân chứng nhẫn nại & kiên cường qua những thâm trầm của cuộc đời. Trong thời chiến, sông
Hương mang vẻ đẹp anh hùng ca ghi dấu bao chiến công vĩ đại thì trong đời thường, sông Hương là bài
ca trữ tình, dịu dàng tươi mát. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là
ở chỗ: khi nghe lời kêu gọi nó biết cách tự biến mình thành một chiến công, để rồi trở về với cuộc sống
đời thường làm một người con gái dịu dàng của đất nước.Sông Hương tự thích ứng với mọi hoàn cảnh,
với mọi không gian & mọi thời gian. Có lẽ vì điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại
mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
- Sông Hương mang vẻ đẹp dịu dàng e ấp của các cô dâu trong ngày cưới.
4. Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng của nhà văn:
- Có lúc con sông Hương như cô gái Di-gan phóng khoáng & man dại.

5
- Lúc thì sông Hương như bà mẹ dịu dàng & trí tuệ mang phù sa đi bồi đắp một vùng văn hóa xứ sở.
- Lúc thì sông Hương như người gái đẹp nằm ngủ mơ màng chờ đợi người tình mong đợi đến đánh thức.
- Lúc sông Hương như cô gái Huế tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kín đáo, lẳng lơ nhưng rất
mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô trương.
=> trí tưởng tượng phong phú của nhà văn, thể hiện niềm yêu mến, gắn bó với con sông xứ Huế.
5. Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề là một câu hỏi ngỡ như bâng quơ, một câu hỏi khó trả lời nhưng lại là một tín hiệu thẩm mĩ
mở ra nội dung của tác phẩm. Để trả lời câu hỏi này tác giả đã làm một cuộc hành trình lịch sử tìm về
cội nguồn của dòng sông rồi từ đó tác giả miêu tả cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông từ góc nhìn thiên
nhiên, văn hóa, lịch sử.
- Gợi sự tìm kiếm cái đẹp: cái Đẹp tiềm ẩn trong tự nhiên & con người xứ Huế, để ca ngợi 2 phẩm chất
cao quý còn mãi với thời gian đó là cái đẹp vĩnh hằng; đó là cái danh thơm muôn thuở
- Bài bút kí kết thúc bằng cách lí giải cái tên của dòng sông: sông Hương, sông Thơm nói lên khát vọng
của con người nơi đây: “ muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử”
=> Việc dùng câu hỏi để đặt tên cho một bài kí chẳng những lưu ý người đọc về cái đẹp của dòng sông
mà còn gợi lên niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá miền đất ấy nói riêng và cho đất
nước nói chung.

B. ĐẶC DIỂM CỦA CÁI “TÔI” TRONG BÀI KÍ:

1. Cái “tôi” say mê tìm kiếm cái đẹp & luôn gắn bó với tự nhiên:
- Trong đoạn trích, cái “tôi” của tác giả gắn kết - hòa nhập thực sự với sông nước, với trời mây, cây cỏ.
Những trang kí mang đến cho người đọc những không gian xanh thắm của thiên nhiên. Ngược lại, thiên
nhiên như một phiên bản tâm hồn của nhà văn. Sông Hương không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên mà
còn là một thể hiện triết lí sống của HPNT, một triết lí sống rất nhân văn.
- Sự hòa nhập ấy khiến nhà văn viết những trang viết miêu tả thiên nhiên mượt mà, đẹp như một bài thơ.
2. Cái “tôi”yêu quê hương đất nước& luôn hướng về đất nước:
- Bài kí có thể được xem là một bài thơ văn xuôi ca ngợi sông Hương, qua đó ca ngợi thiên nhiên, văn
hóa & con người bằng tấm lòng yêu thương, gắn bó với quê hương đất nước.
- Nhà văn trân trọng & tự hào về bề dày lịch sử, về văn hóa & vẻ đẹp tâm hồn của con người ở vùng
đất cố đô.
3. Cái tôi “tài hoa & uyên bác”:
a. Uyên bác:
- Người viết tỏ ra am hiểu tường tận tất cả những gì mình viết:
+ Với xứ Huế: nhà văn hiểu sâu sắc từng ngọn cỏ, cành cây, từng tên đất, tên làng .
+ Với sông Hương nhà văn thông thuộc từng khúc cong, từng ghềnh nước, từng chỗ phẳng lặng. Nhà
văn am hiểu về văn hóa Huế, về nền âm nhạc cổ điển cố đô Huế, thậm chí thuộc từng trang thơ viết về
Huế, về sông Hương.
- Bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc những lượng thông tin lớn về
địa thế, dòng chảy, về lịch sử, văn hóa
b. Tài hoa:
Miêu tả sông Hương & không gian Huế bằng con mắt của 1 họa sĩ tinh tường, bằng con chữ tài hoa.
HPNT đã góp phần làm rõ bản sắc của dòng sông, của thiên nhiên cũng như con người xứ Huế.

C. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT:

1. Một khả năng quan sát tinh tường, một trí tưởng tượng phong phú:
- Bằng sự nhạy cảm của một trái tim thi sĩ, HPNT đã ghi chép & miêu tả được những biến đổi tinh vi của
thiên nhiên xứ Huế. Những từ chỉ màu sắc được sử dụng linh hoạt khiến cho sông Hương & Huế trở nên

6
sống động & mơ màng, hư ảo. Từ màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng đến “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.
Những câu văn đầy màu sắc đượm chất thơ mượt mà.
- Nhà văn phải hòa nhập vào thiên nhiên, ngoại cảnh & nội tâm phải tương giao sâu sắc mới viết nên
những câu thơ đẹp như tranh vẽ.

2. Những biện pháp nghệ thuật:


- Biện pháp nhân hóa kết hợp với những liên tưởng bất ngờ giúp nhà văn biến con sông Hương thành
một sinh thể với nhiều dáng vẻ, biến hóa linh hoạt: khi ở thượng nguồn thì sông Hương như “cô gái Di-
gan”; khi vào ngoại ô Huế thì sông Hương như “bà mẹ phù sa”,……Dẫu đóng vai trò nào , sông Hương
qua cảm nhận của nhà văn vẫn độc đáo không giống bất kì con sông nào trong văn học. Sông Hương
hiện ra quen thuộc mà lạ lẫm đến bất ngờ. Qua đó nhà văn làm rõ bản sắc, vẻ đẹp tâm hồn con người xứ
Huế.
- Biện pháp so sánh được sử dụng thành công, nhờ đó tác giả đã sáng tạo ra những câu văn đẹp, đầy hình
ảnh với những liên tưởng bất ngờ, độc đáo.
3. Một ngòi bút giàu chất thơ:
- Chất thơ được toát ra từ thiên nhiên, cảnh vật , từ tâm hồn con người, từ những huyền thoại được đặt
đúng chỗ trong bài văn .
- Tác giả đã sáng tạo ra những trang văn đẹp, tạo nên kho từ vựng phong phú, uyển chuyển & giàu giá trị
tạo hình.

Đặc sắc của bài kí:


- Soi bóng tâm hồn vào tình yêu say đắm quê hương xứ sở vào đối tượng miêu tả khiến đối tượng
trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời sống, như tâm hồn con người.
- Sức liên tưởng kì diệu, những kiến thức phong phú về địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và những
trải nghiệm của bản thân tác giả
- Ngôn ngữ phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, đầy chất thơ; cách sử dụng những phép tu từ
so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,…
- Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan.
 Đây là đoạn văn xuôi đầy chất thơ ca ngợi sông Hương- con sông gắn bó với lịch sử VH Huế
được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, chất văn hóa với ngôn ngữ trong
sáng, chọn lọc và tinh tế.

III. TỔNG KẾT:


- Bài kí là két tinh đẹp đẽ của một tình yêu say đắm với dòng sông với quê hương & tài năng của một cây
bút giàu trí tuệ, am hiểu sâu sắc về lịch sử, địa lí, văn hóa, văn chương của một sức liên tưởng, tưởng
tượng phong phú, độc đáo.
- Sức hấp dẫn của bài kí còn đến từ ngòi bút tài hoa của nhà văn, những trang văn đẹp được dệt nên bởi
một kho tàng từ vựng phong phú, uyển chuyển, các biện pháp nghệ thuật gắn với các liên tưởng tạo nên
những góc nhìn đa sắc về sông Hương.
- Bài kí đã diễn tả vẻ đẹp & chất thơ của Huế thể hiện tập trung ở dòng sông Hương như biểu tượng của
Huế với tất cả vẻ đẹp của cảnh, người đất cố đô. Bài kí cũng khơi dậy tình yêu quê hương & lòng tự hào
về vẻ đẹp văn hóa của Huế nói riêng & thiên nhiên, đất nước, con người VN nói chung.
Luyện tập: SO SÁNH CÁCH TIẾP CẬN CỦA NT &HPNT VỀ DÒNG SÔNG QUA 2 TÁC
PHẨM: “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ”- NT & “AI ĐÃ ĐẶT CHO TÊN DÒNG SÔNG?”- HPNT

Chủ đề ca ngợi thiên nhiên đất nước qua hình tượng 2 con sông:
* Giống nhau:
 Cùng thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào về quê hương đất nước khi viết về những con sông nổi
tiếng.

7
 Đều thể hiện sự tài hoa, uyên bác trên từng trang sách.
 Đều vận dụng tri thức của nhiều ngành nghề để xây dựng thành công hình tượng con sông.
* Khác nhau:

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- NT AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG? -


HPNT

Quan Cái đẹp phải là những hiện tượng đập Cái đẹp là những hiện tượng dịu dàng, thơ mộng,
niệm về mạnh vào giác quan của người nghệ thanh thoát, gợi cảm.
cái đẹp sĩ

Kiến thức Huy động nhiều ngành nghệ thuật: Chủ yếu khai thác ở chiều sâu văn hóa, bề dày
hội họa, điện ảnh, âm nhạc, thơ ca, lịch sử, nghệ thuật.
bóng đá, võ thuật, quân sự,…

Mục đích Miêu tả con sông Đà với 2 vẻ đẹp đối - Miêu tả con sông Hương với 3 vẻ đẹp đan xen
lập: hung bạo, hiểm ác & thơ mộng nhau: thiên nhiên, văn hóa, lịch sử -> ca ngợi vẻ
trữ tình -> ca ngợi con sông giàu đẹp nên thơ của sông Hương & sự cống hiến
tiềm năng, là “chất vàng mười” của của con người xứ Huế.
thiên nhiên Tây Bắc.

- Con sông Đà trở thành phông nền - Khát vọng: muốn đem cái đẹp & tiếng thơm để
để con người xuất hiện, ca ngợi sự tài bồi đắp một nền văn hóa xứ sở.
hoa, trí dũng của con người.

Cảm xúc Cảm xúc nồng nàn; cảm giác sắc Cảm xúc sâu lắng, suy tư; hình ảnh chân thật, gợi
cạnh: những liên tưởng phóng túng, cảm; so sánh gần gũi, xác thực.
táo bạo.

Đề: Trình bày cảm nhận về các đoạn văn sau: “Rời khỏi kinh thành…với quê hương xứ sở” và
“Có một dòng thi ca về sông Hương…dòng sông?”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1 đoạn gồm 3 ý
-Giới thiệu về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: HPNT là nhà trí thức lớn, là nhà văn gắn bó sâu sắc
với Huế; là cây bút tài hóa, đặc biệt thành công với thể loại bút kí. Kí của ông rất hấp dẫn: kết hợp
nhuần nhuyễn chất giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng
hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý qua lối hành văn hướng nội mê đắm,
súc tích và tài hoa.
- Giới thiệu tác phẩm: Ai đã đặt tên cho dòng sông? Bài bút kí được viết ở Huế ngày 04/1/1981, được
in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm ca ngợi sông Hương với nhiều vẻ đẹp: thiên nhiên, lịch sử, văn hóa
cùng lòng trân trọng, niềm tự hào mà HPNT dành cho xứ Huế, cho quê hương, đất nước
- Giới thiệu luận đề: Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương sau khi rời khỏi kinh thành Huế để đổ ra biển
(góc nhìn địa lí - đoạn văn 1) và vẻ đẹp thi ca của sông Hương (góc nhìn văn hóa - đoạn 2)
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Viết thành nhiều đoạn văn
1. Đoạn văn 1: Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương sau khi rời kinh thành Huế
*Vẻ đẹp mơ màng trong sương khói, giữa màu xanh biếc của những vườn cau ngoại ô Vĩ Dạ
8
“Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng
trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của
những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”. Nhà văn đã nhân cách hóa dòng sông Hương như đứa con của xứ
Huế khi dùng các từ “ôm, xa dần, lưu luyến, ra đi”. Có lẽ sông Hương chưa muốn rời xa kinh thành Huế.
Những câu văn như mang linh hồn của Huế như diễn tả được thần thái của xứ Huế sương khói mộng mơ.
Các từ ngữ “ôm lấy”, “xa dần”, “lưu luyến” như tả được cái tình của dòng sông đối với quê hương xứ
sở. Nếu khi chảy qua kinh thành Huế, sông Hương trôi đi thực chậm, sông Hương tựa như “mặt hồ yên
tĩnh”, có lúc “nửa như muốn đi, nửa như muốn ở”. Đó là nỗi lưu luyến là vấn vương với người tình
nhân; thì nay khi đã ra đi giữa màu xanh biếc của vùng ngoại ô Vĩ Dạ, sông Hương vẫn không muốn rời
xa người tình. Nhưng dù có lưu luyến, bịn rịn đến như thế nào thì cũng đến lúc sông Hương phải từ biệt
thành phố để tiếp tục thủy trình của mình.
* Sông Hương “người tình dịu dàng - chung thủy”
+ Khi rời khỏi kinh thành “sông Hương chếch về hướng chính bắc” tuy nhiên do đặc điểm địa lí của
nước ta các con sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển nên thủy trình sông Hương thay đổi, “nó đột
ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang qua hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh
xưa cổ”. Đó là đặc điểm địa lí tự nhiên của dòng sông.
+ Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc sông ấy là nỗi “vương vấn” thậm chí có lúc kín
đáo của người tình chung thủy khi vươn cánh tay ôm lần cuối. Cả một hành trình vượt bao gian nan để
gặp được người tình của mình, Hương giang chẳng nỡ lìa xa tình yêu mãnh liệt của nó. Lời tạm biệt của
dòng sông với xứ Huế gợi liên tưởng đến cảnh chia ly của những đôi tình nhân, cũng bịn rịn, thắm thiết
không nỡ rời xa. Thương mến và giàu tình cảm đến như vậy, làm sao người đọc và thành phố này có thể
lãng quên đi người con gái thủy chung, son sắt ấy?

+ Với người Huế, nơi đây là nơi chia tay “dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. Là nơi sông Hương sẽ
xuôi một dòng về với biển cả. Nên một lần đi là đi mãi, một lần chia xa là đến cả ngàn vạn dặm đường.
Bởi thế, “khúc quanh ấy thật bất ngờ” mà cũng thật tự nhiên biết bao nhiêu. Khúc quanh đột ngột ấy làm
Hoàng Phủ Ngọc Tường bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở
“nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Câu văn sử dụng phép nhân hoá kết hợp các tính
từ bộc lộ cảm xúc “vương vấn, lẳng lơ” khiến dòng sông hiện lên sống động, trữ tình. Và ông đã so sánh
sông Hương với nàng Kiều trong đêm trình tự. Nhà văn hình dung sông Hương ở đây giống như nàng
Kiều đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ước trước khi về biển cả”. Thật không
có sự so sánh nào hay hơn khi nói về con sông mang tình người, tình son sắt thủy chung của lứa đôi
“Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Lời thề của lứa đôi, lời thề của dòng sông đã trở thành
giọng hò dân gian của xứ Huế. “Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân
gian”; “ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”. Đây là
một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ điển của tác giả về dòng sông yêu quý
của mình. Vâng! Sông Hương chung tình với kinh thành Huế như người dân Châu Hoá mãi mãi yêu
mảnh đất tình người của họ. Có thể nói, bằng phép nhân hoá, so sánh để lý giải địa hình nên tác giả
khoác cho dòng sông một tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời xa lúc chia tay, để cảm nhận một
con sông thắm thiết chung tình. Đó là nét đẹp mềm mại trữ tình có linh hồn của con sông. Thế là thấp
thoáng đâu đây dáng hình, tâm tình của những cô gái xứ Huế: tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà

9
kín đáo, lẳng lơ mà nhất mực thủy chung. Dòng sông Hương trong sâu thẳm của nó mang vẻ đẹp tâm
hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:

“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc


Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”
Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:

“Nghìn năm gửi lại một chữ trinh


Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”
Nhận xét:
- Đoạn trích thể hiện vốn tri thức văn hóa sâu rộng của tác giả.
- Ngôn ngữ chọn lọc với những hình ảnh so sánh đẹp.
=> Qua những cảm nhận về sông Hương, HPNT đã tiếp cận & miêu tả dòng sông từ nhiều không gian &
thời gian khác nhau, đặc biệt là trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương như “người con gái dùng dằng chia
tay người yêu”, thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lẳng lơ kín đáo. Cái “tôi” của tác giả là một
cái “tôi” nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc hẳn, nhà văn phải yêu quê hương lắm thì mới có thể lột
tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như vậy. HPNT đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo
dõi toàn bộ thủy trình của dòng sông với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan.
2. Đoạn 2: Vẻ đẹp thi ca của sông Hương
Dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình còn là nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ thi sĩ, sông Hương
còn khơi dậy cảm hứng thi ca. Ở điểm này sông Hương thực sự đã trở thành nàng thơ của tâm hồn thi sĩ.
Với diện mạo phong phú, khi dữ dội, man dại, khi e ấp, thướt tha, sông Hương là nguồn cảm hứng thi ca
muôn đời. Mỗi nhà thơ bằng tài năng & cảnh ngộ riêng của mình đã tìm thấy ở con sông này những đồng
điệu trong tâm hồn, những thăng hoa của cảm xúc.
+ Từ một dòng sông xanh biếc thường ngày, con sông bỗng thay đổi màu sàu sắc thật bất ngờ. Nhà văn
đã làm sống dậy 1 con sông Hương “sáng xanh, trưa vàng, chiều tím” qua những vần thơ biếc xanh của
Tản Đà đó là “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Giữa cái màu “cỏ lá xanh biếc” với “dòng sông trắng, lá
cây xanh” của nhà thơ đa tình Tản Đà có sự tương giao: đó là sự đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ
nhạy cảm với màu biếc của thiên nhiên.
+ Tác giả cũng làm sống dậy 1 con sông hiền lành, thướt tha, thơ mộng thành dòng sông hùng tráng,
bất tử trong thơ Cao Bá Quát “như kiếm dựng trời xanh”. Dòng sông Hương được miêu tả thật hoành
tráng, mạnh mẽ.
+ Tác giả còn cảm nhận trong không gian Huế & dòng sông Hương với nỗi niềm hoài cổ “nỗi quan
hoài vạn cổ”, nỗi buồn “trời non nước” trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan “bảng lảng bóng hoàng
hôn”
+ Một lần nữa tác giả lại so sánh đặt dòng sông Hương bên những trang Kiều của NDu. Điều kì diệu là
nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiều. Từ thân phận của nàng Kiều, nhà văn gợi
đến dòng Hương giang có sức mạnh phục sinh tâm hồn: “Trên dòng Hương giang/ Em buông mái
chèo/ Trời trong veo, nuớc trong veo/ Em buông mái chèo” qua bài thơ “Tiếng hát sông Hương” đầy giá
trị nhân đạo của Tố Hữu.

=> Sông Hương đã thay hình đổi dạng qua những trang văn, qua những dòng thơ. Đó là dòng sông “mềm
như tấm lụa”, “dòng sông trắng”, “như kiếm dựng trời xanh” đều xuất phát từ những trái tim nặng lòng
với Huế. Bằng cách viết liên văn bản, bằng vốn kiến thức văn học phong phú, bằng cách viết đầy chất
thơ, nhà văn đã làm sống lại “một dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ
sĩ”. Cách so sánh, liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết

10
trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của nhà văn giàu
chất thơ.
- Kết thúc bài kí là một câu hỏi ngỡ như bâng quơ, một câu hỏi khó trả lời của một nhà thơ già hay đó cũng là
của tác giả “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Câu hỏi ấy cũng được chọn làm nhan đề cho tác phẩm nhằm gợi sự
tìm kiếm cái đẹp: cái Đẹp tiềm ẩn trong tự nhiên & con người xứ Huế, để ca ngợi 2 phẩm chất cao quý còn mãi
với thời gian đó là cái đẹp vĩnh hằng; đó là cái danh thơm muôn thuở. Đó chính là
khát vọng của con người nơi đây: “muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử”
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ: 1- 2 đoạn văn

Đoạn trích sử dụng bút pháp miêu tả, nhân cách hoá, so sánh, liên tưởng độc đáo. Ngôn ngữ vừa trí tuệ
vừa giàu chất thơ, chất hoạ. Giọng văn mượt mà, truyền cảm. Bài ký rất tiêu biểu cho phong cách của
Hoàng Phủ Ngọc Tường: kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén
và suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa…Đoạn kí đã diễn tả vẻ đẹp &
chất thơ của Huế thể hiện tập trung ở dòng sông Hương như biểu tượng của Huế với tất cả vẻ đẹp của
cảnh, người đất cố đô. Bài kí cũng khơi dậy tình yêu quê hương & lòng tự hào về vẻ đẹp văn hóa của
Huế nói riêng & thiên nhiên, đất nước, con người VN nói chung.

11
12
13

You might also like