You are on page 1of 4

KIẾN THỨC CƠ BẢN AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

1. Khái quát:
a. Tác giả:
- Vị trí: là một trong những nhà văn chuyên về bút kí
- Phong cách nghệ thuật:
+ Có sự kết hợp nhuần nhuyễn: Giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận
sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết học, văn hoá,
lịch sử…
+ Lối hành văn: hướng nội (hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn
trở, thâm trầm, sâu lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa.
b. Tác phẩm
+ Xuất xứ:
- Viết tại Huế, 1981.
- In trong tập sách cùng tên > lấy tác phẩm làm nhan đề cho một tập bút kí > vị trí
văn học sử: tác phẩm bút kí tiêu biểu của nhà văn.

+ Bố cục:
- Đoạn 1 (từ đầu - dưới chân núi Kim Phụng): Sông Hương khi ở thượng nguồn
- Đoạn 2 (tiếp – quê hương xứ sở): Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành
Huế.
- Đoạn 3 (còn lại): Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc
đời và thi ca..
2. Phân tích
a. Đoạn 1: Sông Hương nhìn từ nguồn cội.
+ Khi đi qua dãy Trường Sơn: SH như một “bản trường ca của rừng già” với nhiều
tiết tấu trầm bổng:
- “Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” > hùng tráng.
- “Mãnh liệt vượt qua ghềnh thác” > ào ạt.
- “Cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực sâu” > dữ dội.
- “Dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng” >
nên thơ, tình tứ, mê đắm.
- Biện pháp nhân hoá: Sông Hương như “cô gái Di - gan phóng khoáng và man
dại”, với “bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng” > nữ tính, vừa dịu
dàng vừa mãnh liệt hoang sơ > không chỉ ngắm nghía “khuôn mặt kinh thành”,
nhà văn còn khơi về nguồn cội để khám phá vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà chính
dòng sông cũng không muốn bộc lộ.
=> Hé mở một phát hiện mới của tác giả về vẻ dẹp của Sông Hương: Người ta
hay nghe tới sông Hương gắn với Huế “dịu dàng pha lẫn trầm tư”, êm đềm,
trong trẻo nay lại biết tới phần dữ dội, mê hoặc, khó cưỡng của dòng sông.
+ Khi ra khỏi rừng già:
- Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
- Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn
hoá xứ sở.
→ Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
1
Page
=> Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng
nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp của SH khi ở thượng nguồn nguyên sơ, man dại,
mãnh liệt và đầy quyến rũ (cô gái Di- gan) nhưng cũng hết sức dịu dàng và trí
tuệ bởi chiều sâu nhân cách của một dòng sông lặng lẽ bồi đắp “phù sa” cho
văn hóa Huế, góp phần tạo nên và bảo tồn văn hóa của thiên nhiên xứ sở

b. Đoạn 2: Sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế
+ Quan hệ giữa sông Hương và có đô: “người tình mong đợi” >hành trình về cố đô
được hình dung như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” một người tình trong mộng
của người con gái.
+ Hành trình về xuôi tìm “người tình mong đợi” → Sh khi ở ngoại vi thành
phố Huế
- Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại: là “cô gái đẹp ngủ mơ màng” > gợi nhớ
truyện cổ tích “Công chúa ngủ trong rừng” > vẻ đẹp lãng mạn của câu chuyện cổ.
- Khi ra khỏi vùng núi: “chuyển dòng liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột’,
“vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, vượt qua, đi giữa âm
vang, trôi di giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột
ngột” > linh hoạt, rạo rực sức trẻ và sự khao khát.
- Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo: “mềm như tấm lụa”
- Qua những dãy đồi tây nam thành phố: ánh lên “những mảng phản quang nhiều
màu sắc” “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
- Qua lăng tẩm đền đài: “vẻ đẹp trầm mặc nhất” “như triết lí, như cổ thi” > so sánh
độc đáo, giàu sức gợi > tả mặt nước phẳng lặng và không gian bờ bãi u tịnh bằng
liên tưởng tới triết học, thơ cổ > nổi bật vẻ thâm nghiêm, bao nhiêu thăng trầm lịch
sử, bao nhiêu dời đổi của các triều đại đã tạo thành trầm tích văn hóa lặn vào vẻ
đẹp ngàn năm không suy xuyển của dòng nước > thấp thoáng hình ảnh một “cái
tôi” giàu suy tư.
- Khi gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ: tươi tắn và trẻ trung
Nhận xét:
• Sông Hương chảy qua nhiều địa danh khác nhau, mỗi địa danh mà chỉ nhắc thôi
ngưòi ta đã thấy bao tầng sâu văn hiến > nhiều dáng vẻ Sông Hương được khám
phá ở nhiều góc nhìn.
• Diện mạo: vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng.
• Bút pháp: kể và tả, sự liệt kê được thơ hoá bằng thụ cảm tài hoa, tinh tế.
+ Sông Hương khi chảy vào thành phố:
- Giữa những biền bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long: Vui tươi hẳn lên > tâm
trạng của một người đi xa “tìm đúng đường về”, nao nức bồi hồi giữa bờ bãi than
thuộc của quê hương.
- Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên: uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến >
làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu >
so sánh lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng, ý vị, thiêng liêng
trên bờ môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại nơi cánh cung của dòng
sông > cái nhìn tình từ, thống nhất, đem lại cho người đọc những khoái cảm thẩm
mĩ độc đáo.
2
Page
- Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông
Hương và Huế hoà lẫn vào nhau.
- Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh
như niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
- Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc
Tường về dòng sông quê hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như
cuộc hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
+ Nỗi lưu luyến khi rời khỏi kinh thành:
- Rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc.
- Sực nhớ điều gì chưa kịp nói > đột ngột đổi dòng dể gặp lại thành phố lần cuối
- Liên tưởng:
• Rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây > nỗi vương vấn, chút lẳng
lơ kín đáo của tình yêu
• So sánh: sông Hương, kinh thành Huế - nàng Kiều, Kim Trọng > Tấm lòng
người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở
=> Có 3 so sánh bắc cầu: sông Hương trong khúc ngoặt chia tay kinh thành Huế -
Thúy Kiều trong đêm tình tự gửi lời nguyện thề cùng Kim Trọng – người Châu
Hóa mãi thủy chung với xóm làng > từ dòng chảy khác lạ của dòng sông liên
tưởng tới mối tình kín đáo, e ấp, trước sau như nhất của Kim – Kiều, so sánh với
tình yêu quê hương xứ sở của người Huế > mượn tình cảm riêng để khái quát mối
tình chung, làm cho tình yêu đất, yêu nước không chung chung, to tát mà mềm
mại, ý vị, tinh tế, mà đằm thắm, thiêng liêng, sâu sắc.
c. Đoạn 3: Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử. với cuộc đời và thi ca
+ Trong mối quan hệ với lịch sử:
- Điểm lại dấu ấn dòng sông trong lịch sử dân tộc: thế kỉ XV ở “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi, thế kỉ XVIII qua chiến thắng của anh hùng Nguyễn Huệ, thế kí XIX
với máu của các cuộc khởi nghĩa, đi vào thời đại của cách mạng tháng Tám bằng
những chiến công rung chuyển > tham gia, trải nghiệm cùng những bước thăng
trầm của lịch sử dân tộc.
- Khái quát: Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi
viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm
một chiến công, để rồi nó trở vè với cuộc sống bình thường, làm một người con
gái dịu dàng của đất nước.
=> Nếu như ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận chủ yếu trên bề rộng của
không gian địa lí với những liên tưởng độc đáo thì ở đoạn này, sông Hương được
bố cục theo chiều sâu của lịch sử. Nó ghi dấu những chiến công, lặng khóc cho
những hi sinh âm thầm, vùng lên quật khởi…> giống như một tấm gương soi vào
lịch sử. Sông Hương như biết bao chiến sĩ vô danh trên dải đất hình chữ S. (Sinh
ra không phải cầm súng cầm mác nhưng kẻ thù buộc ta phải đấu tran. Khi bình
yên, họ lại trở về với cuộc sống bình thường, trở về bản tính tự nhiên muôn thủa ,
như sông Hương “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”)
+ Trong mối quan hệ với thi ca:
- Có một dòng sông thi ca về sông Hương mà nước luôn đổi màu. (thơ Tản Đà,
Cao Bá Quát, Bà huyện Thanh Quan, Tố Hữu).
3
Page

- Nhà thơ hỏi với trời, với đất: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
• Đối tượng hỏi: đất, trời.
• Nội dung hỏi: ai đã đặt tên cho dòng sông? > câu hỏi dường như không thể có
một lời đáp cụ thể
• Mục đích:
o Không phải để hỏi nguồn gốc của một danh xưng địa lý thong thường mà là một
sự nhấn mạnh, ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng sông quê hương.
o Gợi mở cho người đọc những hướng trả lời khác nhau bằng trải nghỉệm văn hóa
của bản thân.
=>Tên riêng của một dòng sông có thể do một cá nhân nào đó đặt ra, qua năm
tháng, danh xưng của tác giả bị mai một, nó trở thành tài sản chung của cộng
đồng, Tuy nhiên, cái tên đích thực của dòng sông phải là danh từ gắn với biểu
tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu lịch sử của một dân tộc. Ở khía cạnh này,
chính những người dân bình thường – những người sáng tạo ra văn hóa, văn học,
lịch sử là những người “ đã đặt tên cho dòng sông”
d. Một vài đặc sắc nghệ thuật
+ Ngôn ngữ: phong phú, giàu hình ảnh, gợi cảm.
+ Hình ảnh: so sánh độc đáo bằng liên tưởng lãng mạn, đậm chất trữ tình.
+ Thủ pháp: nhân hóa > Sông Hương được cảm nhận như một sinh thể sống động
(là người con gái dịu dáng đằm thắm với tất cả các cung bậc cảm xúc) > thuận lợi
để đan cài những suy tưởng về văn hóa, lịch sử, về truyền thống con người và đất
nước Việt Nam.
Nhận xét về nét tài hoa phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường: Vốn ngôn từ
đẹp, tao nhã, tinh tế, lịch lãm; những ví von, so sánh nhân hóa giàu chất thơ,
chất nhạc, chất họa và chất suy cảm, hướng nội đã làm nên nét thanh tao rất
riêng trong chất kí HPNT; sự quan sát và tưởng tượng bằng lăng kính của
tình yêu và cái nhìn lãng mạn đã làm nên chất trữ tình riêng của kí HPNT;
4
Page

You might also like