You are on page 1of 20

Ai đã đặ t tên cho dòng sông?

Hoàng Phủ Ngọc Tườ ng

- Tác giả:
+ Sinh ra, nhiều năm sống và hoạt động cách mạng, công tác tại Huế => Gắn bó với đất
và người nơi đây, am hiểu sâu sắc cội nguồn và linh hồn văn hóa xứ sở.
- Sáng tác:
+ Sở trường: bút ký (*), tùy bút.
(*) “Bút ký là ghi lại những điều tai nghe mắt thấy, những nhận xét, cảm xúc của
người viết trước các hiện tượng trong cuộc sống.” (“Từ điển Tiếng Việt” - Viện ngôn
ngữ học – 1992 – trang 105)
+ Phong cách nghệ thuật: Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình .Nghị
luận sắc bén với suy tư đa chiều trên nền tảng hiểu biết sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch
sử…
Hành văn: hướng nội (,hướng vào bên trong, vào thế giới nội tâm nhiều trăn trở, thâm
trầm, sâu lắng), súc tích, mê đắm, tài hoa.
- Tác phẩm: Viết tại Huế, 1981, in trong tập sách cùng tên.
- Đoạn trích tô đậm vẻ đẹp kiều diễm, sống động của hình tượng sông Hương, thể hiện rõ
tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

“Vì tôi là người Huế và đã một thời tuổi trẻ nặng nề với sông Hương suốt những mùa hè
nóng bức ngủ đò nên tôi nhìn sông Hương luôn luôn với đôi mắt của người bạn. Cứ mỗi
chiều tôi cùng bạn bè thường ngồi ở balcon Câu lạc bộ thể thao Huế uống rượu và nhìn
sông Hương, nhìn mặt trời lặn ở dãy núi Trường Sơn rải xuống mặt sông một màu vàng quý.
Có một lần ngồi cùng với một số bạn người Pháp ở CLB, uống xong lon bia tôi liệng xuống
sông, cô bạn Pháp la lên và giữ lấy tay tôi nhưng không kịp. Tôi hỏi vì sao. Cô ấy bảo là
dòng sông này đẹp quá không nên liệng bất cứ cái gì xuống đó. Tôi hỏi có đẹp bằng sông
Seine không. Cô ấy bảo đẹp hơn nhiều.

Tôi đã đứng bên bờ sông Seine những sáng, chiều, tối. Sông Seine đục. Sông Hương trong
vắt. Sông Seine có barteau – mouche. Sông Hương có đò. Nói chung không nên so sánh sau
này với sông kia. Mỗi dòng sông đều để lại trong lòng những đứa con rất gần gũi nó những
kỷ niệm riêng tư. Kỷ niệm thì khó quên. Và kỷ niệm về một dòng sông thì bao giờ cũng đẹp.
Tôi tin như thế”.

(Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn)

“Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn gần như chỉ viết về một thể loại đó là bút ký. Ngòi bút
của ông đã từng viết về nhiều vùng đất song người đọc vẫn ấn tượng nhất là những trang
viết của ông về Huế. Chảy suốt đời văn và đời người của Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ là
dòng sông Hương. Nếu không có những trang viết của ông nó đã không long lanh như thế
trong lòng bao nhiêu người đọc dù đã đến hay chưa đến Huế. Năm 1998 sau một cơn bạo
bệnh tưởng chừng như không thể qua khỏi nhưng nghị lực sống đã thôi thúc ông gượng dậy
để tiếp tục sống và tiếp tục viết. Tính đến nay nhà văn đang gửi đến bạn đọc 20 đầu sách
trong đó có 16 cuốn là viết sau thời điểm lâm trọng bệnh. Tập bút ký có tên “Lời tạ từ gửi
một dòng sông” theo xác nhận của chính ông là cuốn sách cuối cùng của một đời cầm bút.

Những bút ký về sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể nói đã trở thành kinh
điển: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” “Sử thi buồn”, “Hoa trái quanh tôi”,…. Bởi thế, cho
dù trong những trang văn của ông, dấu chân lữ hành của ông đã lang thang qua sông Seine
nước Pháp hay sông Volga nước Nga, đi suốt những dòng sông Việt từ sông Hương, sông
Đuống, sông Lô, đến dòng Hiền Lương, Thạch Hãn quê nhà hay yêu đến tận tụy dòng Thu
Bồn sứ Quảng, sông Côn đất võ, những dòng sông pHương Nam đầy nắng và phù sa… thì
cuối cùng, với Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn là những yêu tHương dành dụm cho lời tạ từ
hôm nay:

“Như một người đã chiêm nghiệm trong im lặng và trong sương khói chỉ để giữ lại những
nét đẹp sâu thẳm của thiên nhiên, từ dưới đáy kinh nghiệm của một đời cầm bút, tôi đã
không ngần ngại gửi tâm hồn mình vào tác phẩm, vẽ lại đời mình bằng màu nước của dòng
sông, nó xanh biếc và yên tĩnh như một lẽ vĩnh hằng trong cảnh vật cố đô”. Đọc ““Lời tạ từ
gửi một dòng sông”” ta bất giác gặp lại những hình ảnh của thành phố Huế bên bờ sông
Hương nhỏ nhắn, đầy chất thơ cứ dần hiện lên qua những câu chuyện, những hoài niệm
đầy tình cảm nhớ tHương của tác giả. Qua những trang viết của ông người đọc cảm thấy
một chút gì nhớ nhung của một thời đã qua, những gì không thể giữ lại được trong cuộc
sống hôm nay và lòng như chùng lại khi những kỷ niệm của quá khứ bỗng nhiên ùa về đầy
ăm ắp.

Đọc “Lời tạ từ gửi một dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường người ta thấy man mác một
Thạch Lam với “Hà Nội ba sáu phố phường” nhưng ở đây Huế vấn vương và xót xa hơn của
một thời quá vãng. Phải yêu Huế lắm, gắn bó với Huế lắm, tác giả mới dẫn người đọc vào đó
cùng với mình, để thấy lòng lắng lại, đánh thức người đọc hoài niệm về những tình cảm
trong trắng thiêng liêng mà hầu hết mọi người đã lãng quên trong cuộc sống vội vã của hiện
tại. Có người từng cho rằng nếu mai kia Hoàng Cầm từ giã cuộc chơi thì sau lưng ông vẫn
có dòng sông Đuống đưa tiễn và cũng nói theo cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường, rằng “Mai
kia tôi về ngủ trên đồi…”, hẳn ông sẽ có dòng sông Hương đưa tiễn với tất cả tâm tình hào
hoa đam mê mà ông đã dành cả đời văn của mình dâng hiến cho linh giang xứ Huế.

Tập bút ký cuối cùng này được ông đặt tên là lời tạ từ gửi một dòng sông nhưng tôi cũng
như bao nhiêu người đọc yêu mến những trang văn của ông đều nghĩ sẽ không có một cuộc
tạ từ nào cả. Nếu một mai phải rời bỏ cuộc chơi ở trần thế thì dòng sông Hương vẫn lưu
bóng của ông như dòng sông Châu Hóa thuở nào đã lưu bóng hình ảnh của nàng công chúa
Huyền Trân lúc qua đây với một nỗi niềm: Nước non ngàn dặm ra đi…

Vâng, thế hệ những người đến Huế sau này nếu đọc được câu: Thuở huyền trân công chúa
qua đây, chắc sông cũng xanh như vậy? Vâng, thuở ấy sông đã xanh như bây giờ, như đã
xanh từ thuở Việt Thường. Tôi là người thư sinh đất Thăng Long theo đám cưới huyền trân
qua đây giữa một ngày, dòng sông bồi hồi son phấn kinh thành thuở ấy, dòng sông châu hóa
còn hoang dại, chim nhạn đậu đầy bãi, hoa tầm xuân mọc chen với cỏ lau, chính là hoa
tường vi thơm ngát những khu vườn bây giờ. Tôi qua đây, yêu mến dòng sông nên ở lại, giẫy
cỏ, lật đá, trồng cây từ buổi ấy. Sáu, bảy trăm năm trôi qua, mỗi tấc đất khát bỏng này đã
uống biết bao nhiêu mồ hôi và máu. Tôi nhìn ra ở nơi mỗi con người quanh tôi trĩu nặng
một lòng tHương nhớ cội nguồn, và nét điềm tĩnh của mảnh đất mà họ đã cày cuốc và gieo
hạt.

Chắc rằng sẽ mãi ngắm dòng sông và mang dòng sông vào tâm tưởng của mình giống như
tôi ngày trước dù tôi không sinh ra và lớn lên ở đây nhưng đã từng sống ở đây mấy năm, giờ
cũng xa Huế đã mấy năm nhưng khi gặp lại những trang sách của Hoàng Phủ Ngọc Tường
cũng đau đáu một nỗi niềm với Huế như chính tác giả vậy.

(Nhà văn Hoàng Phù Ngọc Tường: Đau đáu một nỗi niềm với Huế, Văn Xưa)

Những kỷ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế kỷ
nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu, không
micro, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc. Những kỉ niệm dung dị đó
đã ám ảnh suốt những 5 tháng tôi xa sông Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời
sáng tác của tôi là con sông quê hương.”

(Hoàng Phủ Ngọc Tường)


HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM – Ý CHÍNH CHO TỪNG ĐOẠN TRÍCH
TRONG BÚT KÍ “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?”
1. Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn:
- Là “bản trường ca của rừng già”.

+ Sông Hương được ví như một bản trường ca của rừng già, bản trường ca ấy cất lên cái âm
vang mãnh liệt của sự hùng vĩ giữa núi rừng đại ngàn. Một bản trường ca khiến người ta đắm
say tha thiết.

+ Câu văn dài với hình ảnh so sánh nổi bật cùng cấu trúc câu từ được điệp lại liên tiếp và sự
liên thanh liên tục của những động từ mạnh “rầm rộ”, “cuộn xoáy” đã thể hiện mặt tính cách
sôi nổi, hoang dại của dòng sông đặc biệt nơi xứ Huế mộng mơ.

- Là “cô gái Digan phóng khoáng và man dại”

+ Biện pháp nhân hoá đã giúp nhà văn hình dung sông Hương như một cô gái di gan - một
trong những tộc người mang vẻ đẹp hoang dã, phóng khoáng, tự do đầy khỏe khoắn - đặc
trưng vốn có của bộ lạc du mục di gan. Sắc vóc ấy thật xinh đẹp mà cũng thật hoang dại, thật
cá tính và khiến người ta mải miết đi tìm.

+ Động từ “hun đúc” thể hiện một mối quan hệ gắn bó sâu đậm giữa rừng già và sông
Hương, cánh rừng đã rèn luyện, đã dõi theo và hình thành cho dòng sông nên thơ một bản
lĩnh gan dạ, kiên cường nhưng không tước đi mất sự tự do, sáng trong nơi tâm hồn dòng
sông son trẻ.

- Là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”

+ Nhà văn đã nâng dòng sông từ một người con gái trở thành một người mẹ, một hành trình
thiêng liêng đã góp phần tạo nên, gìn giữ, bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở.
Chính sông Hương đã chắt chiu từng giọt phù sa màu mỡ, nuôi dưỡng và kiến tạo nền văn
minh và hình thành nên văn hóa xứ sở đậm đà theo dòng thời gian trôi chảy.

+ Sông Hương đã góp phần bồi đắp văn hóa Huế, vươn mình chảy ra biển qua cửa Thuận An
và mang theo một hành trình dành tặng vào đắp bồi phù sa cho hai bên bờ. Nếu không có
sông Hương, Huế dường như mất đi một linh hồn, Huế dường như sẽ chẳng là còn là Huế.
Sông Hương đã cùng Huế làm nên “một vùng văn hóa xứ sở”.

 Nét tài hoa trong ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường: liên tưởng kỳ thú, ngôn từ gợi cảm,
câu văn dài, chia làm nhiều vế liên tục gợi dư vang của đường ca; thủ pháp điệp cấu trúc
+ động từ mạnh tạo âm hưởng mạnh mẽ của con sông giữa rừng già.
2. Vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế - cuộc hành trình đi tìm tình yêu
từ nguồn đến kinh thành Huế.

* Sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được “người
tình mong đợi” đến đánh thức:

- Ngược xuôi theo dòng chảy hiền hòa, duyên dáng của dòng sông Hương, bằng khả năng
quan sát và miêu tả tinh tế của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa làm nổi bật
vẻ đẹp nên họa, nên thơ của dòng sông xứ Huế. Nếu ở khúc thượng nguồn, sông Hương
là một sinh thể đa tính cách thì khi về đến ngoại vi thành phố Huế, nhà văn đã cho người
đọc thấy được vẻ đẹp dịu dàng, trầm mặc như “người con gái đẹp mà ngủ mơ màng giữa
cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại” của nó:

“Phải qua nhiều thế kỷ, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ
mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi,
sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa một khúc quanh đột ngột, uốn
mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi
gặp thành phố tương lai của nó”.

- Qua góc nhìn đầy tài hoa lãng mạn, tình tứ của nhà văn, sông Hương hiện lên với vẻ đẹp
đầy mềm mại, duyên dáng của một người con gái đang phô ra những đường cong tinh tế
và tuyệt đẹp của mình. Người con gái đẹp ấy cứ mơ màng như vừa bừng tỉnh sau một
giấc ngủ dài trong rừng sâu và vươn mình ra khỏi vùng núi âm u trầm mặc mà chuyển
mình liên tục để thể hiện niềm khao khát thanh xuân, tuổi trẻ và tình yêu muôn đời.

* Thủy trình của sông Hương khi bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc tìm kiếm có ý
thức” người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu chuyện tình
yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích, gắn với những thành quách, lăng tẩm của vua
chúa thuở trước.
- Men theo thủy trình của dòng sông, men theo những đường cong mềm mại, thướt tha
của cô gái Hương giang, nhà văn như khám phá ra những vất vả, gian truân trong cuộc
hành trình ấy: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén;
vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều,
Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi
Thiên Mụ xuôi dần về Huế”. Đây quả là một cuộc hành trình dài, quanh co, gấp khúc.
- Dù phải “chuyển hướng, vòng qua” hay “đột ngột vẽ một hình cung thật tròn”, “ôm”
rồi “xuôi dần”, sông Hương vẫn giữ nguyên ý nghĩa ban đầu của nó, tiếp tục chặng hành
trình đầy vất vả, gian truân: “Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của
Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, sắc nước trở nên xanh
thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa 2 dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao
đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy
dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con
thoi”. Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế lần lượt được liệt kê trên từng
trang văn đã chứng tỏ vốn hiểu biết sâu rộng, kiến thức địa lý phong phú của nhà văn.
- Đến đây, sông Hương như khoác lên mình một tấm áo choàng mềm mại nhưng đồng
thời cũng phô diễn hết những đường cong quyến rũ của mình. Dòng chảy cứ thế uốn
quanh, lượn vòng trong “dư vang”, trong sự bao dung, chở che của ruột già.
- Sắc nước “xanh thẳm” chính là phần thưởng xứng đáng cho hành trình nhọc nhằn mà
“người con gái” yêu kiều đã “vượt qua”. Sắc xanh thẳm của nước hòa vào dáng hình
hùng vĩ của “hai dãy núi đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột
như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” đã tạo nên một bức họa đồ tuyệt đẹp của địa ngàn
mênh mông. Sắc nước hòa vào sắc núi, sắc đồi, và ánh nắng chiếu lên bầu trời Tây Nam
thành phố sắc màu lộng lẫy như đóa phù dung mà chỉ riêng Huế mới có: “sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím”.

Sắc màu không trộn lẫn ấy cũng có lần làm Đoàn Thạch Biền thổn thức:

“Đã bốn lần đến Huế

Vẫn lạ như lần đầu

Sông Hương lơ đãng chảy

Nắng tím vướng chân cầu”

Cứ thế, sông Hương như được dịp khoác lên mình bộ xiêm váy xinh đẹp, lộng lẫy
trong từng câu thơ đẫm tình.
- Hương giang khi nàng trầm mặc “như triết lý, như cổ thi” khi đi qua những đồi thông
u tịch, nơi phong kín giấc ngủ ngàn năm của những vị vua chúa và niềm kiêu hãnh âm u
của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp một vùng thượng lưu….. đã tỏa rạng một vẻ đẹp
tính cách đáng trân trọng của nàng thơ này.

- Sông Hương như cúi chào, khép mình lặng lẽ nghiêm trang trước những phong kín của
thời gian, không muốn kinh động đến giấc ngủ ngàn năm của những vị vua chúa.

- Sông Hương qua ngòi bút tài hoa mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường thực sự đã trở
thành một dòng sông có linh hồn, mang trong mình những vẻ đẹp, những cá tính riêng
khiến người ta cứ mải miết đi tìm và mê man trong chính vẻ đẹp nên họa, nên thơ ấy.

 Qua những biến đổi của sông Hương ta thấy hành trình về xuôi của nó là một hành trình
dài, chảy qua nhiều địa danh, mang nhiều mảng màu mới lạ song đó cũng là hành trình
lãng mạn để tìm kiếm tình yêu đích thực. Sông Hương là một cô gái trẻ đầy đam mê, khát
vọng hạnh phúc vượt qua trở ngại của thời gian, không gian để kiên nhẫn chờ đợi, nỗ lực
biến đổi để mình trở nên hoàn thiện hơn để gặp người tình mong đợi. Hoàng Phủ Ngọc
Tường với vốn hiểu biết uyên bác cùng lối hành văn mê đắm giàu cảm xúc và rất đỗi tài
hoa đã thể hiện một góc nhìn vô cùng lãng mạn, gửi gắm những suy tư đầy triết lý vào
bút ký đặc biệt này.

GỢI Ý LIÊN HỆ SÁNG TẠO VỚI TÁC PHẨM CỦA


NGUYỄN NGỌC TƯ:
“Mỗi lần qua sông Cái Lớn, Giang lại nghĩ, chắc tới già, tới chết, mình sẽ chẳng bao giờ
rời chiếc ghe nhỏ này đâu. Cũng khúc sông nầy, năm Giang mười tuổi, má Giang chết.
Hôm đó trời mưa nhỏ nhưng gió nhiều, gió tạt tay chèo liêu xiêu, nước từ vàm sông cuồn
cuộn đổ ra. Chiếc ghe bạt nước tấp vô xà lan chở cát. Ông Chín, ba Giang chống đằng
mũi, má Giang chống đằng lái. Giang ngồi trong mui ghe, ôm con Thủy vào lòng.

Giang thấy rõ ràng, lúc cây sào trong tay má đang chỏi vào thành xà lan trượt hướt lên,
má ngã xuống, đầu má đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi mà cong lại như
chiếc võng, hụp vào sông. Giang khóc điếng, bồng con Thủy lồm cồm bò về đằng sau lái,
Giang còn kịp nhìn thấy mái tóc má trôi xùm xòa phiêu phiêu trong làn nước, rồi mất
hút”.

(Nhớ sông, Nguyễn Ngọc Tư)

3. Vẻ đẹp của sông Hương trong lòng thành phố Huế:

ĐOẠN “TỪ ĐÂY, NHƯ ĐÃ TÌM ĐÚNG


ĐƯỜNG VỀ….NỖI LÒNG”.
Từ góc nhìn địa lý, bắt đầu đi vào thành phố, nhà văn đã miêu tả lại thủy trình một
dòng sông từ vùng ngoại ô Kim Long đến từ thị trấn Bao Vinh với những đường
cong uốn lượn vui tươi và duyên dáng:

- (1) TÂM TRẠNG VUI TƯƠI CỦA SÔNG HƯƠNG: Tâm trạng vui tươi của
dòng sông từ khi gặp tiếng chuông của chùa Thiên Mụ đến đây càng rõ hơn khi đã nhận
ra những dấu hiệu của thành phố. “Cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” ấy - sau
tháng ngày tìm kiếm tình yêu đã “tìm đúng đường về”, vượt trải những cung bậc, thử
thách để đối diện với niềm vui “giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim
Long”. Hành trình của Hương giang qua bao ngã, bao đường, từ hướng nam bắc sang
tây bắc, “rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc” đến khoảnh khắc
“kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc”. Đó là một chặng
đường dài truân chuyên, mạnh mẽ và kiên cường như cách con người Huế đã dựng xây
và giữ gìn cố đô bằng tất cả tin yêu của mình.

GỢI Ý ĐAN XEN DẪN CHỨNG – CẢM NHẬN VỀ NIỀM VUI CỦA
SÔNG HƯƠNG KHI DẦN ĐƯỢC GẶP THÀNH PHỐ HUẾ:

Đã có lần đứng trước dòng sông ban chiều tím biếc, mộng mơ, nhà thờ
vũng nguyên đạt chấp bút viết những vần thơ đầy xúc cảm rằng:

“Ta về thăm Huế mộng mơ

Câu thơ ai thả lững lờ trên sông

Nghe mênh mang thổn thức lòng

Con thuyền buông mái giữa dòng Hương giang”

Hương giang đã không ít lần đi vào thơ ca nhạc họa như thế, nhưng mỗi lần
tìm về với trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta vẫn thấy xuyến xao
khôn nguôi trước vẻ đẹp của dòng sông đã từng trở thành nàng thơ của biết
- (2) SÔNG HƯƠNG NHÌN THẤY CHIẾC CẦU THÂN THUỘC: Từng
chứng kiến bao thăng trầm lịch sử của đất nước, biểu tượng đặc trưng của xứ Huế mộng
mơ – hình ảnh chiếc cầu Tràng Tiền duyên dáng soi bóng dưới dòng sông Hương hiện
lên trên trang bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật đặc biệt. Bởi qua cách miêu tả
“phía đó, nơi cuối đường” là câu cây cầu thân tHương của cố đô, người đọc cảm nhận
được một sự chờ đợi được hồi đáp, một nỗi vọng trông được thực hiện nơi dòng sông.
“Nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời” - một chiếc cầu
trắng qua bao lần tu sửa là lại bấy nhiêu lần vững mạnh và kiên cường hơn, đã đứng đó
để ghi tạc bao chiến công lịch sử của nước nhà.

- (3) ĐƯỜNG CONG VÀ TIẾNG “VÂNG” HIỀN NGOAN, NHẸ NHÀNG


CỦA HƯƠNG GIANG: Sông Hương được nhân hóa để thành một thiếu nữ với tâm
trạng “vui tươi, yên tâm” khi gặp người tình mong đợi. Nó vừa e ấp kín đáo, vừa tha
thiết mãnh liệt như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Ra khỏi vùng núi, sông
Hương tỏa sáng với vẻ đẹp nữ tính khi giáp mặt thành phố ở Cồn Dã Viên “uốn một
cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi,
như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Cách so sánh đường cong sông Hương
- một thực thể hữu hình với “tiếng vâng không nói ra của tình yêu” tuy trừu tượng
nhưng lại có thể gợi trong lòng người đọc những rung cảm thẩm mĩ đẹp đẽ.

- (4) LƯU TỐC THỰC CHẬM CỦA DÒNG SÔNG – ĐIỆU SLOW TÌNH
CẢM DÀNH RIÊNG CHO HUẾ:
+ Nhà văn đã rất tinh tế khi nhận ra ,đặc điểm riêng của sông Hương là lưu tốc rất chậm
– “cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”: Sông Hương như một nét vẽ mềm mại và dịu
êm trong bức tranh xứ Huế vốn đã vô cùng nên thơ và hữu tình. Dòng sông mang lại
cho mảnh đất cố đô này một chất thơ nhẹ nhàng, trầm lắng và hài hòa trong nét đẹp của
chiều sâu văn hiến. “Và như vậy giống như sông Seine của Paris, Sông Đa-nuyp của
budapest; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”, hội ngộ cùng
những yêu tHương mà dòng sông đã kiếm tìm không mệt mỏi.
+ Sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông
Hương và những chi lưu của nó với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa bóng xuống
những xóm thuyền chài xúm xít tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ
kính của cố đô; những ánh lửa lập lòe trong đêm sương tạo nên sự huyền ảo, thơ mộng
của Huế: Khi sống trong thành phố Huế, hòa quyện và trở thành một phần của xứ Huế,
sông Hương như bất trọn từng giây từng phút với nơi đây: “những nhánh sông đào
mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị”; hai bờ sông “những cây đa, cây cừa cổ thụ
tỏa vầng là u sần xuống những xóm thuyền xúm xít”. Sông Hương hòa hợp với đặc
trưng và phong cách xứ Huế, chảy giữa lòng thành phố như thể đã sống lâu hơn, sống
trọn, sống sâu hơn về xứ Huế. Sông Hương như làm tăng thêm vẻ đẹp trầm mặc, thâm
nghiêm, u tịch cho thành phố ngàn năm tuổi này.

+ Không chỉ mang vẻ đẹp như bức họa với những gam màu sáng trong, hài hòa điểm tô
cho thành phố Huế, sông Hương còn là một bản nhạc, một “điệu slow tình cảm” dành
riêng cho Huế. Trong khoảnh khắc chìm đắm bên nhịp chảy lặng tờ của sông Hương,
nhà văn đã có dịp nhớ về những ký ức với dòng sông Ne-va nơi đất nước Nga xinh đẹp,
để rồi chắp bút viết nên câu văn đầy thơ mộng: “Tôi đã đến lê nin grát, có lúc đứng nhìn
sông Nê-va cuốn trôi những đắm băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của
mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một
chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy
với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện pê-téc-bua cũ
để ra biển Ban-tích”.

Bước chân người lữ khách như đưa hồn ta phiêu du đến xứ sở bạch dương xa xôi, nơi
ấy dòng Nê-va qua bao mùa vẫn giữ mãi vẻ đẹp thương nhớ. Trong trí nhớ của văn
nhân, Nê-va với dòng mạnh mẽ luôn cuốn trôi những đám băng lô xô, lung linh huyền
ảo dưới ánh sáng mặt trời mùa xuân.

+ Trong nỗi niềm thương nhớ Huế như khỏa lấp cả không gian, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã chẳng ngần ngại cảm thán, “mở toang” cánh cửa lòng mình ra để sống lại cả tuổi
xuân ngày trước, rằng ông muốn “hóa làm một con chim như đứng co một chân trên
con tàu thuỷ tinh để đi ra biển”. Những ký ức từ miền xa xăm cứ thế dội về trong tâm
tưởng, khiến nhà văn chỉ còn biết “cuống quýt vỗ tay”, nhưng rồi lại ngay lập tức chùng
lòng tâm trạng khi ông nhận ra rằng, Nê-va là dòng sông của những dòng chảy nhanh
mạnh, cuộn siết, vì thế “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của
chúng đang ngẩn ngơ trông theo”.

+ Và trong khoảnh khắc trông theo dòng chảy vội vã kia, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
nhớ tới câu chuyện “Hai nghìn năm trước, có một người Hy Lạp tên là Hê-ra-clit, đã
khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh”, để rồi mang theo tiếc nuối mà nhớ
về con sông quê hương đã in sâu trong tiềm thức. Điều đó không chỉ cho thấy sự nâng
niu, trân trọng nhà văn dành cho “nàng thơ” Hương giang của lòng mình mà còn như lời
nhấn mạnh, khẳng định vẻ đẹp êm đềm, chậm rãi, không trùng lặp với bất kỳ dòng sông
nào trên thế giới của sông Hương.

Nhà văn đã ví điều đó như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, và điệu slow
ấy đã bao đời gắn liền với những nét đẹp trong văn hóa tâm linh của xứ Huế cổ kính có
thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những
đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng nhưng
muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một cõi lòng.” Câu
văn cứ thế đi vào hồn người bởi thứ ngôn ngữ mượt mà kết hợp cùng phép so sánh độc
đáo nhằm lột tả được tất thảy vẻ đẹp lãng mạn mà giàu chất thơ, chất họa của sông
Hương. Nàng thơ ấy giờ đây như mang theo hơi thở, linh hồn của xứ Huế mà êm đềm
nhẹ thôi trong lòng người tình thân yêu.

Ta lắng tai nghe đâu đó còn là nỗi vấn vương, nửa muốn đi, nửa chẳng thể rời mà sông
Hương ý nhị thể hiện qua những điệu chảy “lặng lờ” của mình. Và như thế có thể khẳng
định rằng, bản tình ca sông Hương dành tặng riêng cho Huế chính là minh chứng tuyệt
vời nhất cho tấm lòng thủy chung da diết cùng tình yêu sâu nặng mà con sông gửi trao
nơi Huế mộng mơ.

 Có thể nói, từ dòng sông của xứ Huế mộng mơ, nhà văn đã liên tưởng đến những dòng
sông nổi tiếng trên thế giới như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuyp của budapest, sông
neva của lê nin grát để phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của dòng sông quê hương. Sự liên
tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ tạo ra những so sánh thú vị mà còn giúp
tác giả khác sâu hơn nét đặc biệt đậm chất Huế của sông Hương.

- Đặc điểm lưu tốc chậm của dòng sông được nhà văn lý giải từ nhiều góc nhìn khác
nhau:

+ Từ đặc điểm địa lý tự nhiên: những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã
làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước.

+ Từ lý lẽ của trái tim thì “điệu chảy lặng lờ”, “ngập ngừng muốn đi muốn ở” của sông
Hương là do tình cảm dành riêng cho Huế, do quá yêu thành phố của mình, do muốn
được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa.

 Ông đã say đắm trước dòng chảy chậm rãi, lững lờ, như “điệu slow tình cảm dành riêng
cho Huế”. Qua đoạn này, sông Hương cố tình chảy chậm lại như cố giữ thời gian để ở
bên thành phố Huế cho thấy tình yêu xứ Huế nồng nàn, không muốn chảy, mà muốn
đọng để sống lâu hơn với tình yêu của mình, để trân trọng phút giây bên nhau. Qua đây,
bạn đọc cũng thấy được sự am hiểu uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sông
Hương cùng với tài năng nghệ thuật ngôn ngữ mượt mà giàu hình ảnh để miêu tả sông
Hương khi gặp Huế mang đặc điểm rất Huế.

ĐOẠN NGẮN “HÌNH NHƯ TRONG KHOẢNH KHẮC CHÙNG


LẠI…TỨ ĐẠI CẢNH”:
Từ góc độ âm nhạc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngợi ca vẻ đẹp của sông Hương
nhưng người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya:

- Mỗi dòng sông là đại diện cho một nền văn minh, là nơi lưu giữ những ký ức tươi đẹp
cho vùng đất mà nó chảy qua. Sông Hương cũng vậy, nó là một dòng chảy của văn hóa,
của lịch sử anh hùng nơi xứ Huế có bề dày truyền thống từ bao đời. Sông Hương chính
là “người mẹ phù sa của quê hương, xứ sở” hình thành và nuôi dưỡng văn hóa, bản sắc
vùng miền, là chứng nhân văn hóa lịch sử.

Những bản ca Huế đưa người xem quay ngược dòng thời gian về với những cung đình,
những nét đẹp của một quá khứ vàng son đã khép lại, đó là thứ nhã nhạc cung đình cổ
kính, là ca Huế tinh tế nhưng gần gũi đã gắn mình với đời sông Hương.

- Dưới góc nhìn âm nhạc, nhà văn đã gọi Hương giang là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”, khiến cho dòng sông hiện lên mang vẻ đẹp đầy kiều diễm, kiêu sa với đôi bàn
tay nhẹ lướt trên những cung đàn. Với nghệ thuật so sánh, sông Hương chính là một
người con gái tài hoa đang gãy lên khúc nhạc riêng của đời mình - như điệu chảy chậm
rãi, lửng lơ, nhẹ nhàng, sâu lắng - điệu nhạc độc đáo riêng biệt của sông Hương.

Có phải chỉ trong đêm khuya tĩnh lặng, khi bao ồn ã, huyên náo và phồn hoa cũng theo
con người chìm vào giấc mộng, người ta mới có thể thấu trọn thanh âm tuyệt vời của
những bản nhạc Huế đã truyền lại từ đời này sang đời khác chăng, để rồi tác giả chẳng
ngần ngại bày tỏ: “Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc
trên sân khấu nhà hát.”

- Nhà văn mở rộng liên tưởng và khẳng định “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển đã được sinh
thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng
nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.

Sông Hương đã trở thành cái nôi sinh ra âm nhạc Huế, những giai điệu, tiết tấu, cung
bậc của dòng chảy sông Hương làm nên những sắc điệu riêng của âm nhạc cổ điển Huế.
Tiếng hát, tiếng đàn hòa đan với tiếng nước chảy trôi đã ghi sâu vào cõi lòng của mỗi
người con cố đô, trái tim người nghệ sĩ Hoàng Phủ cũng vì thế mà gửi trọn cho những
thanh âm mềm diu ấy, đi qua bao thế giới nồng say thi vị vẫn chỉ yêu quý và giữ trong
lòng tiếng đàn trên sông vào buổi đêm.

- Khi lặng say trong những xúc cảm khơi lên từ bản đàn sông nước ấy, văn nhân không
chỉ nhớ bóng dáng “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một
phiến trăng sầu” mà còn nhớ tới “những bản nhạc đã đi suốt đời Kiều” - bản nhạc sinh
thành từ chính dòng sông Hương bao năm gây thương nhớ này.

Câu chuyện về “người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe
con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”…
Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du và
thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường gợi nhắc dường như
đã một lần nữa khẳng định chắc chắn hơn về một quan hệ gắn bó sâu sắc giữa sông
Hương với nền âm nhạc cổ điển Huế. Dòng sông ấy đã khiến cho những bản nhạc Huế
trở nên tha thiết hơn bao giờ, còn âm nhạc Huế cuối cùng đã biến sông Hương trở thành
một sinh thể có linh hồn, hơi thở, cứ thế mặc nhiên đi vào trang văn của Hoàng Phủ mà
dấy lên trong ta bao niềm thương, nỗi nhớ về bóng dáng “người tài nữ đánh đàn đêm
khuya” với đôi tay nhẹ nhàng, uyển chuyển lướt trên những cung đàn.

GỢI Ý ĐÁNH GIÁ CHUNG HAI ĐOẠN TRÍCH “Từ đây, như đã tìm
đúng đường về…Tứ đại cảnh!”
Trong bài báo “Sông Hương qua bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, tác giả Trần
Thị Thanh Nga từng viết: “Tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở chỗ, nhà văn
đã truyền được cảm xúc của mình vào trong từng từ ngữ, từng hình ảnh, từng câu
văn để từ đó nối kết, lan tỏa cảm xúc tới người đọc. Sức sống của một tác phẩm văn
học, thực sự phải bắt nguồn từ cảm xúc và thăng hoa cùng tài năng nghệ thuật”.
Thật vậy, văn học vốn nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian, nhưng là khi nó
mang chứa bao tâm tư, tình cảm cùng sự hết mình vào từng con chữ của mỗi
người nghệ sĩ. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là nhà văn đã đưa những trang
ký của mình đi qua những mùa quên lãng như thế. Lặng mình qua từng trang văn
đẫm chất thơ, thắm chữ tình của ông, ta không chỉ thấy tình cảm sâu đậm nhà văn
dành cho Hương giang mà còn thấy được tài năng, phong cách viết độc đáo của
ông. Đó là sức liên tưởng phong phú, kỳ diệu, là sự kết hợp nhuần nhị giữa vốn tri
thức rộng lớn, đa dạng về lịch sử, địa lý, âm nhạc, kiến trúc cùng tâm hồn nghệ sĩ
tài hoa, bay bổng, luôn nặng lòng với dòng sông quê hương. Ngoài ra, nhà văn còn
cho thấy một hệ thống ngôn từ đa dạng, phong phú, lột tả được đủ đầy vẻ đẹp của
Hương giang, và vì thế mà khơi lên được bao xúc cảm, rung động trong lòng người
yêu văn ông. Các phép tu từ so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, nhịp điệu câu văn chậm rãi,
mềm mại tựa như dòng chảy uốn lượn của con sông cũng góp phần khiến cho
trang bút ký trở nên sống động, gần gũi hơn. Dưới ánh nhìn của Hoàng Phủ Ngọc
Tường sông Hương hiện lên như người con gái Huế đẹp dịu dàng, đằm thắm, can
đảm, khát khao đi tìm “người tình tương lai” đã ngóng trong bấy lâu, và dành
tặng cho thành phố mơ mộng ấy những bản nhạc sông nước đầy say đắm, thiết tha
để rồi lặng lẽ khắc tạc vào lòng ta những ấn tượng khó phai. Đằng sau vẻ đẹp ấy
của Hương giang còn là cái tôi yêu thiên nhiên, quê hương, nguyện một lòng gắn
bó sâu nặng với mảnh đất đã nuôi lớn bao ước mơ tuổi trẻ của chính mình nơi
Hoàng Phủ Ngọc Tường.

4. Vẻ đẹp của sông Hương khi rời xa thành phố Huế:

ĐOẠN “RỜI KHỎI KINH THÀNH…QUÊ HƯƠNG XỨ SỞ”:


Sông Hương được ví như nàng Kiều trong đêm tình tự:

- Sông Hương rời khỏi kinh thành, chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo cồn hến
quanh năm mơ màng trong sương khói, xa dần thành phố.
- Sông Hương luyến lưu, bịn rịn, tình yêu và nỗi nhớ trải dài không nở rời xa, nàng
“ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”,
cái vườn cau đã xuất hiện “mướt quá xanh như ngọc” trong thơ Hàn Mặc Tử, nay đã
làm sông Hương quyến luyến. Từng sắc màu của thiên nhiên như trôi êm trong dòng
bút ký lắng đọng tiếng lòng, màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau tựa
như cái màu xanh thanh tân trong trẻo của tuổi trẻ và tình yêu. Người ta hay ví tình
yêu là màu hồng say đắm và lãng mạn, dịu dàng và nên thơ, nhưng có lúc, tôi đã
nghĩ rằng, tình yêu là gam màu biếc xanh đã tượng trưng cho sắc lành của tuổi thanh
xuân nồng nhiệt nhất.
- Níu giữ Hương Giang và khiến nàng phải “đột ngột rẽ dòng” để gặp lại nhắn gửi
một lời tri âm chính là tình yêu một đời của nàng - xứ Huế, nàng đã gặp lại xứ Huế
ở Bao Vinh. Nàng Hương lúc này dù phải đi hành trình của mình nhưng người con
gái ấy đã chọn ngoảnh đầu nhìn lại một lần nữa để thề nguyền ước hẹn, để nói lời tri
âm: “Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường
đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái
của nó, khúc quanh này thực sự bất ngờ biết bao”. Là dòng sông đang thốt lên vì
ngỡ ngàng hay chính nhà văn đang cảm thán trước khúc quanh đặc biệt này mà
Hương giang phải đi qua? Một khúc quanh để nhà văn nhìn thấy được điểm “rất
giống con người ở đây” - con người xứ Huế luôn hướng về cố nhân, luôn trân trọng
ký ức xưa cũ và không bao giờ nỡ rời xa quê hương.
- Lời cảm tạ cho quê hương đất mẹ được gửi gắm một cách tinh tế trong từng cách
thể hiện của nhà văn, trong giây phút nhìn thấy khúc quanh đột ngột của nàng
Hương, người đọc cũng đồng thời nhớ về lòng thành của Hoàng Phủ dành cho nơi
nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn, nơi chứng kiến quá trình lớn lên trưởng thành của ông.
Huế không chỉ là một thành phố dưỡng nuôi tài hoa mê đắm của Hoàng Phủ, mà còn
là cái nôi của bao tài năng thi ca, nhạc họa, khiến nhà văn nhớ về câu chuyện nàng
Kiều đã yêu hết mình trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Không nguyện thề dưới
trăng như Kiều, nhưng mối tình giữa sông Hương và xứ Huế lại đậm sâu khó tả.
Không có vật định tình, nhưng tình lại sâu giữa dòng trôi. Đó như một “nỗi vương
vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” và đó cũng là tấm lòng của người
dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.
- Người ta vẫn yêu xứ Huế và cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại như cách sông
Hương thiết tha không nở xa rời. Người ta vẫn yêu chiếc áo dài, nón lá vành thơ như
cách sông Hương vẫn đắm say dịu dàng với văn hóa xứ sở tựa thuở ban đầu. Trong
từng cung bậc của bút ký, ta bắt gặp từng cung bậc của lòng mình. Trong từng cách
ví von của Hoàng Phủ, ta bắt gặp từng chút thương mến dòng Hương đang lớn dần
trong tâm trí. Lời thề “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…” của nàng
Hương cũng là lời thề tự của riêng nhà văn dành cho quê hương xứ sở. Chất tự sự và
lãng mạn của Hoàng Phủ trong bút ký mang theo sự kết hợp tinh tế giữa chất trí tuệ
và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều với nhiều kiến thức phong phú
về nhiều lĩnh vực. Chính những kết hợp hài hòa ấy đã giúp “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” trở thành một niềm vương vấn đẹp đẽ trong lòng người đọc, người
từng đến Huế sẽ càng mong quay lại, người chưa đến Huế sẽ càng thêm ngóng
trông một chuyến đi gặp nàng Hương và thành phố tình tự ấy.
ĐOẠN “HIỂN NHIÊN LÀ SÔNG HƯƠNG…KHUÔN MẶT THỰC
CỦA DÒNG SÔNG”.
*Sông Hương nhìn từ góc độ lịch sử dân tộc:
- Sông Hương đã sống qua những thời kỳ vinh quang gắn với trang sử hào
hùng của dân tộc:
+ Là dòng sông biên thùy thời các vua Hùng, là dòng Linh Giang chứng kiến những
cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân bảo vệ biên giới phía Nam qua nhiều thế kỷ
trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng áo vải Nguyễn
Huệ thế kỷ thứ XVIII, ghi dấu những trang sử bi tráng, đẫm máu thời chống Pháp,
chứng kiến cuộc tái sinh màu nhiệm và những chiến công hiển hách của dân tộc;
hòa mình với lịch sử bi tráng của các cuộc khởi nghĩa thế kỷ XIX, hay là chứng
nhân cho bão táp Cách mạng tháng Tám “bằng những chiến công rung chuyển”,
cuộc Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968. Tất cả đã thể hiện sự gắn bó sâu đậm của
dòng sông này với lịch sử của dân tộc, với mảnh đất hình chữ S thân thương đã nâng
đỡ, che chở người Việt tự bao đời.
 Sông Hương thật xứng đáng là bản anh hùng ca kỳ vĩ, vì tiềm tàng trong chiều sâu
lịch sử một sức mạnh quật cường của dân tộc.
+ Hào hùng, oanh liệt đấu tranh chống quân thù nhưng trong đời thường, sông
Hương lại rất đỗi bình dị. Cùng với người dân xứ Huế, khi Tổ Quốc lâm nguy,
sông Hương sẵn sàng hiến mình để lập nên những chiến công, rồi sau đó lặng lẽ
trở về với đời thường là một người con gái dịu dàng của đất nước:
+ Nhà văn đã quan sát, nhìn ngắm, yêu và hiểu sông Hương bằng tất cả trái tim mình,
để rồi chắc chắn “Sông Hương là vậy” một cách đầy trân trọng. Trong góc nhìn của
hoàng phủ, nàng Hương vừa là một người con gái kiên cường với bao chiến công hiển
hách, gắn mình với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; khi trở về cuộc sống đời
thường, nàng Hương càng giản đơn và dịu dàng như cách một cô gái Huế e lệ duyên
dáng trong tà áo dài mộng mơ trên đường phố cố đô. Hình ảnh dòng sông và văn hóa
Huế cứ quyện vào nhau mãnh liệt và đầy ắp, khiến người đọc như đắm chìm trong vẻ
đẹp tuyệt mỹ đó của Hương giang.
+ Sông Hương của hoàng phủ ngọc tường gắn bó với từng con người xứ huế, là dòng
sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa một cỏ lá xanh biếc. Sông Hương
không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một nhân
chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, điều làm
nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ: Khi nghe lời gọi, nó biết
cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời bình thường, là
một người con gái dịu dàng của đất nước.
+ Một lần nữa nhà văn lại nhắc về “Huế ngày xưa”, một Huế đã ghi dấu trong quãng
đời đặc biệt của ông, ông nhớ về một sắc áo cưới với màu áo điều lục bằng loại vải vân
thưa màu xanh chàm luồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện,
thấp thoáng theo bóng người. Đó cũng chính là “màu sương khói trên sông Hương,
giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên”. Bằng cách đưa người đọc khứ hồi về một
miền xưa cũ với nhiều khịa cạnh lịch sử, nhà văn đã thổi vào Huế, vào dòng sông
Hương một linh hồn với tầng tầng lớp lớp những sự kiện đan chéo nhau, tạo nên một vẻ
lẳng lặng u hoài của cố đô cho đến ngày nay.
 Quay về quá khứ xa xưa, ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một
dòng song có cái tên mềm mại, dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua thăng
trầm lịch sử. Nhìn ở lăng kính này, song Hương nhẹ nhàng như vẻ đẹp người con
gái xứ Huế hay e lệ, dịu dàng, nên thơ, đúng với tính cách của người con gái dành
trọn lòng mình cho quê hương xứ sở. Như vây, nhà văn đã khám phá song Hương
trên cả ba phương diện: dòng sông tự nhiên, dòng sông văn hóa, dòng sông lịch sử.
Ở phương diện nào, tác giả cũng nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa
song Hương với xứ Huế để từ đó khẳng định một cách chắc chắn: “Sông Hương là
dòng song thuộc về một thành phố duy nhất” – đó là thành phố Huế thương yêu.
ĐOẠN “CÓ MỘT DÒNG THI CA VỀ SÔNG HƯƠNG… AI ĐÃ ĐẶT
TÊN CHO DÒNG SÔNG?”.
- Sông Hương nhìn ở góc độ văn hóa thi ca: Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn,
sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất.
+ Sông Hương, dòng sông thi ca: Vẻ đẹp sông Hương ẩn trong chiều sâu linh hồn của
sông Hương, nó chứa đựng bản sắc đất đặc trưng vào thật phong phú của một nền văn
hóa cố đô, mà dòng chảy của nó khảm bao tinh hoa văn hóa dân tộc suốt tự ngàn đời.
Đó là một vẻ đẹp đắm say của lịch sử và văn hóa hòa trộn tinh tế. Có lẽ chính điều đó
đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
“Có lẽ đó là tất cả những gì tôi đã gắn bó với Huế sau hơn 40 năm nên tác phẩm chỉ
viết trong 10 ngày nhưng tôi đã nghĩ về nó bằng nửa cuộc đời của mình”
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Sông hương gắn với cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên
muôn màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả và mỗi nhà thơ đều có
một khám phá riêng về nó.
- Sông Hương còn gắn mình với văn học thi ca, với những nhà thơ luôn nhìn ngắm dòng
sông với nhiều khía cạnh đặc biệt, chính hoàng phủ ngọc tường cũng đã ngợi khen:
“dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Nó thay
màu xanh biếc thành “Dòng sông trắng - lá cây xanh” trong cái tinh tế của Tản Đà, “như
kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát (Ruộng lúa xanh rờn, núi bọc
quanh/ Hương Giang như kiếm dựng trời xanh/ Hò khoan đưa mái chèo ghe cá/ Cò vạc,
cỏ chân ngủ bãi doành); nó đi vào thơ Bà Huyện Thanh Quan, rồi thấm đẫm trong thơ
Tố Hữu một sức mạnh phục sinh của tâm hồn. Hay Hàn Mặc Tử từng cảm thán trong
“Đây thôn Vĩ Dạ”:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
[2] “Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
(Tiếng hát sông Hương, Tố Hữu)
- Ta như hiểu được vì sao nhà văn hoàng phủ ngọc tường lại chọn nhan đề hiện tại, bởi
“có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng song… hỏi với
trời, hỏi với đất, một câu thật bang khuâng:
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Câu hỏi ấy đã đi vào trang bút kí với những dư vị để lại lòng người không thể nào quên,
ta đã cùng nhà văn đi tìm câu trả lời, đi tìm sự lí giải bằng chính tình yêu song Hương
xứ Huế.
 Từ một dòng sông hoang dại, phóng khoáng, sông Hương đã trở nên dịu dàng, tài
hoa và đấy ys chí kiên cường. Có lẽ đối với hoàng phủ ngọc tường nói riêng, với
nhân dân Huế nói chung thì sông Hương chính là một biểu tượng đẹp đẽ nhất tạo
nên vẻ đẹp Huế suốt mấy nghìn năm lịch sử.
GỢI Ý ĐÁNH GIÁ CHUNG:
hoàng phủ ngọc tường từng bước khắc họa bức chân dung đa chiều của sông
Hương một cách sinh động, hấp dẫn, từ những góc độ khác nhau, sông Hương
mang những vẻ đẹp riêng có, độc đáo của mình, thể hiện từng vẻ đẹp ấy trên trang
bút kí đặc sắc của nhà văn. Bằng vốn hiểu biết vô cùng phong phú trong các lĩnh
vực địa lý, triết học, lịch sử,… cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ,
hành văn ngôn ngữ nhẹ nhàng, giàu sức biểu đạt, tác giả đã tô vẽ một sông Hương
khắc cốt ghi tâm trong lòng độc giả, khiến cho ai chưa đến thăm nơi này cũng phải
thốt lên trước vẻ đẹp của nó. Và ẩn đằng sau hình tượng sông Hương ấy, nhà văn
cũng bày tỏ cái tôi tác giả của mình; đó là một cái tôi mê đắm tài hoa cảnh sắc quê
hương đất nước, cái tôi uyên bác, giàu tri thức về lịch sử, văn hóa, địa lí…, cái tôi
yêu quê, gắn bó một lòng sâu nặng với xứ sở đã sinh ra và nuôi dưỡng mình – xứ
Huế mộng mơ.
Đặc sắc trong phong cách văn chương của hoàng phủ ngọc tường là sức liên tưởng
phong phú, kỳ diệu. Đó là sự kết hợp giữa vốn tri thức rộng lớn, đa dạng về lịch
sử, địa lý, âm nhạc, kiến trúc và một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa, bay bổng, một tình
yêu thương gắn bó thiết tha với dòng sông quê hương mình. Ngoài một hệ thống
ngôn từ đa dạng để biểu đạt vẻ đẹp của dòng sông và những xúc cảm trong lòng
người, hoàng phủ ngọc tường có sử dụng nhiều phép tu từ như: so sánh, nhân hoá,
ẩn dụ khiến những trang văn “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” tươi tắn và sống
động hơn. Đến với bút ký này, người đọc được hòa mình vào những câu văn trữ
tình “tuôn dài”, qua đó hình tượng nàng Hương hiện lên như người con gái can
đảm và dịu dàng, khao khát đi tìm tình yêu đích thực và dám vượt nghìn trùng để
hội ngộ người yêu. Người con gái ấy gái ấy cũng đầy ắp đằm thắm như Đà giang
trong tùy bút của Nguyễn Tuân nhưng cũng không kém phần tinh nghịch, phóng
khoáng, man dại của một nàng thơ giữa núi rừng, giữa xứ huế đã đi cùng bao
thăng trầm của lịch sử. Bằng tài năng và vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh
vực, hoàng phủ ngọc tường xứng đáng là một nhà bút ký đại tài khi viết về sông
Hương. Tã có thể khẳng định rằng dường như nàng Hương chỉ dành riêng cho
trang văn của ông, bởi từng câu chữ đều là tình yêu xứ sở đậm đà.

You might also like