You are on page 1of 14

1

8. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

“Nếu như chẳng có dòng Hương


MỞ BÀI Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi”
(Huy Tập)
Sông Hương bao đời nay vẫn là biểu tượng của cố đô, như
một nhân chứng lịch sử cùng Huế đi qua bao thăng trầm và trở
thành nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao hồn thơ sĩ lãng mạn.
Với tình yêu vô bờ dành cho dòng sông quê mẹ, cùng vốn kiến
thức lịch sử, địa lý, nghệ thuật,… sâu rộng kết hợp với lối nghị
luận sắc bén, suy tư đa chiều, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên
một sông Hương rất riêng, rất Huế trong lòng người đọc. “Ai đã
đặt tên cho dòng sông?” của ông cùng với “Sông Đà” của Nguyễn
Tuân là những thiên bút xuất sắc viết về những dòng sông đẹp
của đất nước.
Bài kí bộc lộ tình yêu, niềm tự hào tha thiết sâu lắng của tác
giả dành cho dòng sông Hương, xứ Huế và cho quê hương đất
nước.
(Vấn đề nghị luận + trích dẫn)

Trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà là một sinh thể có hình
thể, với những nét tính cách đối nghịch nhau, vừa hung bạo vừa trữ
tình. Đó là dòng sông của miền Tây Bắc xa xôi. Còn Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã nhìn sông Hương bằng cái nhìn tổng hợp nhiều
chiều để sông Hương trở thành biểu tượng của xứ Huế. Sông
Hương trước hết là vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế nhưng đằng sau vẻ
đẹp ấy thấp thoáng gương mặt quê hương. Dòng sông luôn ẩn
chứa trong mình những đường nét, sắc màu, tính cách, tâm hồn
THÂN BÀI
Huế và đã gắn bó sâu sắc với chặng đường lịch sử của đất nước.
Vì thế, sông Hương trở thành đối tượng trữ tình của bao áng thi
ca – dòng sông của thơ ca.
CÁC LUẬN ĐIỂM 2

1. Vẻ đẹp sông Hương trong mối quan hệ với cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế
a. Vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn
Trong cảm nhận tài hoa của tác giả, đời sông tựa đời người. Sông Hương ở vùng
thượng nguồn mang vẻ đẹp của sức sống hoang dại, mãnh liệt đầy nữ tính.

Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hư-
ơng là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản
trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy
như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một
nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho
nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu
trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của
mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh
thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với
cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà
dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những
hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
- Ngược dòng Hương Giang cùng tác giả lên tận thượng nguồn của dòng sông ấy, ta sẽ ngạc
nhiên thú vị trước những nét tính cách phong phú đến mức khó hiểu của dòng sông. Sông Hương
vừa có sức sống mãnh liệt hoang dại đầy cá tính nhưng cũng rất đỗi dịu dàng mơ mộng làm say lòng
người.
- Để gợi tả sự mãnh liệt hoang dã của sông Hương, tác giả đã sử dụng kiến thức địa lí, âm
nhạc để miêu tả và bằng những hình ảnh so sánh đặc sắc. Sông Hương như một “bản trường ca của
rừng già”. Đó là bài ca bất tận của núi rừng với nhiều tiết tấu, nhiều cung bậc hùng tráng, dữ dội, âm
vang muôn thuở, khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” của dãy Trường Sơn hùng vĩ, khi “mãnh liệt
vượt qua những thác ghềnh”, lúc “cuộn xoáy vào những vực sâu bí ẩn”. Bằng ngôn ngữ tạo hình, biểu
cảm, sử dụng những động từ có tính đặc tả, tác giả đã miêu tả sự dữ dội, hùng vĩ của sông Hương
vùng thượng nguồn đa dạng phong phú nhiều cung bậc, đa thanh điệu.
- Thế nhưng sông Hương cũng rất dịu dàng, tình tứ và thơ mộng làm say đắm lòng người
với “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Màu xanh của đại ngàn bất tận và dòng
nước bạc của Hương Giang làm nổi bật màu đỏ chói lọi của đỗ quyên rừng. Bằng nghệ thuật pha
màu, thiên nhiên hiện lên thật sinh động tươi thắm, một bông hoa có thể chưa thể hiện hết nét đẹp
rạng rỡ nhưng những dặm dài hoa đỏ chói lọi như khiến cho sông Hương trở nên nữ tính, dịu dàng
hơn, như thêu dệt thêm nét xuân sắc kiều diễm trên màu áo bạc ấy.
- Giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ, sông Hương hiện lên như “một cô gái Di gan phóng khoáng
và man dại” với tâm hồn tự do trong sáng, bản lĩnh và gan dạ. Qua hình ảnh so sánh độc đáo, nhân
hóa, sông Hương vừa có vẻ đẹp huyền bí, dữ dội, vừa tự do, trong sáng - một vẻ đẹp đầy tính bản
năng, vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên hoang dã.
- “Trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” sở hữu vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ,
trưởng thành, mang cốt cách văn hóa, chiều sâu của trí tuệ là văn hóa. “ người mẹ phù sa” → Hình
ảnh ví von đặc sắc, khiến sông Hương hiện lên như một sinh thể có hồn cốt, làm nổi bật được những
nét đối cực trong tính cách của sông Hương, gia tăng chất trữ tình, chất thơ cho lời văn tùy bút.
3

Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách
đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần
tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa
khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.

- Về mặt địa lí, dưới góc nhìn khoa học, rừng già đã giảm bớt lưu tốc của dòng sông. Nhưng
dưới lăng kính người nghệ sĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhắc nhở người đọc rằng “nếu chỉ mải mê
ngắm khuôn mặt kinh thành của dòng sông, ta sẽ không hiểu hết được bản chất của cuộc hành trình gian
truân mà nó đã vượt qua”, vì dòng sông không muốn bộc lộ tâm sự của mình nên đã “ ném chiếc chìa
khóa của cuộc đời mình trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”, như sự kín đáo của con người
Huế, men theo đồi núi trập trùng của dãy Trường Sơn hùng vĩ để bước vào vùng ngoại ô, vào vùng
cửa ngõ của cố đô Huế.

 Tiểu kết:
Qua cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
sông Hương vừa dữ dội vừa mang sắc đẹp dịu dàng
trí tuệ. Nhà văn thật tài hoa khi sử dụng những hình
ảnh so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ
cùng ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm. Những hình
thức đó đã lột tả đầy đủ vẻ đẹp độc đáo của sông
Hương. Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, những
suy nghĩ ấy hiện lên khiến cho những trang văn
miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường trở nên cuốn
hút, hấp dẫn, lay động và thấm thía tâm hồn người
đọc.
4
b. Vẻ đẹp sông Hương ở ngoại ô thành phố :

Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã
chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật
mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông
Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua
thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy
chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn,
vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cánh, Tam Thai, Lựu
Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi
ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên
nền trời tây nam của thành phố, "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" như người Huế thường miêu tả. Giữa
đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chú được phong kín trong lòng những rừng
thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu "Bốn
bề núi phủ mây phong - Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên". Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất chả sông
Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà...

- Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua cuộc
hành trình gian truân đầy thử thách.
- Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại mộng mơ như một tình yêu nhuốm màu cổ tích, dòng
chảy nhẹ nhàng của Sông Hương được so sánh như một cô gái đẹp ngủ mơ màng được đánh thức.
- Sau khi ra khỏi vùng rừng núi, sông Hương như bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khát khao của tuổi
thanh xuân trong sự chuyển dòng liên tục, uốn những đường cong thật mềm yểu điệu và tình tứ, phô
những đường cong tuyệt mĩ của người con gái đất nước và xuôi dần về Huế.
+ Sông Hương lúc thì trôi theo hướng Nam Bắc từ ngã ba điện Hòn Chén.
+ Ở vấp Ngọc Trản, sông Hương chuyển sang hướng Tây Bắc, vòng lên bãi Nguyệt Biều, Lương
Quán rồi đột ngột vẽ một vòng cung thật tròn về phía Đông Bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần
về Huế, không chỉ có những đường cong mà còn lượn sóng, như tấm lụa vắt lên giữa các dãy đồi núi →
mềm mại, mỏng manh, gợi cảm, tạo hiện tượng phản quang nhiều màu sắc.
→ Dòng chảy sông Hương qua các địa danh như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” → không muốn bỏ
lỡ một địa danh nào trên con đường đến với người tình của nó, được tác giả miêu tả một cách cụ thể,
chính xác thể hiện vốn kiến thức địa lí sâu rộng của nhà văn, người đọc ngỡ rằng Hoàng Phủ Ngọc
Tường với con thuyền nhỏ bồng bềnh trong điệu Nam Ai Nam Bình xuôi dòng trên Hương Giang thơ
mộng đã nhiều năm. Tác giả yêu dòng sông quê mẹ với hình dáng mềm mại và những đường nét uốn
lượn dịu dàng của nó.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường nói về sắc nước của dòng sông cũng thật độc đáo “sớm xanh, trưa vàng
chiều tím” rồi“sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn” với những âm hưởng mạnh mẽ, những
ngọn đồi núi đã tạo nên nhiều màu sắc trên trên nền trời Tây Nam thành phố khiến nước sông Hương
đổi sắc màu. Đó là sự phối cảnh kì thú của thiên nhiên: sông Hương chảy qua địa danh nào cũng mang
phong thái của địa danh đó.
5

- “Giữa đám quân sơn lô xô là nơi yên nghỉ ngàn đời của các vị vua triều Nguyễn, giữa những rừng
thông u tịch, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, như cổ thi”. Tác giả nhắc lại một vần
thơ cổ đắc địa gợi lên không khí, khung cảnh u tịch, trầm mặc của những rừng thông, thành quách,
lăng tẩm. Ai đã từng một lần ghé thăm Khiêm lăng mới cảm nhận được vẻ đẹp của sông Hương.
“ Bốn bề núi như mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”
→ Từ ngã ba Tuần xuôi dần về Huế, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính của kinh thành
ôm lấy những rừng thông u tịch, những lăng tẩm rêu phong uốn lượn những đường cong thật mềm.
Sông Hương “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ với tiếng chuông âm vang tận bờ bên kia những xóm làng trung du
bát ngát tiếng gà”, với những hình ảnh so sánh, nhân hóa đặc sắc, kết hợp với kiến thức địa lý, văn hóa,
tác giả đã miêu tả vẻ đẹp quyến rũ của sông Hương trong sự phối cảnh kì thú với thiên nhiên xứ Huế.
6

c. Vẻ đẹp sông Hương ở trung tâm thành phố:

Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc
của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó,
nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như
những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ
sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra
của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương
nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị
cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương
tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm
xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê
xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn
đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã
trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn
sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa
xuân; mỗi phiến băng chờ một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với những hành
khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ
trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn
tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu
thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ
hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có
một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc
ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quí điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố.
Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh
hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập
ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

- Từ ngã ba Tuần, sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc và cổ kính của đất kinh thành. Về Huế sông
Hương uốn lượn nhẹ nhàng ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về cố đô.
- Sông Hương đã tìm đến đúng người tình của nó, đúng với thành phố thân yêu của nó nên tâm
trạng của nó thay đổi từ tĩnh lặng, trầm lắng sang vui tươi hẳn lên và vô cùng yên tâm, tự nhiên chảy
theo hướng Tây Nam – Đông Bắc “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng
ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc”. Có lẽ đoạn sông
Hương từ ngoại ô Kim Long đến Cồn Hến là đoạn bút kí đặc sắc nhất của tác giả khi miêu tả vẻ đẹp
của sông Hương.
- Bằng sự cảm nhận vô cùng tinh tế và sự nhạy cảm, tài hoa của mình trước những chuyển biến
cũng như vẻ đẹp đặc biệt của sông Hương tác giả đã viết nên những trang văn đầy cảm xúc và thể hiện
tình yêu say đắm mãnh liệt với dòng sông quê hương.
+ “Nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như
những vành trăng non”: hình ảnh so sánh mới lạ, độc đáo “những vành trăng non” nhỏ nhắn, xinh xắn
như những nhịp cầu in trên nền trời thành phố cùng sự liên tưởng phong phú của mình nhà văn đã
khắc họa vẻ đẹp đặc trưng của cây cầu.
7

+ Trong cái nhìn của tác giả màu xanh lam, trong xanh của bầu trời càng làm nổi bật lên màu trắng
của chiếc cầu Tràng Tiền. Vẻ đẹp độc đáo và quyến rũ làm say đắm lòng người trong sự phối hợp kì
diệu giữa dòng sông và cầu Tràng Tiền – biểu tượng cố đô khiến người đọc liên tưởng đến tình yêu
vừa mới chớm nở.
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ”
(Nguyễn Bính)
+ Sông Hương “giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến
Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”:
một khúc quanh ngoạn mục tạo nên “đường cong ấy”, làm cho sông Hương trở nên duyên dáng, yêu
kiều như người con gái xứ Huế.
- Nhà văn so sánh ngang hàng dòng sông quê hương với hai dòng sông đẹp trên thế giới là sông
Xen và sông Đa-nuýp để thể hiện lòng tự hào của mình. Vẻ đẹp sông Hương tượng trưng cho vẻ đẹp
thiên nhiên đất nước, vẻ đẹp được vẽ nên bởi một người con xứ Huế.
+ Sông Hương là con sông dành riêng cho Huế “sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý
của mình”, thể hiện tấm lòng chung thủy của nó với Huế. Nó giữ cho Huế trong tổng thể vẫn nguyên
dạng là một đô thị cổ trải dài hai bờ sông “Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc
hai bờ sông”, đây là điểm đặc biệt của thành phố Huế so với các thành phố khác có sông chảy vào địa
phận.
+ Sông Hương mang một vẻ đẹp khoan thai, cổ kính. Chính vẻ đẹp ấy vô cùng hòa hợp với sự trầm
mặc và tĩnh lặng của xứ Huế, giúp Huế có được vẻ đẹp mà không một thành phố hiện đại nào có thể
có được. Sông Hương giữ cho vẻ đẹp ấy tồn tại ngay cả trong cuộc sống hiện đại và tô điểm thêm cho
vẻ đẹp cố đô, cho hồn cốt dân tộc “Những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị,
với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn
lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố
hiện đại nào còn nhìn thấy được.”
- Những chi lưu cùng hai hòn đảo nhỏ đã giúp cho lưu tốc dòng sông giảm hẳn khiến sông Hương
khi đi qua thành phố chỉ như một mặt nước tĩnh lặng, lặng lờ trôi để có thể hòa vào cuộc sống thanh
thoát, trầm mặc, cổ kính, thơ mộng của cố đô. Thiên nhiên đã ban tặng cho xứ Huế dòng sông mang
linh hồn, cốt cách của họ. Đó là vẻ đẹp vô cùng trang nhã khoan thai của xứ Huế. “Những chi lưu ấy,
cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua
thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.”
8
- Tác giả một lần nữa so sánh sông Hương với sông Nêva và càng thêm yêu quý con sông quê
hương. Tác giả bày tỏ sự ngợi ca trước vẻ đẹp sông Nêva “có lúc đứng nhìn sông Nêva cuốn trôi những
đám băng lô xô,nhấp nháy trăm màu trước ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con
hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc
hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra
bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh
thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi tôi muốn hóa làm một con chim nhỏ đứng co một
chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay” nhưng bên cạnh đó là sự nuối tiếc bởi lưu
tốc sông chảy quá nhanh nên không gợi nhớ cũng không để lại trong lòng ta một cảm xúc sâu lắng
gì“nhưng sông Nêva đã chảy nhanh quá” “Hai nghìn năm trước, có một người Hy Lạp tên là Hê-ra-clít, đã
khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy!”. Khi đó chỉ có cảm xúc, tình cảm nhớ
nhung và yêu quý da diết mà tác giả dành cho con sông quê hương đó là sự yêu thương gắn bó và niềm
tự hào “tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành
phố”. Điệu chảy chậm rãi ấy trong thơ của Hàn Mặc Tử như nhuốm màu tâm trạng của con người và
cảnh vật.

“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”


(Đây thôn Vĩ Dạ)
- Nhà văn cảm nhận vẻ đẹp dòng sông từ góc độ âm nhạc “đây là điệu slow tình cảm dành riêng
cho Huế”, đó là một bản tình ca sâu lắng, ngọt ngào, da diết, đong đầy cảm xúc. Đó là vẻ đẹp thơ
mộng, lộng lẫy của dòng sông những đêm rằm “trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm
hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về”. Mặt sông như trở nên huyền ảo, lung linh hơn vào ban
đêm như tác giả của Đây thôn Vĩ Dạ đã từng miêu tả dòng sông ấy như một “dòng sông trăng”. Sông
Hương là dòng sông có những tâm trạng cảm xúc như một người con gái dòng nước không trôi quá
nhanh cũng không đứng yên mà chỉ lững lờ, nhẹ nhàng như vừa muốn đi vừa muốn ở, lưu luyến không
rời “ qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương
của một nỗi lòng”.
→ Tất cả đều ánh lên một vẻ đẹp thật thơ, thật mộng của dòng sông Hương là bài thơ trữ tình
muôn thuở của cố đô.
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
(Thu Bồn)
- Trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đẹp nhất vào lúc đêm khuya.
“Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này” và chỉ khi
nghe nhã nhạc trên sông Hương vào ban đêm mới tận hưởng được cái hay của nó. Như vậy, sông
Hương là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và âm nhạc. Dòng sông ấy là nơi hội tụ, kết tinh nền văn
hóa dân gian của cố đô.

TIỂU KẾT
Nhà văn đã gieo chữ lên những trang tùy bút thành những trang hoa rực rỡ mà trong đó
mỗi hình ảnh nhân hóa, so sánh liên tưởng về dòng sông tựa như hoa trái ngọt thơm thể hiện
tầm cao trí tuệ, tài năng nghệ thuật của tác giả: Ông đã dành cho sông Hương tình yêu mến
thiết tha bởi vẻ đẹp của sông Hương cũng chính là vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ, vẻ đẹp của
non sông đất nước Việt Nam.
9

d. Sông Hương rời thành phố :

Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ
màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc của
những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi
dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối
với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn
đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái
gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương
vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này,
sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non,
còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò
dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

- Trước khi rời thành phố, sông Hương thay đổi “hướng đi” chếch về hướng chính bắc ôm lấy
Cồn Hến “lưu luyến ra đi giữa những vườn tre trúc xanh biếc và những vườn cau vùng nông thôn Vĩ
Dạ” rồi xa dần thành phố xuôi về biển: không chỉ tả hành trình của sông Hương mà đang muốn diễn
tả tâm trạng của một người con gái với bao nhiêu nỗi lòng vấn vương lưu luyến không muốn rời
xa.
- Phải xa “người tình yêu dấu” của mình, sông Hương đi trong sự lưu luyến vấn vương và như
“sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẻ ngoặc sang hướng đông tây để gặp lại
thành phố lần cuối cùng ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ” → Khúc quanh bất ngờ (không giống với tự
nhiên mà giống con người)
- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví khúc quanh ấy của sông Hương như “nỗi vương vấn, một chút
lẳng lơ kín đáo của tình yêu và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”. Sông Hương đã “chí tình trở
lại tìm Kim Trọng của nó để nói một lời thề trước khi về biển cả”
- Lời thề chung thuỷ: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ,…” → Trong cảm nhận của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, mỗi một giọng hò dân gian vang vọng khắp lưu vực sông Hương vừa là lời
lề chung thuỷ thiết tha của sông Hương đối với Huế vừa là tấm lòng của người dân Châu Hoá đối với
quê hương xứ sở, đối với đất nước của mình. Sau đó tình yêu riêng của sông Hương đối với Huế đã
trở thành tình yêu chung của nhân dân Châu Hoá đối với đất nước, vì vậy tình cảm đó trỏ nên vừa lớn
lao cao cả, vừa sâu sắc thấm thía.
→ Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hoá và sự tưởng tượng phong phú, tác giả đã khiến sông Hương
hiện lên sinh động như có linh hồn, cảm xúc và tâm trạng rất đỗi lưu luyến khi đành phải rời xa đất
kinh kì: Sông Hương trở thành một người tình chung thuỷ và say đắm.
→ Văn phong tao nhã, tinh tế và tài hoa. Ngôn từ phong phú gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc
điệu. Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá, so sánh…được sử dụng một cách có hiệu quả.
→ Tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng của tác giả dành cho sông Hương, cho xứ Huế và
cũng cho đất nước bốn nghìn năm văn hiến.
10

NHẬN XÉT
NỘI DUNG

+ Đoạn văn miêu tả sông Hương theo thủy trình của nó, với vẻ uyển
chuyển linh hoạt của dòng chảy, vẻ biến hóa của màu sắc, vẻ uy nghi trầm
mặc của cảnh quan đôi bờ.
+ Toát lên tình yêu xứ sở sâu nặng, đằm thắm, một cảm nhận bình dị
mà tinh tế của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

NGHỆ THUẬT

+ Hình ảnh chân thực mà gợi cảm, câu văn kéo dài mà khúc chiết, thanh
điệu hài hòa, tiết tấu nhịp nhàng.
+ Lối so sánh gần gũi và xác thực, sử dụng nhuần nhuyễn các địa danh
và cách nói của người Huế.
11

2. Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với lịch sử dân tộc :


- Sông Hương không chỉ là công trình mĩ thuật tuyệt vời tạo hóa ban
cho thiên nhiên xứ Huế mà vẻ đẹp của dòng sông còn gắn liền với lịch sử vẻ
vang của dân tộc anh hùng thuở Hùng Vương dựng nước đến thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở
nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn
Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam
của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú
xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của
những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những
chiến công rung chuyển. Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã
nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những
di sản văn hoá của nó. “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hoá, học thuật và về chính quyền
rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố
Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin,... Một số trong các di sản đó đã bị phá huỷ lúc Thành Nội Huế bị ném bom.
Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ. Sự phá
huỷ những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu âu khi
một số công trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đó là
sự đánh giá đầy phẫn nộ của chính người Mĩ, Ra-pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man U-phốp và nhóm giáo sư
Đại học Coóc-nen, trong một tác phẩm khoa học đầy mùi thuốc nổ và hoá chất độc mang tên Cuộc chiến
tranh không quân ở Đông Dương.
Tháng trước, tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành uỷ Huế chào mừng đoàn đại biểu
của Hội nghị tổng kết chiến tranh, tại thành phố. Thay mặt Quân uỷ Trung ương, đồng chí Đại tướng
phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống
hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”... Đồng chí nói, đau cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ
kính cẩn của người già mắt ngấn lệ; và người nghe, tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của một lời
thề.
Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.
Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình
thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày
nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu
xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng
người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên
sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng
sông...
12

- Thuở xa xưa, sông Hương là dòng sông trấn giữ biên thùy xa xôi của đất nước các vua
Hùng.
- Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, dòng sông mang tên “Linh Giang”- dòng sông linh
thiêng mang linh hồn xứ sở. Thời Đại Việt, sông Hương là điểm tựa nơi bảo vệ biên cương của
nước nhà.
- Thế kỷ XVIII nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ,
chứng kiến cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và công cuộc đánh thù trong giặc ngoài thống nhất đất nước
của Quang Trung.
- Nó đọng lại đến bầm gan tím máu khi sống hết trang lịch sử đau thương, tủi nhục mà vĩ
đại của dân tộc thế lỷ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa.
- Sông Hương đi vào thời đại cách mạng tháng Tám với những chiến công rung chuyển và
dòng sông ấy cũng đã từng chứng kiến cuộc tiến công vào mùa xuân 1968.
→ Như vậy sông Hương là chứng nhân lịch sử chứng kiến những trang sử hào hùng
chống ngoại xâm của dân tộc và góp sức cùng với con người lập nên những chiến công
hiển hách. Sông Hương đã đẹp lại càng đẹp hơn khi gắn liền với lịch sử oai hùng của dân
tộc. “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc.” Sông Hương như một bản anh hùng ca của lịch sử dội vang, và còn là một bản
tình ca tươi mát “màu cỏ lá xanh biếc” của thiên nhiên đất nước.
13

3. Vẻ đẹp sông Hương trong mối quan hệ với âm nhạc và thơ ca:
:
Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi
nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ
đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “Dòng
sông trắng - lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên
hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn
cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục
sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều,
trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc
lá xuống chân cầu hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng:
- Ai đã đặt tên cho dòng sông?

- Nhìn sông Hương từ góc độ âm nhạc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhận ra vẻ đẹp hết sức độc
đáo và gợi cảm của nhân vật.
+ Sông Hương có khi là điệu slow tình cảm dành cho Huế nhẹ nhàng, êm ái, du dương, trữ tình.
+ Sông Hương có lúc giống như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya và toàn bộ nền âm nhạc cổ
điển Huế đã sinh thành trên mặt nước của dòng sông ấy.
- Nhìn sông Hương từ góc độ thơ ca, tác giả nhận ra có một dòng thơ ca về sông Hương và
dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm nhận của các nghệ sĩ.
+ “Dòng sông trắng”, “lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà.
+ Có khi sông Hương trở nên hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá
Quát.
+ Có lúc nó chứa “nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng” trong hồn thơ của Bà huyện
Thanh Quan.
+ Có khi đột ngột khởi thành sức mạnh phục sinh và rất Kiều trong hồn thơ Tố Hữu.
→ Sông Hương hiện lên với vẻ đẹp độc đáo qua sự am hiểu sâu sắc về kiến thức văn học
nghệ thuật của tác giả. Nhà văn đã phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với bản sắc
văn hóa của xứ Huế. Sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho những sáng tạo nghệ thuật
của người nghệ sĩ.
14

 ĐÁNH GIÁ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT


TÓM LẠI

- Bài kí ngợi ca dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế
đẹp thơ mộng hữu tình, ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa
và tâm hồn người Huế.
 NỘI DUNG - Tác giả coi sông Hương là biểu tượng cho tất cả những gì là vẻ đẹp
của cảnh và người đất cố đô này.
- Bài kí chứng tỏ sự gắn bó máu thịt, tình yêu thiết tha với Huế và một
vốn hiểu biết sâu sắc về nền văn hóa đất cố đô của tác giả HPNT

- Sức liên tưởng kì diệu, vốn hiểu biết kiến thức sâu rộng về địa
lí, lịch sử, văn hóa, âm nhạc, nghệ thuật, thơ ca… của tác giả.
- Ngôn từ trong sáng, phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ;
câu văn giàu nhạc điệu.
 NGHỆ THUẬT - Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, văn phong tao nhã,
tinh tế và tài hoa.

- Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là một “thi sĩ của


thiên nhiên” (Lê Thị Hướng).
- Với những trang viết tài hoa súc tích, tác giả đã làm giàu
đẹp thêm cho bức tranh thiên nhiên xứ sở. Sông Hương đã thực
sự trở thành gấm vóc của giang sơn Tổ Quốc. Sức hấp dẫn của
thiên tùy bút là ở sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc trữ tình và
KẾT BÀI vốn hiểu biết phong phú cùng văn phong tao nhã, hướng nội
tinh tế tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Bài bút kí góp phần hình thành trong mỗi chúng ta tình yêu
quê hương đất nước và ý thức sâu sắc hơn trách nhiệm của bản
thân trong việc góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước

You might also like