You are on page 1of 33

Ai đã đặt tên cho dòng

sông ?
Hoàng Phủ Ngọc Tường
“Một lần anh đến Huế thơ
Gặp cô gái đẹp say mơ giấc nồng
Sông Hương quyến rũ lạ lùng
Em choàng tỉnh giấc ngượng ngùng nhìn tôi.”
(Sông Hương-Vũ Dung)
Mảnh đất của những lăng tẩm, những đền đài, miếu của cố đô trầm
mặc đã bao lần đi vào thơ ca, âm nhạc, hội họa và để lại biết bao mê
đắm trong lòng người của bao thế hệ. Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường
cũng đã phải lòng sông Hương, phải lòng với xứ Huế ngay trong cuộc
gặp gỡ định mệnh đầu tiên để rồi gắn bó với mảnh đất này bằng tất cả
tình yêu sâu nặng. Trước những rung động mãnh liệt của một mối tình
say đắm, HPNT đã dành riêng cho sông Hương một bài kí trang trọng.
Đồng thời cũng là một hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi đầy
khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Tác phẩm được viết bằng
tài năng thiên bẩm cùng nỗi niềm say đắm với dòng sông quê hương
qua đó bộc lộ cái tôi tài hoa, uyên bác và đa tình của tác giả.

I, Tìm hiểu chung


1, Tác giả
-HPNT là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Là người tri thức yêu nước luôn tích cực tham gia vào các phong trào
đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ, đặc biệt là ở miền Nam trước
thời kỳ 1975.
-Sinh ra ở mảnh đất cố đô, HPNT sống, học tập và hoạt động cách
mạng ở Huế. Cuộc đời ông gắn liền với Huế nên tình cảm và tâm hồn
ông thấm đẫm nền văn hóa của mảnh đất này.
-Tác giả chuyên viết về bút ký và tản văn. Nét đặc trưng trong sáng
tác của HPNT là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ
tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn
kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý. Tất cả đã
được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài
hoa.
-Tác giả đã dành cả cuộc đời gắn bó với Huế bằng tất cả niềm vui, nỗi
buồn trong cuộc sống thế nên những sáng tác của ông gắn liền với
tình yêu quê hương đặc biệt là văn hóa Huế để rồi “hoài thai” nên
“đứa con tinh thần” độc đáo qua những trang viết hay nhất về dòng
sông mang một huyền thoại đẹp ấy là Hương giang. Đúng như nhận
định: “Phải là sự tương giao đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra
được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như
thế” (Phạm Xuân Nguyên)
2, Tác phẩm
-Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết vào tháng 1 năm
1981 và được in trong tập ký cùng tên mang đậm chất sử thi. Qua đó
bộc lộ sự gắn bó với quê hương, đất nước, đó là mảnh đất kinh thành
Huế.
-Bài ký gồm 3 phần, đoạn trích thuộc phần đầu của tác phẩm. Với bút
ký này, tác giả đã mang đến cho người đọc những cảm nhận về sông
Hương-linh hồn của văn hóa và con người cố đô. Qua đó nhà văn
Nguyên Ngọc đã đúng khi nhận xét rằng: “HPNT là một trong những
nhà văn viết ký hay nhất trong văn học ta hiện nay” và Nguyễn Tuân
cũng đã từng chia sẻ “Ký của HPNT có rất nhiều ánh lửa”
-Cần phải khẳng định đây là một thể loại khó sáng tác và kén độc giả,
đòi hỏi người viết phải có kiến thức uyên thâm, tài năng co duỗi câu
văn một cách nhịp nhàng uyển chuyển bởi “ký là sự hợp nhất giữa tìm
tòi và nghiên cứu. Nếu truyện có nhân vật, hình ảnh, có hồn và cốt
truyện sinh động thì ký lại thể hiện tư duy chủ yếu cung cấp những dữ
liệu, những tri thức nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của người đọc”
(M. Gorky). Để rồi sẽ không quá lời nếu ta cho rằng “Ai đã đặt tên
cho dòng sông?” là áng văn tiêu biểu chinh phục được đỉnh cao của
thể ký này.

II, Tìm hiểu văn bản


-HPNT là một nhà văn có phong cách hành văn độc đáo với hệ thống
ngôn từ trang trọng, đậm chất trữ tình của một cái tôi uyên bác, tài
hoa. Trong tác phẩm của mình, nhà văn đã thể hiện tình yêu thiên
nhiên, tinh thần dân tộc và truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời. Nhà
văn đã dày công tim tòi, nghiên cứu và tích lũy cả một đời để viết nên
tác phẩm xinh đẹp ấy. Tất cả những phẩm chất này đã đc thể hiện rất
rõ qua việc tái hiện lại vẻ đẹp sông Hương như một nhân vật trữ tình
với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách diệu kỳ trong
không gian và thời gian qua những lời văn giàu trí tuệ kết hợp giữa tự
sự và trữ tình cùng ngòi bút tài hoa đầy mê đắm
1, Sông Hương dưới góc nhìn địa lý
-Đi theo những dòng sông Việt từ Bắc vào Nam, có lẽ dòng sông làm
cho người đọc nao lòng và tìm thấy sự thanh bình đẹp đẽ đến kỳ lạ,
mê hoặc những ai chưa bao giờ đặt chân đến đó là sông Hương trong
bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của HPNT. Và dĩ nhiên trên
bước đường dạo chơi của mình, nhà văn đã rất nhiều lần chiêm
ngưỡng vẻ đẹp khác nhau của dòng sông.
-Với dòng sông Cửu Long phóng khoáng, nhà văn tìm thấy dòng sông
không chỉ dân dã, nồng hậu mà còn có cả những khoảng lòng. Với
con sông Bến Hải, nhà văn đã cảm nhận được nỗi đau và lòng căm
thù của bà mẹ chèo đò đã đưa bộ đội qua sông cho đến khi không còn
sức để chèo được nữa. Với con sông Hồng, nhà văn lại hoài niệm về
nỗi nhớ phù sa của đời người. Thế nhưng trong vô vàn những dòng
sông để thương để nhớ của HPNT , khi mà lòng đam mê chưa bao giờ
nguội tắt của một con người hào hoa dành cả đời văn của mình cho
dòng sông Hương xứ Huế, vì vậy tác phẩm trở thành thiên bút ký viết
hay nhất về con sông Hương-một dòng sông như “hoài niệm về cái
đẹp” không chỉ ở cảnh sắc thiên nhiên mà còn là quá khứ đời thường,
văn hóa xứ sở và âm hưởng thi ca.
a, Sông Hương khúc thượng nguồn
-Là một thực thể của thiên nhiên, sông Hương trước hết được hiện lên
trong vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên. Nhà văn đã có những khám
phá thú vị rất riêng. Để làm được điều đó, tác giả phải dựa vào sự trải
nghiệm gần như chính cuộc đời gắn bó với kinh thành Huế, đồng thời
quan sát tìm tòi nghiền ngẫm qua bản đồ hay trực tiếp qua những
chuyến viễn du. Có như thế tác giả mới cảm và hiểu được bản chất
của dòng sông không phải bắt đầu từ bộ mặt ở kinh thành của nó mà
phải ngược lên Trường Sơn, nơi đó sông Hương được thể hiện phong
kín nơi rừng già.
-Để khám phá vẻ đẹp của công trình nghệ thuật tạo hóa ban tặng cho
xứ Huế, ta như có một cuộc thám hiểm thực sự “nở hoa trên trang
giấy”. Xuôi theo hành trình đó, sông Hương là khúc cội nguồn, là
điểm dừng chân đầy huyền bí.
-Bài ký được mở đầu bằng một câu văn mang đậm tính chủ quan của
tác giả: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe
nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy
nhất”.
-> Tác giả đã mặc nhiên đặt dòng sông Hương ngang hàng với vác
dòng sông đẹp trên thế giới. Phải chăng nhà văn muốn thể hiện niềm
tự hào sâu sắc của mình trước sự độc đáo của dòng sông ấy?
-Nhà văn đã khao khát được ngược về không gian để tìm về cội nguồn
của những cánh rừng đại ngàn mà khám phá những vẻ đẹp bí ẩn,
những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín “Phần tâm hồn sâu thẳm”
của dòng sông khúc thượng nguồn. Để rồi nhà văn nhận ra “Trước khi
về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng
già”
=> Bản trường ca ấy cũng có những âm vực đối nghịch vừa trầm, vừa
bổng, vừa mãnh liệt, vừa dịu dàng, vừa rầm rộ, vừa say đắm. Đúng
như tác giả miêu tả “Rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực
biển, và cũng có lúc trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài
chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
->Chỉ một câu văn dài với nhiều dấu ngắt, kết hợp với nghệ thuật so
sánh tinh tế “là bản trường ca” gợi sự lớn lao, kì vĩ, tráng lệ. Đồng
thời hàng loạt những động từ mạnh, tính từ manh sắc thái đậm sâu
“rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”,.. Hơn thế
nữa tác giả còn huy động các thanh điệu bằng trắc một cách cân đối,
hài hòa làm cho câu văn vừa dịu êm, vừa ồn ào, vừa lặng lẽ. Đây
chính là sắc thái đối nghịch của sông Hương khúc thượng nguồn với
bao mê đắm và thi vị.
-Không dừng lại ở đó, nhà văn còn thể hiện trọn vẹn bản ngã hoang
dại, mãnh liệt, cá tính của Hương giang qua những câu văn tiếp theo.
Là người con gái yêu dấu của bà mẹ rừng già và ông bố Trường Sơn,
được kết tinh từ tình yêu lớn lao, muôn thuở, sông Hương đã mang
một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhà văn đã
miêu tả: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc
đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng
già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ , một tâm hồn tự do và
trong sáng . Nhưng cũng chính bà mẹ rừng già với cấu trúc đặc biệt
có thể lý giải về mặt khoa học, người mẹ đã chế ngự sức mạnh bản
năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, song Hương
nhanh chóng mang 1 vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ
phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”

 TK: Có thể nói nghệ thuật so sánh độc đáo mới lạ của HPNT đã
thổi hồn cho người con gái sông Hương bởi lẽ nhà văn đã mặc
lấy cuộc đời của sông Hương ở nửa đoạn đời đầu như “một cô
gái Di gan phóng khoáng và man dại”
-Cũng qua nghệ thuật nhân hóa và so sánh này, sông Hương trở
thành một cô gái bản lĩnh, gan dạ cùng tâm hồn tự do và trong
sáng. Không phải ngẫu nhiên tác giả lựa chọn cô gái Di gan để ví
với dòng sông. Bởi lẽ “cô gái Di gan” gợi đến tính cách tự do,
phóng khoáng của những cô gái bộ tộc Bô-hê-miên xinh đẹp, bí ẩn
với làn da nâu rám nắng cùng đôi mắt xanh thẳm như thảo nguyên
yêu thích nhảy múa hát ca với cuộc đời du mục không gò bó không
khuôn khổ, sống hết mình với bản năng và đam mê.
-Ở đây, điều đẹp đẽ đó đã gắn với dòng chảy Hương giang để rồi
nhanh chóng mang một sắc đẹp “dịu dàng và trí tuệ” dưới sự chế
ngự sức mạnh bản năng bởi bàn tay của người mẹ rừng già. Có thể
nói tác giả muốn thể hiện cuộc tìm kiếm một người tình trong
mộng của người con gái sông Hương là không hề dễ dàng. Có thể
trên hành trình ấy, đôi bàn chân phải bôn ba khắp nẻo đường. Điều
đó càng cho thấy Hương giang trong cuộc hành trình tìm kiếm
người yêu đích thực cũng khó khăn, gian nan, vất vả bộn bề.
-Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm “khuôn mặt kinh thành của nó”, làm
sao ta có thể hiểu được hết cuộc hành trình gian truân mà sông
Hương đã vượt qua, không thể hiểu được “phần tâm hồn sâu thẳm”
của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại
ở cửa rừng và “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi
Kim Phụng”.
->Nhờ người mẹ rừng già, người con gái sông Hương đã tiết chế
được sức mạnh bản năng để mang một vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ-
đó là sự dịu dàng như một bến đỗ bình yên sau những thác ghềnh
sóng gió, sau những trải nghiệm gian truân của cuộc đời . Và người
con gái ấy tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc
đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với cánh rừng đại ngàn.
-Với những sức sống và tính cách mãnh liệt của Hương giang đã
bộc lộ được những cảm nhận, suy nghĩ có bề sâu trí tuệ của nhà
văn. Nếu tư duy nghiên cứu giúp cung cấp những tư liệu, dữ kiện
về dòng sông thì tư duy nghệ thuật lại giúp nhà văn làm cho tư duy
nghiên cứu kia trở nên mềm mại hơn. Ta tự hỏi vì sao sông Hương
lại thay đổi sắc thái nhanh đến vậy. Phải chăng nó biết khi nào cần
sống đúng với bản năng của mình, khi nào dâng hiến những điều
tinh túy nhất cho thành phố Huế yêu thương. Như vậy, là một nhà
văn nặng lòng với Huế như HPNT đã thể hiện từng ngóc ngách của
dòng sông. Ông không muốn người đọc hay bất cứ ai tò mò về
sông Hương mà nhìn nó ở một góc độ nên ông đã trực tiếp đưa
quan điểm của mình vào để thức tỉnh người đọc.
-Bằng hệ thống ngôn từ “lóng lánh bụi vàng”, nhà văn đã làm rõ
bản sắc của sông Hương. Đó không phải chỉ là một dòng chảy tự
nhiên hình thành từ cấu trúc địa hình mà còn là dòng sông được ví
như một cô gái với vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm. Tác giả đã có cách
sáng tạo hình ảnh rất riêng vừa so sánh, ẩn dụ lại vừa tạo ra những
liên tưởng bất ngờ kết hợp với những đường nét, màu sắc, âm
thanh độc đáo để từ đó ta thấu hiểu thêm ý nghĩa của văn chương.
Văn học nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng
tạo. Và HPNT đã làm được điều đó
b, Sông Hương ở ngoại vi thành phố (ngoại ô, đồng bằng)
-Paustovsky từng nói: “Nhà văn chân chính là người dẫn đường
đến xứ sở của cái đẹp.” Và HPNT không chỉ hấp dẫn ta bằng hình
ảnh sông Hương ở thượng nguồn với những vẻ đẹp hoang dại đầy
cá tính mà còn miêu tả hình ảnh con sông với một cuộc hành trình
đầy khó khăn, thử thách trước khi trở thành người tình chung thủy
dịu dàng của cố đô. Có thể nói sông Hương chưa bao giờ dịu dàng
đến thế! Tác giả đã khéo léo gợi nhắc những thời gian dài đằng
đẵng từ quá khứ đến hiện tại “phải nhiều thế kỷ qua đi”, từ đó mở
ra một khoảng không gian mơ màng yên ắng lạ kỳ. Người đọc
nhắm mắt mường tượng nên hình ảnh một dòng sông như đang kéo
lê dòng chảy của mình qua nhiều thế kỷ. Để rồi nó trở nên nhẹ
nhàng sâu lắng.
-Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa tài tình từ đó thổi hồn
cho sông Hương “như người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hóa đầy hoa dại” đang chờ đợi, mong mỏi người tình
đến đánh thức bằng một nụ hôn say đắm của tình yêu. Lưu luyến
quá, dịu dàng quá! Câu văn làm ta nhớ đến lời tự tình của HPNT
dành cho cô gái sông Hương: “Tôi sẽ tìm em giữa mịt mù vô tận dù
một ngày còn đập cánh tàn hoa”
-Khơi sâu vào mạch nguồn cảm xúc, nương theo nhịp chảy của
dòng nước, nhà văn đã ghi lại thủy trình của Hương giang khi nó
bắt đầu về xuôi như “một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp
thành phố tương lai của nó”
-Sau khi bừng tỉnh với một giấc ngủ dài đắm say trong câu truyện
tình lãng mạn nhuốm màu cổ tích của mình, sông Hương đã bừng
tỉnh-một sự bừng tỉnh như được thổi vào trong đó một mảnh tình
riêng, một tâm hồn đặc biệt sâu sắc. Nó mang một vóc dáng mới,
một sức sống mới đầy khát khao, lãng mạn, thần kỳ: “Ngay từ vừa
ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục,
vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong
thật mềm”.
->Rõ ràng sông Hương đã rất vật vã, khó khăn qua thủy trình khắc
nghiệt của nó. Thế nhưng càng khó khăn lại càng hiểu được bản
lĩnh của sông Hương cũng như khao khát tận độ của nó khi hướng
về người tình đích thực của mình
-Tiếp đến, một loạt những câu văn mang sắc thái gợi hình đã giúp
tác giả vẽ ra hành trình sống động của dòng sông: “Từ ngã ba
Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén, vấp
Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi
Nguyệt Biều, Lương Quán đi rồi đột ngột vẽ một hình cung thật
tròn về phía Đông Bắc ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế.”
-Bằng nghệ thuật liệt kê, tg đã vẽ ra dòng chảy sông Hương có lúc
nhẹ nhàng mềm mại, có lúc chuyển hướng đột ngột, từ đó thể hiện
sự sinh động, có hồn của sông Hương
-Chưa hết “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của
Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản
sắc nước trở nên xanh thẳm , và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi
sừng sững như thành quách với những điểm cao đột ngột như Vọng
Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó người ta luôn nhìn thấy dòng
sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé
bằng con thoi.” Và chính điều này đã “tạo nên những mảng phản
quan nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả.
-Nếu Nguyễn Tuân có một Đà giang với màu sắc biến ảo theo mùa
là mùa xuân với dòng nước màu xanh ngọc bích cùng mùa thu với
cái màu đỏ lừ lừ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa thì ở
đây Hương giang đã mặc lấy cảnh đẹp của đôi bờ để trở thành một
đóa hoa phù dung mĩ miều biết làm mới mình bằng cách khoác
những tấm áo mới trong một ngày với sắc xanh, vàng, tím.
-Rõ ràng khi ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, cô gái Hương
giang như bừng tỉnh sức xuân để rồi trẻ trung mãnh liệt với tình
yêu và niềm khao khát tuổi trẻ. Cũng chính bởi tình yêu mãnh liệt
mà nó đã có những chuyển biến liên tục với những thay đổi bất
ngờ. Nó không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, cứ mải miết dòng chảy
của mình như lao vào một cuộc tìm kiếm.
-Đâu chỉ chảy qua những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo
những đường cong thật mềm mà ở đó các động từ “vòng”, “uốn
mình”, khiến sông Hương trở nên duyên dáng, tình tứ; sông Hương
còn rạng rỡ hơn rất nhiều bởi nó biết kết hợp giữa dòng chảy và
màu sắc để luôn luôn làm mới mình. Ta cảm thấy như những trang
văn cũng đang rung rinh theo những con chữ, run rẩy theo từng
nhịp điệu và dường như những con chữ ấy đang xô đẩy nhau trên
trang giấy mà thành.
-Bên cạnh một sắc nước sông Hương biến ảo là vẻ đẹp cổ kính
trầm mặc. Trong cuộc hành trình tìm kiếm người yêu đích thực, nó
phải chuyển dòng một cách liên tục và sự mềm mại của nó đã ôm
ấp nâng niu vóc dáng của biết bao vẻ đẹp xứ Huế. Nói như câu ca
dao:
“Đất Thừa Thiên trai hiền gái lịch
Non xanh nước biếc, điện Ngọc, đền Rồng
Tháp Bảy Tầng, thánh Miếu, chùa Ông
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa
Cầu Trường Tiền mười hai nhịp bắc qua
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khách câu ca thái bình”
-Trong dòng chảy ấy, con sông góp nhặt cảnh đẹp của đôi bờ, để
rồi đứng trên đỉnh cao người ta luôn nhìn thấy những chiếc thuyền
xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Hình ảnh bóng dáng của
những con đò ấy đã lưu lại dấu ấn trong thi ca như một hình ảnh
nét đẹp văn hóa Huế. Chính nhà thơ Tố Hữu cũng đã lưu lại những
câu thơ nhẹ nhàng mà trong trẻo:
“Trên dòng Hương giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo trên dòng Hương giang”
-HPNT đã vẽ nên một bức tranh nghệ thuật ngược sáng của điện
ảnh thể hiện vẻ đẹp của dòng sông in bóng những ngọn đồi tạo nên
sự phản quang kì lạ khiến sông Hương rực rỡ, yểu điệu, kiêu sa
làm duyên làm dáng trước khi về với người tình đích thực. Càng đi
sâu nó càng gom góp vào mình một vẻ đẹp thâm trầm, cổ điển như
triết lý, như cổ thi từ “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa
được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu
hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ lan tỏa khắp cả một vùng
thượng lưu”, đúng như ca dao Huế có câu:

“Bốn về núi phủ mây phong


Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”
-Hơn thế nữa, sông Hương còn mặc lấy cho mình một vẻ đẹp vừa
hư vừa thực, vừa gần, vừa xa khi nó chảy qua giữa hai dòng âm
thanh của “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”
và “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”
+Âm thanh của tiếng chuông chùa Thiên Mụ là âm thanh của đạo,
nó gợi đến một vẻ đẹp siêu thực, thấm đẫm vẻ huyền bí an yên.
Trong khi đó, âm thanh của tiếng gà lại gợi về một cuộc sống trần
thế và rất đời thường như thi sĩ Xuân Quỳnh từng có lần chắp bút:
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục, cục tác, cục tác
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đã mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
(Tiếng gà trưa)
->Vì thế sông Hương bỗng như bừng tỉnh và tươi tắn lên chính nó hư
ảo tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa với tiếng thơ tiếng đời ấm áp
bởi tiếng gà bát ngát bên xóm làng trung du nơi thôn dã đã khiến sông
Hương chảy trôi đi giữa Đạo và đời như thực như mơ
=> TK: Sông Hương ở ngoại vi thành phố chính là sự “….bóng kì
diệu”. Vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên thơ mộng xứ Huế từ đó tạo
nên bức tranh tuyệt đẹp mà chỉ Huế mới có một. Thiên nhiên ấy chính
là nguồn phù sa và để bù đắp vẻ đẹp nên thơ cho người con gái dịu
dàng sông Hương xứ Huế
c, Sông Hương trong thành phố Huế
Trong tình yêu có một câu danh ngôn rất nổi tiếng: “Trong tình yêu
đích thực người ta vừa được dâng tặng, vừa đc khám phá và hoàn
thiện chính mình”, thì ở đây sông Hương và Huế cũng đc xem là 1
mối tình như vậy
-Có ai đã từng đi qua nửa hành trình trong cuộc đời đi tìm ng tình
trong mộng với bao gian nan vất vả để rồi giờ đây khi gặp đc chủ
nhân của lòng mình lại kh quấn quít, hòa quyện vào nhau cho thỏa nỗi
lòng? Chính niềm vui tươi của một người con gái trong tình yêu bên
cạnh người yêu đích thực cũng chính là khoảng tg đẹp nhất đời ng,
nhất là khi kinh thành Huế chính là “ng tình mong đợi” của ng con gái
sông Hương.-
-Nhà văn đã hòa nhịp cùng trái tim của người con gái ấy khi đã tìm
đúng được đường về. Giờ đây sông Hương “vui tươi hẳn lên” giữa
những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long. Tiếp đến nó
“kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc, ở đó,
nơi cuối đường nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần
trên nền trời nhỏ nhắn như những vành trăng non”
=> Ở đây có 1 sự tương đồng giữa tác giả và sông Hương, bởi cuộc
đời ông dù đi xa đến mấy, phiêu bạt đến mấy, chiêm nghiệm hết bao
nhiêu dòng sông nhưng sông Hương trong lòng tác giả vẫn mãi là
chốn riêng tư để thương để nhớ, đúng như đã có lần chính nhà văn
chia sẻ: “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông
để thương để nhớ như cuộc đời có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một
cuộc tình để mang theo”. Sông Hương cũng thế, không cần phải phân
trí lo âu, do dự, cân nhắc, tính toán thiệt hơn; nó đã kéo một nét thẳng
thực yên tâm về đến thành phố. Cách dùng từ đậm chất Huế “thực yên
tâm” đã cho thấy sự mạnh mẽ, táo bạo, mãnh liệt của người con gái
đang trên đường đến với tình yêu. Điều này bỗng làm ta nhớ đến bước
chân “xăm xăm” ngày ấy của nằng Kiều trong khuya vắng đêm
trường để tìm đến tình yêu tự do của đời mình: “Xăm xăm băng lối
vườn khuya một mình
-Hơn thế nữa, khi giáp mặt thành phố ở cồn Dã Viên “sông Hương
uốn 1 cánh cung rất nhẹ sang đến cồn hến; đường cong ấy làm cho
dòng sông mềm hẳn đi như 1 tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”
-> Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tinh tế, tài tình, HPNT tiếp tục
thổi hồn cho sông Hương nét dịu dàng, nhẹ nhàng, e ấp đồng thời
mang thêm chút ngậm ngùi của người con gái khi nhận lời yêu. Tiếng
“vâng” này thể hiện sự xác lập khẳng định một tình yêu mạnh mẽ , táo
bạo , quyết liệt, lộ thiên qua ngôn từ chứ không thể kiềm nén được
trong lòng nữa. Cũng tiếng “vâng” này làm ta nhớ đến cái nũng nịu
như chấp nhận , thuận tình của người con gái đang yêu trong thơ XQ;
“Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
-Chính ngòi bút của nhà văn đã thực sự biến sông Hương trở thành
người tình duyên dáng, mạnh mẽ nhưng cũng kh kém phần kín đáo và
tình tứ bởi đó là tiếng “vâng” nhưng lại kh nói ra của tình yêu. Quả
đúng là tình yêu có những lý lẽ riêng thuộc về con tim, dẫu là một
dòng sông cá tính thì trong tình yêu nó cũng có thể bỗng chốc được
cảm hóa để rồi mang vẻ đẹp ý nhị rất riêng.
=> Câu văn miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về đến Huế nghe thật
nhẹ nhàng, lãng mạn. Những đường nét mềm mại đầy mê đắm đã
khiến cho tất cả những ai khi đoc bút ký này cũng đều cảm thấy ngỡ
ngàng và say đắm để rồi muốn mình được một lần đắm say trong
tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu theo 1 cách kỳ diệu của sông
Hương như thế.
-Càng yêu, con người ta lại càng khát khao hòa quyện vào nhau.
Phàm trong cuộc đời ai mà chẳng khát khao mình được hạnh phúc và
nắm giữ được hạnh phúc ấy trong vòng tay mình thật lâu. Theo đó
Hương giang cũng đã hạnh phúc đến tận cùng, đến tận độ khi về đến
với người tình đích thực sinh ra là để dành cho mình. Vậy nên trong
lòng thành phố , dòng chảy của nó miên man cứ chao đi chao lại
không buồn trôi để được ở bên người tình thật lâu hơn. Cũng chính
trong giây phút đồng điệu, đồng cảm cùng Huế, cả hai đã hòa vào làm
một để rồi sông Hương trở nên thơ mộng, trữ tình, quyến rũ hơn bao
giờ hết. Đồng thời Huế cũng góp phần làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu
lắng cho người con gái sông Hương.
-Đến đây sông Hương đã mang nước đi khắp thành phố yêu quý
của mình “đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang
nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị”. Từ đó tạo nên những miệt
vườn xanh mướt đã có lần hiện lên trong thi ca của Hàn Mặc Tử:
“ Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ Điền”
-Ở đây sông Hương cũng thay đổi tốc độ dòng chảy và chỉ còn là
một mặt hồ yên tĩnh. Tác giả đã viết một câu văn thể hiện sự yên
tĩnh đầy tinh tế ấy. Đó là dòng nước khi qua thành phố đã “trôi đi
chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh”
=>Điệp từ “chậm” đã nhấn mạnh dòng chảy kh buồn trôi kết hợp
với hình ảnh “mặt hồ yên tĩnh”, đồng thời cách nói không xác định
“cơ hồ” đã thể hiện 1 dòng nước như thể không chuyển động vì
quá lưu luyến, muốn ôm ấp, quấn quít, gắn bó với người tình là
kinh thành Huế. Ta hiểu rõ sông Hương như muốn lưu lại cuộc đời
mình mãi mãi với nơi chốn này, đúng như những câu thơ của Thu
Bồn đã nói hộ nỗi lòng sông Hương:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
-Chưa hết, khi sông Hương trôi chảy trong thành phố, nó còn mang
đến vẻ đẹp bởi “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm
xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy vẫn lập lòe
trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn vô tê
xưa cũ”
-> Với mạch văn này, tác giả đã đưa người đọc trở về với hình ảnh
của cây đa, những ánh lửa huyền thoại hay chính những sắc màu
mơ màng sương khói của bờ bến.
-Bên cạnh đó tác giả còn dẫn dắt người đọc trôi vào 1 miền quá
khứ xa xăm theo dòng chảy của thời gian, làm ta nhớ đến những
câu thơ Đường của Trương Kế trong bài thơ “Phong Kiều dạ bạc”:
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên”

“Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ”
-Tiếp đến, trầm tư và thơ mộng là vậy, song qua bàn tay của người
nghệ sĩ tài hoa HPNT đã gợi nên dòng sông với những nét quyến
rũ sắc màu của hàng tre, hàng cau, bóng trúc đặc biệt là chiếc cầu
Tràng Tiền được so sánh tinh tế như “những vàng trăng non” đang
in ngần trên nền trời. Chính cách so sánh này đã kh chỉ gợi nên
dáng hình mà còn gợi ra 1 trí tưởng tượng của người đọc. Ánh sáng
trong ngần của cây cầu bắc ngang đôi bờ sông Hương đầy trữ tình
lãng mạn, để rồi vẻ đẹp này cũng đã có lần đi vào thơ ca của thi sĩ
Nguyễn Bính:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ”
-Bên cạnh đó, tác giả còn viết 1 câu văn với nhịp điệu chậm rãi,
nhẹ nhàng như dòng nước lững lờ trôi mà như kh trôi “những chi
lưu ấy cùng với 2 hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc
của dòng nước, khiến sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi
chậm, thực chậm”
=> Nếu NT có 1 dòng sông lặng tờ hoang dại khi ngồi trên thuyền
quan sát bến bãi Đà giang và nhận ra “cảnh ven sông ở đây lặng tờ,
hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng chỉ lặng
tờ đến thế mà thôi. Để rồi dòng chảy của Đà giang dường như kh
trôi, rồi tình cảm cứ ngưng đọng mãi, chất chứa mãi trong thuyền;
giờ đây vì quá yêu mến khát khao, quyến luyến được gần gũi với
kinh thành Huế nên Hương giang đã trôi đi chậm, thực chậm, điều
này đã góp phần thể hiện cái thành thực, chân thành của ng con gái
sông Hương đầy thủy chung son sắt muốn ở lại lâu hơn với người
tình sinh ra chỉ để dành cho mình. Chính nét văn hóa Huế đã thấm
nhuần trong tâm hồn nhà văn để rồi trào lên đầu ngọn bút và nở
hoa trên trang giấy. Dòng chảy Hương giang từ đó không còn vô tri
vô giác mà trờ thành 1 sinh thể có hồn, có cảm xúc, có nỗi nhớ, có
tâm tư . bởi thế lỡ có xa cách thì sẽ như lời thơ đầy tiếng hát tâm
tình:
“Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em
Sông lượn khúc, lượn dòng mà tới bể”
-Tiếp đến sông Hương còn có điểm chảy slow. Từ sông Hương
xinh đẹp, nhà văn đã liên tưởng đến nhiều con sông trên thế giới.
Tác giả đã đến với Lê-nin-grat có lúc đứng nhìn sông nê va uốn
quanh những dòng sông lô xô nhấp nháy trăng màu dưới ánh sáng
của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch
ngợm đứng co lên 1 chân thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của
chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí
hon của nó băng băng lướt qua trc cung điện …cũ để ra biển ban
tích. Nhà văn vừa từ trong khói lửa miền nam và lâu năm xa Huế,
vậy nên chính Lê-nin-grat đã đánh thức trong tâm hồn nhà văn giấc
mơ lộng lẫy của quá khứ. Khi ấy nhà văn muốn hóa làm một con
chim nhỏ đứng co chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Cảm
giác hạnh phúc cuống quít vỗ tay nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh
quá không kịp cho lũ hải âu nói 1 điều gì với người bạn của chúng
đang ngẩn ngơ trông theo.
-Tiếp đến nhà văn mượng tượng đến 2000 năm trc có 1 ng Hi Lạp
tên là Hê-ra-clet đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi nhanh.
Những dòng sông ấy cũng có điểm tương đồng với Hương giang là
chảy giữa lòng thành phố nhưng nhà văn nhận ra Hương giang độc
đáo hơn bởi nó vẫn giữ được nét cổ kính. Và nếu sông Nê va chảy
nhanh quá thì sông Hương lại rất chậm với điệu chảy lặng lờ khi đi
ngang qua thành phố. Nhà văn gọi đó là “điệu slow tình cảm dành
riêng cho Huế, có thể cảm nhận bằng thị giác qua trăm nghìn ánh
hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng 7 từ điện Hòn
Chén trôi về qua huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao
nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng
=>Với 1 câu văn dài phần nhiều là thanh bằng kết hợp với nghệ
thuật nhân hóa, so sánh tài tình, HPNT đã thổi hồn cho sông
Hương trở thành ng con gái chung thủy tuyệt đối yêu say đắm thiết
tha đến tột độ bên ng tình yêu dấu của mình. Rõ ràng tình cảm của
dòng sông dành cho thành phố Huế vô cùng sâu nặng. Sông Hương
cứ dùng dằng kh muốn trôi đi về phía biển. Cũng chính từ nét đẹp
này đã trở thành cội nguồn cảm hứng của những dòng thơ tuyệt
đẹp
“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ
Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
Gió cầu vương áo nàng Tôn Nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”
(Trong đôi mắt Huế-Đông Hồ)
-Bằng cái nhìn tinh tế, nhà văn đã nhìn thấy mối quan hệ biện
chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế.
Sông Hương dịu dàng duyên dáng như góp phần hình thành thêm
nét tính cách thùy mị của người con gái cố đô, để rồi người Huế
với nét đẹp văn hóa đặc biệt từ giọng nói, dáng đi, điệu bộ và cả cái
nét trầm tư đã nuôi dưỡng biết bao cảm xúc, thôi thúc con người
muốn được đến Huế dẫu chỉ đôi lần:
“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳn nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”
(Huế, tình yêu của tôi-Trương Tuyết Mai)
-Không chỉ dừng lại ở góc nhìn của tình yêu mãnh liệt ở người con
gái hết lòng vì người mình yêu, cũng không chỉ dừng lại ở nét đẹp
văn hóa, hội họa với những đường nét màu sắc hình khối khi s. H
đến với thành phố Huế; mà còn thật tuyệt vời biết bao khi nhà văn
còn cảm nhận vẻ đẹp của nó dưới góc nhìn âm nhạc
-Tác giả đã viết một câu văn tài tình “hình như trong khoảng khắc
chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành 1 người tài
nữ đánh đàn lúc đêm khuya”
-> Câu văn nhân cách hóa liên tưởng độc đáo sáng tạo và rất mực
tài hoa biết bao. Bởi sông Hương hiện lên như một người nghệ sĩ
với bản đàn sông nước. Nàng đẹp yêu kiều, diễm lệ; kiêu sa mà
đằm thắm dịu dàng. Người tài nữ ấy đã đánh thức Huế bởi những
bản đàn, đánh thức đêm kinh thành bằng lời ca và tiếng hát.
-Chính không gian sông nước ấy là nơi khơi nguồn cảm hứng để
“toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế” đc sinh thành trên mặt nước
của dòng sông này”. Từ đó nhà văn liên tưởng tới việc nghe ca Huế
giữa ban ngày hay trên sân khấu nhà hát sẽ thật thất vọng vô cùng
bởi muốn hiểu đc nhạc Huế, ca Huế thì phải nghe chính nó trên
chính dòng sông đã sinh ra nó. Trong sự so sánh ấy, nhà văn đã
tiếp tục đưa ta vào đêm Huế để lắng đọng cùng với âm nhạc của xứ
sở này. Với vốn am hiểu sâu sắc về âm nhạc cổ điển Huế, tác giả
đã có một cảm nhận hết sức tinh tế: “Trong một khoang thuyền nào
đó, giữa tiếng nước rơi bán âm từ những mái chèo khuya”. Đó là
câu văn viết theo lối liên tưởng với cảm nhận âm nhạc. Phải là
người có độ thẩm âm cao mới phát hiện ra và có sự so sánh độc
đáo đến vậy. Bởi “tiếng nước rơi bán âm” là tiếng nước rơi trong
trẻo gợi hình dung về một đêm khuya thanh vắng trên dòng sông
Hương. Nơi đây giữa bốn bề kinh thành trầm mặc, nền âm nhạc đã
ra đời . Và cũng chính trong không gian lắng đọng này mà nghe ca
Huế trên sông thì thật không còn gì bằng. Có lẽ chính vì vậy mà du
khách thập phương đến với Huế chẳng thể nào cưỡng được lòng
mình để rồi theo chân những ca công lên những con thuyền rồng để
nghe nhã nhạc cung đình Huế.
-Trong sự liên tưởng phong phú, ngòi bút của HPNT có phần
phóng khoáng khi tiếp tục liên tưởng đến Nguyễn Du “đã bao năm
lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu. Và từ đó
những bản đàn đã đi suốt cuộc đời Kiều”
-> Vậy là sông Hương không chỉ là người tài nữ, sông Hương còn
là nàng Kiều, hay sông Hương cũng chính là dòng sông đã khơi
nguồn để đại thi hào Nguyễn Du hoàn thành kiệt tác quốc hồn quốc
túy của dân tộc VN đó là Truyện Kiều. Cái tôi tài hoa và phóng
khoáng ấy của HPNT còn phát hiện ra một nghệ nhân già sau nửa
thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang
Kiều của cụ Nguyễn Du:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
 Khúc âm trong trẻo như tiếng hạc bay qua, lúc lại đục như tiếng
suối mới sa nửa vời để rồi gợi nhớ đến “Tứ đại cảnh”-một bản
nhạc cổ Huế tương truyền do vua Tự Đức sáng tác. Ngày nay
nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESSCO công nhận là văn
hóa phi vật thể. Đó là niềm tự hào của người Huế và cũng là
niềm tự hào của cả dân tộc. Có ai ngờ được rằng, nền âm nhạc
ấy đã được sông Hương khơi nguồn và vun đắp. Tiếp đến nó đã
chắp cánh cho biết bao tiếng hát ân tình vang vọng, đó có thể là
khúc nam ai nam bình:
“Chiều chiều trước bên Vân Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”
-Cũng từ cái nhìn về âm nhạc, nhà văn nhận ra sự thú vị trong
vẻ đẹp âm nhạc đã lan tỏa đến người dân xứ Huế trong không
gian sông nước, nói như những vần thơ:
“Bây chừ gõ chén sông Hương
Lăng canh phách nhịp bốn phương cung đình
Một suông trăng ở Hoàng Thành
Một trăng suông nhạc chòng chành dưới sông”
(Đêm sông Hương-Thạch Quỳ)
-Chất nhạc của dòng sông còn được thể hiện qua cảm nhận qua
giai điệu du dương trong những đêm dạo thuyền trên sông trong
bài Thu Chí:
“Hương giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu”
(Nguyễn Du)
-Và rồi còn gợi đến người nghệ nhân già chợt nhổm dậy vỗ đùi
chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên “đó là “Tứ đại cảnh””
=>TK: Trầm tư và thơ mộng là vậy, quyến rũ với những đường
nét màu sắc hài hòa cũng là vậy! Ở đây cuộc gặp gỡ giữa Huế
và sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ để rồi
sông Hương không chỉ là một sinh thể sống động mà còn là một
thế giới biết nói, có linh hồn, có tâm tư như một cô gái si tình
đang chìm đắm trong tình yêu
-Phải là người yêu quê Hương, yêu dòng sông Hương đến
nhường nào thì tác giả mới viết nên được áng văn lay động lòng
người đến vậy. Đó là tình cảm dành cho sông Hương, cũng là
tình cảm dành cho mảnh đất cố đô này. Đúng như nhà văn
Nguyễn Minh Châu từng nhận định: “Trong đời sống văn học,
nhiều nhà văn có tài, người thì đóng góp 1 cách viết, người thì
đóng góp vào một cách sử dụng ngôn từ. Nhưng trên tất cả anh
phải cho người đọc thấy được cái riêng của anh” theo đó bài ký
của HPNT đã hút hồn độc giả bởi chính nghệ thuật độc đáo.
Biện pháp so sánh, nhân hóa , ẩn dụ được tác giả sử dụng triệt
để mang tinh thần về một sông Hương thơ mộng, trữ tình, kiều
diễm. Đồng thời qua đó khẳng định vốn hiểu biết phong phú
cùng cảm nhận tài hoa của tác giả. Cũng từ đây Huế đã đi vào
lòng người đẹp đến vậy. Đúng như những vần thơ:
“Yêu thương Huế cơn mưa dầm rét đậm
Để bốn mùa hoa trái kết thành thơ
Huế đẹp mãi với người đi kẻ đến
Chung thủy, chân tình, ấp ủ trong mơ”
(Về Huế-Phạm Bá Nhơn)

d, Sông Hương khi rời xa thành phố


-Hội ngộ rồi chia ly, cuộc đời vẫn thế! Cuộc vui nào rồi cũng
phải tàn. Làm sao thắng được thời gian. Bởi vậy đã đến lúc sông
Hương phải rời xa thành phố yêu thương của mình, vì thế nó đã
rời khỏi kinh thành Huế một cách day dứt, quyết luyến, bịn rịn,
thiết tha. Đây cũng là đoạn văn tuyệt bút của HPNT . Trước năm
1975, có lần nhà văn đứng nhìn sông Hương trên cầu Trường
Tiền và nhận ra “mặt sông Hương bằng phẳng, tỏa rộng ra và
trôi vào bóng tối, có đôi chỗ phập phồng trong làn gió nhẹ như
một tà áo lụa và cứ chùng chình như tâm trạng đi không đành
trong tình yêu của con sông đối với kinh thành”. Tất cả vẻ đẹp
ấy cứ vang lên trong tâm hồn nhà văn tạo nên một nốt nhạc của
tình khúc. Từ đó HPNT khẳng định “tôi chợt nảy ra một ý định
lại cái khoảnh khắc kì ảo ấy về sông Hương. Đó là một lời hứa
với dòng sông mà chừng nào chưa thực hiện được thì lòng tôi
vẫn băn khoăn day dứt khôn nguôi”
-Như một giấc mộng tình yêu, Hương giang đứng trc cuộc chia
tay r mà vẫn còn chưa tỉnh mộng. Trước khi rời xa thành phố,
con sông đã lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc, của
những vườn cau cùng cái nắng tinh khiết tinh khôi. Vấn vương,
lưu luyến không nỡ rời xa người tình của mình. Nhưng đâu ai có
thể tắm hai lần trên một dòng sông, để rồi chính Hera clip cũng
đã khóc suốt đời vì dòng sông trôi đi quá nhanh. Điều này cũng
đã đúng khi Xuân Diệu cho rằng “trong gặp gỡ đã có mầm li
biệt” và “đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”
-Thế rồi sông Hương rời khỏi kinh thành, nó chếch về hướng
chính bắc ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong
sương khói. Đặc biệt tác giả viết một câu văn tài hoa dành tặng
cho sông Hương: “Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp
nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp
lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”
=> Đứng về góc độ địa lý thì đây là một nơi khá cao của kinh
thành Huế, nơi có thể dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Thế
nhưng với cách nhìn tinh tế của nhà văn lại phát hiện được lòng
dạ quyến luyến, hụt hẫng, bâng khuâng và “sực nhớ” như thể
một cô gái đang trên hành trình rời xa người tình yêu dấu. Nó
vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái thì không ai
nghĩ rằng nó lại có thể đột ngột “ rẽ ngoặt” một cách mạnh mẽ,
bất ngờ đổi dòng lên vùng cao này. Bởi lẽ nước chảy xuôi dòng.
Vẫn biết là vậy nhưng theo lý lẽ của trái tim thì thật dễ hiểu và
hợp lý vô cùng.
-Ta vẫn biết một lần đi là đi mãi, một lần chia xa là đến cả ngàn
vạn dặm đường. Bởi thế khúc quanh ấy thật bất ngờ mà cũng
thật tự nhiên biết bao nhiêu . Người Huế vốn sống nặng lòng và
con sông Hương kia cũng vậy. Sông Hương “giống như nàng
Kiều trong đêm tình tự “sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim
Trọng của nó, để nói về một lời thề trước khi về biển cả”. Khúc
quanh đột ngột ấy làm tác giả bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra
điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vấn vương,
cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”
-Câu văn sử dụng phép nhân hóa kết hợp các tính từ bộc lộ cảm
xúc “vương vấn”, “lẳng lơ” khiến con sông hiện lên sống động,
trữ tình. Đã “lẳng lơ” mà lại còn “kín đáo”. Đó là cái “lẳng lơ”
đa tình thêm chút gia vị làm cho tình yêu của mình lên mật lên
hương để chứng tỏ sự ráo riết, sống hết mình cho tình yêu.
Chính cái lẳng lơ đầy gợi tình và quyến rũ ấy đã thể hiện sự
mạnh mẽ, quyết đoán, táo bạo mang tính nữ quyền trên hành
trình chinh phục tình yêu của người con gái sông Hương. Thế
nhưng “lẳng lơ” thì chưa đủ mà còn phải kín đáo trong e lệ, kín
đáo, dịu dàng tô đậm nét đẹp của người con gái rất mực chung
tình và chân thành đằm thắm trong tình yêu.
-Không dừng lại ở đó tác giả còn viết về nét đẹp của sông
Hương khi rời xa thành phố. Chính tác giả đã mượn câu Kiều dể
nói lên mối chung tình ấy:
“Đã nguyền hai chữ đồng tâm
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai
Còn non còn nước còn dài
Còn về còn nhớ đến người hôm nay”
-Và người viết những dòng nhớ, dòng thương, dòng lưu luyến
thiết tha ấy đã kết luận: lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông
thành giọng hò dân gian “ấy là tấm lòng của người dân Châu
Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”
-Còn nhớ khi xưa nàng Kiều đã hết lòng với tình yêu mà băng
lối sang nhà chàng Kim:
“Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
-Những bước chân nhanh nhẹn đầy can đảm và chủ động như
đang từng bước đạp đổ xiềng xích lễ giáo phong kiến đã trói
buộc người phụ nữ bấy lâu nay, đã tự mình ước hẹn thề nguyện
để thỏa mãn niềm khao khát về một tình yêu tự do. Thế rồi sông
Hương hnay cũng đã bất chấp mọi quy luật đời thường để ngược
dòng nói lời yêu thương lần cuối. Lời thề ấy hãy còn thủy chung
đến hôm nay và mai sau, đã để lại bao dư âm qua mỗi câu hò
dân gian dìu dặt: Nam ai nam bình, mái nhị mái đẩy.
TK: HPNT đã sd nhiều điểm nhìn của các loại hình nghệ thuật
khác nhau để miêu tả sông Hương. Cách tiếp cận đối tượng bằng
nhiều ngành nghệ thuật như: Hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân
hóa, so sánh đầy mới lạ bất ngờ đã làm cho sông Hương trở
thành một sinh thể có hồn, có sự sống. Đó là cuộc gặp gỡ của cô
gái dám hết mình trong tình yêu, say đắm với tình yêu. Cũng ở
đây nhà văn cũng mang đến cho ng đọc những mỹ cảm dồi dào.
Từ đó tạo nên những dấu ấn không thể phai mờ trong phong
cách chẳng thể trộn lẫn, nói như những câu thơ của Lê Đạt:
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn”
(Vân chữ)
2, Sông Hương dưới góc nhìn thi ca
-Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, HPNT tin rằng “dòng sông ấy
không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ
cách nói “không bao g tự lặp lại mình” đã thể hiện trong nhiều
dáng vẻ khác nhau mang tính phát hiện của nhà văn. Có khi
sông Hương là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại; khi
lại là một “bà mẹ của một vùng văn hóa xứ sở”; cũng có khi là
“người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa
đầy hoa dại”; cũng có khi lại là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya” có khi lại là “một cô gái tự hiến đời mình làm một chiến
công”, để rồi khi trở về cuộc sống đời thường ; nó trở thành
“một người con gái dịu dàng của đất nước”; đôi khi có cả một
chút lẳng lơ, kín đáo mà cũng rất mực chung tình trong tình yêu.
-Người con gái ấy đã biết làm đẹp một cách ý nhị, khi thì phô
diễn những đường cong gợi cảm “vẽ một đường cung thật mềm,
kẻ một hình cung thật tròn”, rồi lại “những khúc quanh đột
ngột”, “ kẻ một nét thẳng thật yên tâm” với chút sương khói mơ
màng như “tấm voan huyền ảo của tự nhiên sau đó ẩn giấu
khuôn mặt thực của dòng sông”
-Theo đó trong mỗi hoàn cảnh , sông Hương cũng tự bộc lộ vẻ
đẹp hoặc oanh liệt hoặc dịu dàng; hoặc táo bạo hoặc nữ tính. Để
rồi không ngừng làm mới mình và khơi gợi nguồn cảm hứng bất
tận để dệt nên một dòng sông thi ca của chính nó.
-Mỗi nhà thơ đều có một cách khám phá riêng về Hương giang.
Từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu bất ngờ trở thành
một “dòng sông trắng-lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của
Tản Đà:
“Dòng sông trắn, lá cây xanh
Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai”
(Chơi Huế)
-Tiếp đến từ tha thiết mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên
như “kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát:
“Trường Giang như kiếm lập thanh thiên”
(Sông dài như kiếm dựng trời xanh)
(Hiểu quá Hương Giang)
-Cũng có lúc nó mang nét quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng
lãng trong hồn thơ của “Bà Huyện Thanh Quan
“Trời chiều bảng lãng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”
(Chiều hôm nhớ nhà)
-Để rồi khi bước vào trang thơ Hàn Mặc Tử, Hương giang lại như
một dải ngân hà đong đầy ánh trăng mang nỗi lo âu trăn trở, phấp
phỏng trc thời gian định mệnh của đời người:
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
(Đây thôn Vĩ Dạ)
-Theo đó trong thơ của Văn cao thì Hương giang lại là:
“Một đêm đàn lẳng trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh”
(Một đêm đàn lạnh trên sông Huế)
-Với thi sĩ Bùi Giáng thì lại ngọt ngào:
“Dạ thưa xứ Huế bây chừ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”
-Để rồi vớ người tài hoa như Nguyễn Trọng Tạo, Hương giang
lại mặc lấy một bầu không khí huyễn hoặc, một chút trữ tình
hoài cổ :
“Con sông đám cưới Huyền Trâm
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lý Bạch nửa chờ Khuất Nguyên”
-Với Vũ Dung thì lại là:
“Tiếng chuông Thiên Mụ đổ giờ
Giật mình em ngỡ xa bờ thuyền anh
Sông em ôm gọn quách thành
Em là dải lụa màu xanh dịu dàng”
(Huế Thương)
-Chưa hết Hương giang còn mang một vẻ đẹp phục sinh diệu kì
trong thơ Tố Hữu:
“Ta nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi”
(Dửng dưng)
->TK: Nếu NT đã tạo cho Đà giang có tính cách hung bạo và trữ
tình; khi là một con thủy quái, một mụ dì ghẻ, một kẻ thù số một
làm mình làm mẩy “năm năm báo oán đời đời đánh ghen” với
con người; để rồi cũng có lúc dịu dàng, mềm mại như một cố
nhân gần thì yêu xa thì nhớ; thì giờ đây HPNT đã tạo cho sông
Hương những nét độc đáo riêng, một dòng sông không chỉ tự
thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế mà qua
những trang ký tài hoa của HPNT đã trở thành một nét văn hóa
đặc sắc. Thế nên nhà văn đã không kìm nén được lòng mình mà
ca ngợi “và ở đây một lần nữa sông Hương quả thật là Kiều, rất
Kiều trong cái nhìn thắm thiết tình người”
TK: Chính niềm trân trọng lớn lao của tác giả đã khiến tên của
một nhân vật trở thành tính tự rất đẹp, rất nghệ thuật, rất HPNT.
Từ đó nhà văn ca ngợi vẻ đẹp đa đoan say người của một dòng
sông trong veo có thể thanh lọc tâm hồn con người và cuốn trôi
đi tất cả những ô uế của cuộc đời. Tình yêu ấy đã hòa nhập vào
tình yêu dòng sông, quê Hương mà tạo nên những trang bút ký
vô cùng đặc sắc.

3, Sông Hương dưới góc nhìn lịch sử


M, Gorky từng nói: “Mỗi người đều mang trong mình nhiệm vụ
của ng nghệ sĩ.” Theo đó , HPNT cũng đã không chỉ đam mê
với thế giới văn chương mà quên đi nhiệm vụ của mình. Hơn ai
hết tác giả hiểu rõ Huế với cái tên gọi “mảnh đất cố đô” thì cần
phải tô điểm những gì. Vậy nên nhà văn đã huy động toàn bộ
vốn tri thức lịch sử và văn hóa đủ cả đông tây kim cổ vào từng
trang viết, tạo nên những liên tưởng vừa rộng vừa sâu. Nơi đây
là vùng đất truyền thống cố đô xưa và cũng là chốn lưu giữ
những di tích lịch sử, những nét kiến trúc của đền đài và kinh đô
Huế tự xa xưa để tạo nên nét trầm mặc kiêu sa, đài các
-Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Hương giang dưới góc nhìn lịch
sử, ta có thể khẳng định rằng HPNT là một nhà văn hóa Huế,
ông không chỉ nhìn thời gian trôi đi ở hiện tại của một người mẹ
mang phù sa vun đắp cho cánh đồng Châu Hóa mà còn mang
nguồn nước ngọt trao tặng cho cuộc sống người dân xứ Huế.
Hơn thế, ông còn nhìn Hương giang như là khởi nguồn của
những giá trị tinh thần cho những hào hùng trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc

*Những thế kỷ trung đại:


-Từ thời vua Hùng, sông Hương đã “là một dòng sông biên thùy
xa xôi của đất nước”
-Trong sách “Địa dư” của Nguyễn Trãi, nó mang tên Linh giang,
dòng sông Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới
phía nam của tổ quốc Đại Việt
-Ở thế kỷ 18, nó vẻ vang soi bóng kinh thành phố xuân của
người anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của
thế kỷ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa”

*Thời hiện đại:


-Sông Hương tiếp tục đi vào thời đại cách mạng thansg 8 bằng
những chiến công rung chuyển. Trong cả hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mỹ, nó đã chứng kiến những chiến công long
trời lở đất và cỗ vũ nồng nhiệt cho cuộc nổi dậy tổng tiến công
trong mùa xuân Mậu Thân năm 1968
-Nó cũng đau đớn hứng chịu sự tàn phá khốc liệt của đế quốc
Mỹ những năm 1975. Sự mất mát của chính sông Hương cũng
chính là thành phố Huế phải gánh chịu nói riêng và cả đất nước
nói chung, cũng giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn
minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hi Lạp
và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại. Chín người
Mỹ cũng đã từng rất phẫn nộ khi nhận xét như vậy. Bởi lẽ “Huế
là một thành phố kết hợp tất cả lịch sử, văn hóa, học thuật và về
chính quyền” giống như các thành phố London, Paris, Berlin.
-Từ đó nhà văn đã đi đến lời phát biểu đầy ý nghĩa của đại tướng
Võ Nguyên Giáp: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son của thành
phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng
cho tổ quốc”. Khi nói những lời này, đại tướng đã kính cẩn “đầu
cuối xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn cúi
người và đôi mắt ngấn lệ”, và người nghe tất cả đều lặng đi
trong cảm xúc của một lời thề.
-Tác giả khái quát “sông Hương là v, là dòng sông của thời gian
ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe
lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi
nó trở về với cuộc sống bình thường là một người con gái dịu
dàng của đất nước”
-> Cách viết vô cùng tài hoa chỉ có thể là của HPNT. Bởi lẽ
sông Hương không còn là một dòng sông vô tri vô giác mà là
dòng sông của “thời gian ngân vang” bao trùm quá trình lịch sử
dài dằng dặc. Nó còn là dòng sông của “sử thi” mang âm hưởn
ngợi ca tráng lệ kì vĩ về những chiến công đáng tự hào của dân
tộc, với truyền thống kiên cường bất khuất. Đồng thời dòng
sông sử thi ấy lại được viết “giữa màu cỏ lá xanh biếc” càng tô
đậm nên nét trữ tình nên thơ, dịu dàng, đắm say, cũng giống như
màu xanh của hi vọng, của sự sống, màu xanh bất diệt của một
dòng chảy lịch sử đáng tự hào kéo dài mãi hôm qua, hôm nay và
mãi mãi về sau
-Bên cạnh đó, nếu sông Hương ở khu vực thượng nguồn đã là
một bản trường ca của rừng già; khi về đến thành phố Huế nó đã
là một bản tình ca đầy lưu luyến thì dưới góc độ lịch sử sông
Hương còn là một bản anh hùng ca đáng tự hào. Qua nghệ thuật
nhân hóa, so sánh, tác giả đã thổi hồn cho cô gái sông Hương đã
biết tự hiến cuộc đời mình làm một chiến công trong chiến tranh
đầy quả cảm, kiên cường. Để rồi về với cuộc sống đời thường
sông Hương lại lặng lẽ làm một người con gái dịu dàng của đất
nước. Đây cũng chính là phẩm chất cao quý của dân tộc Việt
Nam, đúng như những lời thơ:
“Sông sống vững chải bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng đôi bờ suy tưởng
Sống hiên ngang và nhân ái chan hòa”
(Huy Cận)
-Hay nói như những lời thơ của Nguyễn Đình Thi trong “Việt Nam
quê hương ta”:
“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”
-TK: Qua cái nhìn tinh tế của HPNT, sông Hương biết biến hóa khôn
lường vừa là một dòng sông của sử thi đồng thời cũng là bản tình ca
tươi mát dịu dàng. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của sông Hương
được tác giả khám phá và khắc họa từ góc độ lịch sử. Cũng từ đây đã
kết nên một dòng sông văn hóa khi nhà văn nhận ra trong những ngày
nắng đem ra phơi một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: Màu áo
điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm, thấp thoáng theo bóng
người về cái thuở các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giăng. Đây
cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm
voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng
sông
4, Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng về một giai thoại của Hương giang
-Tác giả đã khéo léo truyền tải vẻ đẹp của dòng sông qua những câu
văn dài hơi uốn lượn và biến đổi không ngừng. Bên cạnh việc sử dụng
mượt mà lối so sánh ví von để câu văn có nhịp điệu ngọt ngào tựa như
lời ru xứ Huế trong hình ảnh đẹp đẽ tuyệt vời. Cùng với đó là lối hành
văn hướng nội đầy mê đắm và tài hoa trong trí tưởng tượng bay bổng
để rồi có một Hương giang để thương để nhớ trong mỗi chúng ta.
-Đến cuối tác phẩm, tác giả còn mở ra những câu văn thơm thảo trên
giấy về một dòng giai thoại của Hương giang
+Lý giải về cái tên thơ mộng Hương giang, giới nghiên cứu cho rằng
“xưa nay người ta thường gọi tên một con sông bằng tên của một
vùng đất mà nó chảy qua vào các thời kì. Và nói như trên, khi vùng
đất ấy còn mang tên huyện Kim Trà thì con sông chúng ta đang nói
đến là sông Kim Trà. Sau đó đã đổi tên thành Hương Trà. Từ sông
Hương Trà đến sông Hương chỉ còn một bước vì trong bất cứ ngôn
ngữ nước nào, nhân dân cũng hay thường gọi. Phải chăng hai chữ
sông Hương đẹp quá khiến giới trí thức cũng không muốn nói gì hơn.
+Thế nhưng theo cách lý giải đầy đa tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường
thì sông Hương gắn với giai thoại người làng Thành Trung có nghề
trồng rau thơm, “vì yêu quý con sông xinh đẹp nên nhân dân hai bên
bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông
cho làn nước thơm tho mãi”. Phải chăng đó là cách lý giải tên sông
Hương cùng lời đáp cho câu hỏi “ai đã đặt tên cho dòng sông”-con
sông gắn liền với tình yêu lớn lao của HPNT
5, Cái tôi của HPNT
a, Một cái tôi dạt dào cảm xúc
-Tư thế của một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa
chiến tranh, vừa bừng bừng khí thế chống giặc xâm lược, vừa là sự
hào hùng ngợi ca. Tư thế tự do, tự tin và tự hào để tác giả nhìn vào
mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc từ đó khẳng định sức
sống trường tồn của Hương giang.
-Tâm thế của một người giàu rung động và lãng mạn khi chọn cho
mình một điểm nhìn thật đặc biệt về con sông. Để rồi đi giữa cõi thực
và cõi mơ, trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh
thiên nhiên và những rung động trước một mối tình say đắm trong
những trang Kiều. Từ đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối
quan hệ giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế.
-Quan trọng nhất là tác giả nhận ra rằng s.H và thành phố Huế của nó
như một vang bóng trong thời gian về hình tượng cặp tình nhân lý
tưởng trong truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê,
thi ca và âm nhạc”
=> Đó là tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung
động đắm say của tác giả dành cho con sông xứ Huế.
-Cảm hứng: Niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng của
Hương giang ở các phương diện: Thời gian, không gian, lịch sử, văn
hóa. Cả bài kí dường như là cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời đầy
khắc khoải “ai đã đặt tên cho dòng sông?”, từ đó trở thành một cuộc
thám hiểm không chỉ vẻ đẹp, diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu
của tâm hồn nhà văn
-Cảm xúc: Có khi được bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm vừa
thích thú vừa lơ đãng miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi
sắc không ngừng; có khi lại nhớ da diết điệu chảy lặng lờ khi đi ngang
qua thành phố như một điệu slow tình tứ dành riêng cho Huế trong
trăm nghìn ánh hoa đăng; khi lại thất vọng nghe nhạc Huế giữa ban
ngày hoặc trên sân khấu để biểu hiện rằng nền âm nhạc Huế được
sinh thành trên mặt nước sông Hương, là tâm hồn của con sông nên
chỉ có thể là chính nó khi vang lên trong đêm những giọt nước rơi bán
âm từ những mái chèo khuya; cũng có khi là cảm xúc yêu thương da
diết với xứ Huế để rồi bất ngờ nhận ra điểm tương đồng giữa con
sông với con người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình
yêu”; cũng có khi vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hợp Quốc về
Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn “để thấy hiện bóng
khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế
giới hiện đại”; cũng có lúc hoài niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra
màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa “màu áo lục
điều”, từ đó liên tưởng một cách ngẫu hứng đến màu sương khói trên
sông Hương giống như một tấm voan huyền ảo của tự nhiên sau đó ẩn
giấu khuôn mặt thực của dòng sông.
=>Tác giả đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi
nổi say sưa thổi vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc
trong bản đàn lòng.
b, Một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng tìm kiếm và phát hiện
-Kiến thức phong phú và có chiều sâu được tác giả huy động tổng hợp
nhiều mặt về sông Hương trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn
hóa, thi ca, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, triết học , đời sống tự nhiên
và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa.
-Tác giả thấy được nét diện mạo của con sông trong từng khoảng
không gian cụ thể vừa nghiên cứu để thấy mối quan hệ giữa đặc điểm
địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông
trong từng thời kì lịch sử, vừa trải nghiệm thực tế để nhận biết một
cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những
hương vị riêng của cỏ cây hoa trái đất đai; vừa đọc tư liệu sách vở để
hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại
của thành quách, đình đền. Các mặt kiến thức này không tách rời
nhau, không độc lập tồn tại mà hỗ trợ nhau tạo thành điểm tựa vững
chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả về sông Hương
-Về ý thức: Cả bài bút kí là cuộc hành trình hào hứng và say mê đồng
thời cũng rất nghiêm túc trả lời cho câu hỏi “ai đã đặt tên cho dòng
sông?”. Từ đó bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết,
ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường, vô cùng sâu
sắc đối với chiều sâu văn hóa tinh thần, tâm hồn của sông Hương và
cũng là của con người xứ Huế.
c, Một cái tôi tài hoa và vô cùng lãng mạn
-Trong trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, s.H khi là một dòng
nhạc đa âm sắc, khi là một cô gái giàu nữ tính và có đủ sức mạnh để
trưởng thành dần trong cuộc hành trình. Song điều quan trọng là trong
cuộc hành trình dù không biết bao gian nan thử thách, cũng không hề
ngắn ngủi ấy là phẩm chất nữ tính khiến nó luôn tự bộc lộ mình là
một cô gái rất mực chung tình.
-Vốn chữ nghĩa và sức sáng tạo đã giúp tác giả viết nên hình tượng s
Hương đa dạng, có lúc là bản trường ca của rừng già, lúc lại là bà mẹ
phù sa của một vùng văn hóa xứ xở, khi là người gái đẹp nằm ngủ mơ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa, khi lại trở thành một cô gái tự hiến
đời mình làm một chiến công để rồi trở về cuộc sống bình thường làm
một người con gái dịu dàng của đất nước
=>Lối viết ấy thường gặp nhiều trong thi ca bởi hứng thú và nguồn
mỹ cảm dồi dào.
-Cuối cùng, trách nhiệm của mỗi công dân với đất nước mình đã
khiến tác giả lật giở từng trang sách địa lý, lịch sử... ,tìm hiểu từng
phong tục để viết về sông Hương như viết về người bạn tri kỷ. Cái tôi
của tác giả làm ta hiểu rõ phong cách nghệ thuật qua lối hành văn
hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa , đồng thời hiện lên một HPNT
uyên bác, sâu lắng với Huế. Những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến
trái tim. Và tác phẩm cũng đã bắt nhịp cầu linh diệu giữa trái tim
người nghệ sĩ với tâm hồn độc giả để ta thêm yêu quý Hương giang

III, Tổng kết


Tác giả HPNT từng tâm sự về bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
của mình rằng: “Tác phẩm được viết trong một ngày nhưng tôi đã
nghĩ về nó bằng nửa cuộc đời mình. Tôi đã mang cả tâm huyết để vẽ
nên một dòng sông y như nó vốn có. Đó là một thứ tài sản tôi muốn
gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn nhủ “sông Hương như một
viên ngọc quý mà thiên nhiên ban tặng cho Huế””. Để rồi gấp lại
trang sách, ta càng yêu thương tự hào đối với dòng sông quê hương
qua đó thấy được vẻ đẹp của Huế , của tâm hồn con người cố đô luôn
sống mãi trong trái tim con người qua bút kí đặc sắc bậc nhất của
HPNT. Đúng nhưu những lời thơ sâu lắng:
“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương”
(Vọng Huế-Nguyễn Trọng Tạo)

You might also like