You are on page 1of 29

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1

Câu 1: Sau khi nghe bài hát, em cảm thấy được sự tràn trề hy vọng, niềm
vui của người dân nơi đất Mường. Bài hát như hòa thành một cùng dòng
sông Đà, đem những khao khát của Nguyễn Tuân truyền tải lại một cách
mượt mà, giàu hình ảnh, cảm xúc.

Câu 2:
- In trong tập Sông Đà (1960).
- Là kết quả của chuyên đi thực tế Tây Bắc.
- Mục đích tìm kiếm “chất vàng mười” trong thiên nhiên và con
người Tây Bắc.
- Thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác của tác giả.
- Thể loại tùy bút.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2

Câu 1: Vách đá thành


a. Thông tin trong văn bản: Chỉ với 1 câu văn miêu tả bằng hình ảnh
“mặt sông chỗ ấy đúng Ngọ mới có mặt trời” mà giúp người đọc
hình dung được độ cao của vách đá, độ hẹp của dòng sông, cái
lạnh lẽo âm u của những khúc sông có đá dựng thành vách.

b. Biện pháp nghệ thuật: Tác giả dùng các hình ảnh so sánh:
- “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” và
“Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng
con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”: So sánh với 1
bộ phận nhỏ hẹp ở cổ con người để diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng
chảy.
- Dù tác giả không trực tiếp nói ra nhưng ai cũng biết quãng sông
chỗ này dòng chảy rất lớn, nhất là vào mùa lũ.
- Nguyễn Tuân khắc họa ấn tượng về độ cao, độ hẹp, sự lạnh lẽo, u
tối của dòng sông bằng 1 liên tưởng “Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như
đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nhà văn so
sánh cảm giác của con người với thiên nhiên hoang sơ với 1
khoảnh khắc của đời sống hiện đại giữa chốn thị thành để kéo gần
SĐ với mọi người.

c. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự
nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu
tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây
đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền
nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không
xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.

Câu 2: Mặt ghềnh Hát Loóng


a. Thông tin trong văn bản: Chỉ với 2 câu văn mà t/g hình thành nhiều
sự khủng khiếp của quãng sông này.

b. Biện pháp nghệ thuật: Nguyễn Tuân làm nổi bật tính chất hung bạo
của Sông Đà:
- Nhân hóa dòng sông thành kẻ chuyên đi đòi nợ thuê: “gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”
- Thủ pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc “nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió”.
- Được hỗ trợ bởi các thanh trắc liên tiếp tạo nên âm hưởng dữ dội,
nhịp điệu khẩn trương, dồn dập của sóng, gió, đá khiến dòng sông
như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn.
- Đoạn văn còn sử dụng nhịp ngắn, dài theo lối tăng tiến để tạo nến
sự chuyển động của sóng, gió ngày càng lớn hơn.

c. Ở đây, một phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn,
gọn, diễn đạt bằng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu
khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và
sóng lớn.
Câu 3: Quãng Tà Mường Vát
a. Thông tin trong văn bản: “Lại như quãng Tà Mường Vát”: trên dòng
sông có những cái hút nước
- Hình dáng: giống cái giếng bê tông
- Âm thanh:
+ “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc.”
+ “Những cái giếng sâu nước ác ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào.”
→ Các từ ngữ “thở, kêu...” đã nói được sức mạnh ghê gớm
của những cái hút nước.

b. Biện pháp nghệ thuật: Tác giả đã tô đậm sức mạnh của hút nước
Sông Đà qua 1 loạt những so sánh liên tưởng độc đáo:
- Nhà văn ví con thuyền đi qua vùng xoáy nước như “ô tô sang số ấn
ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ
vực”.
- Nhà văn tưởng tượng anh bạn quay phim táo tợn muốn truyền cảm
giác lạ cho khán giả “đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền
thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy
cái hút Sông Đà” khiến cho người đọc cảm thấy sợ hãi.
- Nguyễn Tuân còn kết hợp kể và tả 1 cách hiện thực, giàu hình ảnh
về những cái thuyền bị cái hút nước hút xuống “thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông
đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”

c. Để miêu tả sự khủng khiếp của hút nước Sông Đà, nhà văn đã huy
động tri thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau (xây dựng, giao thông,
điện ảnh...) để giúp người đọc có cái nhìn đa chiều về 1 hiện tượng,
đồng thời giúp ta hình dung và để lại ấn tượng đậm nét về dòng
Sông Đà hung bạo, dữ tợn.

Câu 4: “Chiến trường”Sông Đà


- Sự hung bạo của Sông Đà hiện ra thành khối trước mắt người đọc.
- Trước hết là cảm nhận về âm thanh của thác nước Sông Đà:
+ Tiếng thác nước nghe từ xa với nhiều cung bậc khác nhau:
oán trách, van xin, khiêu khích, chế nhạo.
+ Thế rồi thác nước Sông Đà hợp sức “rống lên” như tiếng của
1 ngàn con trâu mộng đang tìm đường thoát thân gầm lên
những âm thanh ghê sợ.
→ Nhận xét: nhà văn Nguyễn Tuân đã tạo ấn tượng về âm
thanh khủng khiếp của nước Sông Đà bằng những vế câu dài
liên tiếp.
+ Điều đặc sắc của Nguyễn Tuân ở đoạn văn này chính là tác
giả lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông.
- Chân trời đá Sông Đà: đá mai phục từ ngàn năm, mặt hòn nào
trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó; nó đứng nó ngồi nó
nằm tùy thích.

● Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất:


+ Đá: nó viết mở ra 4 cửa tử, 1 cửa sinh; cửa sinh nằm lập lờ
duới tả ngạn; nó viết bày thạch trận, biết chia làm 3 hàng
chặn ngang trên sông, hàng tiền vệ, tuyến giữa tuyến 2, tuyến
3.
+ Nước: mặt nước hò la, sóng nước như thể quân liều mạng,
nó đội thuyền đòi lật ngửa thuyền ra, mấy miếng đòn hiểm
độc nhằm tiêu diệt con thuyền.

● Trùng vi thạch trận vòng thứ 2:


+ Đá: tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch qua phía
bờ hữu ngạn.
+ Nước: dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá,
cưỡi lên sóng thác như là cưỡi lên hổ (dòng chính); 4, 5 bọn
thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra níu con thuyền
vào tập đoàn cửa tử.
+ Trùng vi thạch trận vòng thứ 3: bên phải, bên trái đều là
luồng chết, luồng sống ở chặng 3, nằm ở giữa bọn đá hậu vệ
của con thác.

=> Sự hung bạo của Sông Đà được hiện ra ở nhiều dáng vẻ khác nhau, tất
cả đều toát lên 1 sự hoang dại, 1 sức mạnh thiên nhiên kì vĩ. Đó chính là
tiềm năng thủy điện to lớn mà có lẽ những năm 1960 nhà văn đã dự cảm
được vị trí, vai trò của Đà giang trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3

Câu 1:
a. Áng tóc sông Đà: Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"

b. Màu nước sông Đà: "Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông
Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"

c. Sự gợi cảm của sông Đà: Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố
nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kỳ gợi cảm: lá non nhú
trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi
áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm
trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ
sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

d. Cảnh “thuyền tôi trôi trên sông Đà”: Sử dụng toàn là thanh ngang,
gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng như tái hiện hình ảnh con thuyền
êm ái, nhẹ nhàng trôi xuôi. Những so sánh, liên tưởng giàu hình ảnh
đã gợi ra vẻ thơ mộng, yên tĩnh, huyền ảo của sông Đà.

Câu 2: Các biện pháp nghệ thuật đã được tác giả sử dụng để thể hiện
dòng sông trữ tình và hiệu quả của chúng:
- Lấy động tả tĩnh: cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
- Phép so sánh: Tác giả so sánh từ trên máy bay sông Đà “như chiếc
dây thừng ngoằn ngoèo”, phép so sánh cụ thể hóa dáng hình mềm
mại của sông Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn trên
núi rừng Tây Bắc.
- Điệp ngữ: “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều dài sông
Đà chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc.
- Động từ mạnh: “bung nở” là một động từ mạnh đứng trước hai loài
hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết.

→ Hiệu quả: giúp tác phẩm trở nên khó lường, mang tính bất ngờ hơn với
biện pháp lấy động tả tĩnh. Các phép so sánh, trùng điệp thêm phần tô
đậm vẻ đẹp và sự trữ tình của sông Đà, kèm theo với những động từ
mạnh đã biến tấu bài Người lái đò sông Đà mang nhiều màu sắc văn
học.

Câu 3: Thông điệp nghệ thuật được nhà văn gửi gắm qua hình tượng
sông Đà: Tác giả chắc hẳn rất yêu sông Đà, không thể không nhìn thấy
“mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích” xuyên qua những đám mây mùa
xuân, một sự tương phản thiên tài, làm nổi bật màu sắc của dòng sông,
có một loại màu xanh lục. Ánh sáng xanh lập lòe tràn ngập khắp không
gian, biến dòng sông thành một viên ngọc bích khổng lồ. Đi qua làn
sương thu, nước sông lớn đỏ ngầu như “da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa” gợi nhớ nước sông lớn được bồi đắp phù sa mang lại cảm giác trù
phú cho nhiều cánh đồng phì nhiêu. Thật là một tình yêu đáng tự hào.
Bước ra khỏi khu rừng, tác giả thấy nước sông lớn chói chang như mặt
trời phản chiếu qua gương khi ta còn nhỏ, ánh sáng này cũng khiến ta
cảm thấy nước sông lớn rất trong, phản chiếu ánh nắng chói chang. Sưởi
ấm. Ngoài ra còn có những con chuồn chuồn và bướm đủ màu sắc trên
bờ sông.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 4

Câu 1: Thạch trận mà sông Đà đã dùng để chiến đấu với ông đò: Sông
Đà chia thành năm cửa trận (bốn cửa tử và một cửa sinh).

Câu 2: Các chi tiết thể hiện cuộc chiến đấu của ông đò với trùng vi thạch
trận thứ nhất:
- Sông Đà chia thành năm cửa trận (bốn cửa tử và một cửa sinh),
cửa sinh được ngụy trang nằm lập lờ bí hiểm phía tả ngạn.
- Vừa vào thạch trận sóng, nước, đá sông hò la vang dậy. Sóng nước
đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền. Nước như một đô vật
“túm thắt lưng ông đò đòi vật ngửa mình ra giữa trận nước vang
trời thanh la não bạt”.
- Bị trúng đòn, mắt người lái đò như thấy một cửa bể đom đóm
nhưng cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. →
Ông lái đò thật sự là một con người lão luyện, luôn bình tĩnh, dũng
cảm, biết nén mọi đau đớn để chiến thắng đối chủ hiểm ác của
mình..

Câu 3: Các chi tiết thể hiện cuộc chiến đấu của ông đò với trùng vi thạch
trận thứ hai:
- Chiến thuật thay đổi: Thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch
sang phía bờ hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền.
- Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá nên đã
nắm chặt được bờm sóng đúng luồng rồi ghì cương lái...mà phóng
nhanh vào cửa sinh.

Câu 4: Các chi tiết thể hiện cuộc chiến đấu của ông đò với trùng vi thạch
trận thứ ba và hành động, suy nghĩ sau cuộc vượt thác:
- Chiến thuật thay đổi: Thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch
sang phía bờ hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền.
- Ông lái đò đã nắm chắt binh pháp của thần sông thần đá nên đã
nắm chặt được bờm sóng đúng luồng rồi ghì cương lái...mà phóng
nhanh vào cửa sinh.
- Đám thuỷ quân định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông
đã có cách trị, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông
chặt đôi ra để mở đường tiến. → Một con người có nhiều kinh
nghiệm, có hành động chuẩn xác, mau lẹ, quyết đoán.

Câu 5: Những biện pháp nghệ thuật tác giả đã sử dụng để thể hiện hình
tượng ông lái đò: Ẩn dụ, so sánh, hoán dụ.

Câu 6:
- Cuộc chiến đấu của người lái đò sông Đà gợi cho Nguyễn Tuân liên
tưởng đến truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh.
- Tác dụng: Đánh bật lên sự tương đồng, kèm theo đó giúp người
đọc có cái nhìn gần gũi hơn và dễ liên tưởng khi đọc tác phẩm
Câu 7: Chi tiết em ấn tượng nhất về người lái đò sông Đà trong cuộc vượt
thác là “cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó”. Bởi vì hình ảnh
làm nổi bật sự quyết đoán và dũng cảm trong quyết định của ông lái đò.

Câu 8: Những nét đẹp mà cuộc vượt thác tô đậm ở hình tượng ông lái
đò: Sự dũng cảm, tài ba, trí thông minh, và mang phong thái nghệ sĩ.

Câu 9: Thông điệp nghệ thuật được nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm qua
hình tượng người lái đò sông Đà: Trong quá trình xây dựng nhân vật ông
lái đò, Nguyễn Tuân chú ý khắc họa nét tài hoa của nghệ sĩ "nhân vật
phải là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp". Nhà văn chú ý tạo tình huống
thử thách để nhân vật bộc lộ bản chất của mình. Sông Đà càng hung bạo
bao nhiêu, người lái đò càng tài hoa dũng cảm bấy nhiêu. Nhà văn am
hiểu nhiều ngành nghệ thuật quân sự, thể thao kết hợp với nghệ thuật
miêu tả so sánh liên tưởng độc đáo qua ngôn ngữ phong phú để làm nổi
bật sông Đà và người lái đò Sông Đà. Tóm lại, thành công trong xây dựng
nhân vật ông lái đò Lai Châu đã trở thành sức hút riêng của tác phẩm
trong nền văn học nước nhà.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 5

Câu 1: Điểm chung gặp gỡ giữa nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn
“Chữ người tử tù” và nhân vật ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông
Đà”: Coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của
mình.
- Huấn Cao: Quản ngục vì lòng cảm mến Huấn Cao, muốn ông được
sống những ngày cuối cùng thoải mái nên đã biệt đãi người tử tù
nguy hiểm. Hằng ngày, quản ngục đều sai người mang rượu thịt
vào tận buồng giam tử tù. Do chưa biết rõ về con người quản ngục
nên trong mắt Huấn Cao, rượu thịt đưa vào là một thứ cạm bẫy.
Nhưng ông không hề né tránh mà vẫn đón nhận như một thú bình
sinh.
- Ông lái đò: Ông lái đò là người không thích chèo đò ở những quãng
sông bằng phẳng bởi nó tạo cho ông cảm giác dại chân, dài tay và
dễ buồn ngủ. Ông coi những ghềnh thác hiểm nguy chính là tình
cảm đậm đà con sông dành cho nhà đò.

Câu 2: Điểm riêng:


a. Nhân vật Huấn Cao: Cái án tử hình, chốn ngục tù dơ bẩn với những
trò tiểu nhân thị oai, với quyền lực xấu xa và cái chết có thể đến bất
cứ lúc nào. Đối mặt với tình thế ấy, Huấn Cao luôn giữ thái độ ung
dung, bình thản, tự do, tự tại. Trò tiểu nhân thị oai không ngăn cản
ông thực hiện ý định của mình. Ông sẵn sàng đối mặt với quyền lực
đen tối. Ngay cả cái chết cũng không gợi trong ông dù chỉ một
thoáng phân vân. Nếu cái tin ngày mai Huấn Cao bị giải về kinh
chịu án chém làm viên quản ngục tái nhợt đi, thầy thơ lại hớt hơ hớt
hải thì không khiến Huấn Cao bận tâm chút nào. Nỗi bận tâm của
Huấn Cao bấy giờ chỉ là nên hay không nên cho chữ quản ngục.

b. Nhân vật ông lái đò: Những trận thuỷ chiến trên sông, hiểm nguy
luôn thường trực trong cuộc sống của những người lao động trên
sông nước. Thậm chí, cuộc sống của người lái đò là cuộc chiến
đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay
mình. Bởi con sông Đà mà ông lái đò phải đối mặt hung bạo, độc
dữ như một người dì ghẻ, một kẻ thù số một. Vậy mà ông lái đò
dám chung sống suốt đời với nghề chèo đò, dám đối mặt tới cùng
(cưỡi trên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ) với tư thế
hiên ngang không chịu đầu hàng, lùi bước, luôn bình tĩnh, tỉnh táo
để chỉ huy con thuyền vượt sóng thác.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 6

Câu 1: Khám phá sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ: Con Sông Đà
tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình.

Câu 2: Khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò
được miêu tả như một dũng tướng tài năng nhưng có phong thái của
một nghệ sĩ tài hoa.
Câu 3: Có thiên hướng khai thác những gì ấn tượng, đập mạnh vào giác
quan: Con Sông Đà hung bạo, hiểm ác, ông lái đò tài hoa.

Câu 4: Sử dụng tri thức của nhiều ngành nghệ thuật: Con Sông Đà hung
bạo và những trận thủy chiến của ông lái đò được ghi lại bằng kiến thức
của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật.

Câu 5: Thể loại tùy bút, ngôn ngữ chính xác, góc cạnh, điêu luyện: Thể
hiện rõ nét các đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 7

Suy nghĩ về vẻ đẹp của “vàng trong tâm người” ở cuộc sống quanh ta.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN
CHO DÒNG SÔNG
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1

Câu 1: Hình ảnh và những câu thơ gợi cho em liên tưởng đến dòng sông
Hương. Sông Hương là con sông lớn chảy qua giữa lòng Thành phố Huế,
nổi tiếng có vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình. Sông có nhiều tên gọi: Lô Dung,
Linh, Dinh, Kim Trà, Hương,... Sông Hương có hai nhánh lớn, đều bắt
nguồn từ dãy Trường Sơn. Nhánh Tả Trạch xuất phát từ Động Dài, chảy
qua 55 ngọn thác lớn nhỏ đến ngã ba Bằng Lãng.

Câu 2:
- (1) NGỌN NÚI ẢO ẢNH
- (2) HƯỚNG NỘI
- (3) SUY TƯ ĐA CHIỀU
- (4) NGƯỜI TÀI NỮ
- (5) RẤT NHIỀU ÁNH LỬA
- (6) MAN DẠI
- (7) NGƯỜI GÁI ĐẸP
- (8) NGÔI SAO TRÊN ĐỈNH PHU VĂN LÂU
- (9) HUẾ
- (10) CHUÔNG CHÙA THIÊN
- (11) SỬ THI
- (12) QUANG VINH

Câu 3:
- Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: Ông sinh ngày 9 tháng 9 năm
1937, tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu
Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Hoàng Phủ Ngọc Tường
là một trong những nhà văn chuyên về bút ký. Nét đặc sắc trong
sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và
chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng
hợp từ vốn kiến thức phong phú. Tất cả được thể hiện qua lối hành
văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Bút ký Hoàng Phủ
Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc,
thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm,
những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai
vọng lên trong tâm khảm người đọc

- Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”: Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?” Được viết tại Huế tháng 1 - 1981, in trong tập bút ký cùng
tên. Tập sách gồm tám bài ký, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân
1975 nên vẫn còn bừng bừng cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc đối với thiên
nhiên đất nước và với truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời của dân
tộc mà ông đã bỏ công tìm tòi, tích lũy một cách say mê và đầy
trân trọng, đồng thời cố gắng truyền đạt bằng một ngòi bút tài hoa
với những lời văn thật đẹp, thật sang.Bài ký thực chất thuộc thể tùy
bút vì hành văn phóng túng, nhân vật chính là “cái tôi” của tác giả,
chất trữ tình rất đậm.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2

Câu 1:
a. Sông Hương là thành phố duy nhất
- Từ ngữ miêu tả: Một bản trường ca của rừng già
b. Sông Hương là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở
- Từ ngữ miêu tả: Dịu dàng và trí tuệ
c. Sông Hương là người tình mong đợi
- Từ ngữ miêu tả: Chuyển động một cách liên tục, đột ngột
d. Sông Hương là tấm lụa
- Từ ngữ miêu tả: Mềm
e. Sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc
- Từ ngữ miêu tả: Triết lí, cổ thi

Câu 2:
- Những vẻ đẹp của sông Hương gợi cho em cảm nhận, liên tưởng:
+ Sông Hương là một bản trường ca rầm rộ, mãnh liệt, cuộn
xoáy. Đó là sức mạnh hùng vĩ, man dại của dòng sông -> Nét
mới mẻ, thú vị.
+ Chảy giữa dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng -> Trong
cái lạnh lẽo xuất hiện ngọn lửa ấm nóng khiến con sông rực
rỡ, tỏa sáng.
+ So sánh với “ cô gái di gan” -> Con sông trở thành một sinh
thể có cá tính.

Câu 3: Nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp dòng sông đoạn từ trong lòng Trường
Sơn về hết ngoại vi thành phố Huế của tác giả:
- Sông Hương ở ngoại vi thành phố:
+ Sông Hương trước khi chảy vào thành phố thì “nằm giữa
cánh đầu châu hóa đầy hoa dại”.
+ Vẻ đẹp mơ màng của sông Hương được miêu tả rất rõ nét,
có những đường cong mềm mại, quanh co uốn khúc quanh
cố đô Huế.
+ Tác giả dành một tình yêu lớn cho dòng sông. Tình yêu ấy
khiến ông mơ màng nhận ra bóng dáng của dòng sông giống
như tấm lụa trên có thể người thiếu nữ.

- Vẻ đẹp của sông Hương ở trung tâm thành phố:


+ Nét đẹp của dòng sông khi chảy vào thành phố có nét khác
biệt so với khu chảy ở ngoại ô.
+ Dòng sông trở nên vui tươi nhưng cũng rất êm dịu, như một
điệu slow tình cảm của xứ Huế.
+ Dòng sông như người con gái tinh tế đánh đàn trong đêm
khuya.

Câu 4: Cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng
sông" là cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình yêu say đắm quê
hương, xứ sở, đặc biệt với Huế và Hương giang.

● Cái tôi mê đắm và tài hoa:


- Miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý:
+ Cẩn trọng và kì công đúc kết từng câu từng chữ tinh tế và
ngập tràn ưu ái, miêu tả dòng chảy của Hương giang từ
thượng nguồn đến khi về đồng bằng.
+ Dẫn chứng: "bản trường ca của rừng già", "cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại", là "người mẹ phù sa của một
vùng văn hóa xứ sở", "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa
cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi
đến đánh thức", "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế"...
=> Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ
lùng.

- Góc nhìn lịch sử về dòng sông:


+ Trong cái nhìn của nhà văn, sông Hương là "dòng sông của
thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc".
+ Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một
dòng chảy địa lý của thiên nhiên, nó từ lâu đã trở thành một
sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước trong những tháng ngày
gian khổ hào hùng của dân tộc.

- Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ
thuần nhất của dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú
khác. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng cho người đọc.

- Tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật:
+ Đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : "rầm rộ giữa
những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác,
cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và
cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm
dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng".
+ Lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh
phong phú.
+ Đặc biệt, sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh,
gợi hình ảnh dòng sông sinh động như con người, lúc "rầm
rộ" và "mãnh liệt", lúc "dịu dàng" và "say đắm"; khi lại "vui tươi
hẳn lên".
=> Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo
đã giúp tác giả nêu bật những cảm nhận đa dạng về sông
Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai
đã đặt tên cho dòng sông" trở nên đầy say mê và hào hứng.

● Cái tôi uyên bác và giàu vốn hiểu biết:


- Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như thông thuộc từng bước
đi, ngã rẽ, dòng chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ nào
yên ả…
- Ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả người Huế
cũng không nghĩ đến: sông Hương giống như "người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở".

- Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc
điểm văn hóa thú vị của sông Hương.
+ Vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy
bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều
Nguyễn... Hay còn là dòng sông thi ca, cội nguồn cảm hứng
cho biết bao nghệ sĩ.
+ Giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương:
"Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông
xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của
trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi
mãi".
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người
đọc nhiều tri thức về sông Hương nói riêng và Huế nói chung.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3

Câu 1:
a. Huế - người tình mong đợi trong mắt sông Hương: Trong mắt sông
Hương, Huế đã hiện lên với những hình ảnh đầy thơ mộng với
những bãi biển xanh biếc, hay chiếc cầu trắng của thành phố in
ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non.Sông Hương và
Huế chẳng khác nào một cặp tình nhân, quyến luyến, ngập ngừng,
dùng dằng tiếc nuối bởi sông Hương làm đẹp cho Huế, và Huế
cũng khiến sông Hương mang vẻ đẹp riêng không lẫn với bất kì
dòng sông nào.

b. Sông Hương đáp lại tiếng gọi nao nức: Sông Hương đáp lại tiếng
gọi nao nức: Vui tươi hẳn lên giữa những bãi biển xanh biếc, sông
Hương uốn lượn một cánh cung nhẹ nhàng tới Cồn Hến, đường
cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng”
không nói ra của tình yêu.

c. Một vài câu thơ trong cuộc gặp gỡ Kim - Kiều mà em liên tưởng
đến khi đọc áng văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

Câu 2:
a. Nhịp chảy của dòng sông Hương trong lòng thành phố được tác
giả thể hiện bằng hình ảnh trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh
vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về.
- Những điều tác giả đã liên tưởng, so sánh để cảm nhận cái riêng
độc đáo của nhịp chảy dòng Hương Giang: Tác giả đã ví nhịp chảy
này như là một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế.
- Lí giải của tác giả về nhịp chảy: Tác giả muốn khắc họa lên sự
ngập ngừng của sông Hương khi đi qua Huế, vừa muốn đi vừa
muốn ở, vương vấn nỗi lòng.

b. Trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước, Hương Giang đã trở
thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
- Vai trò của sông Hương với nền âm nhạc cổ điển Huế: có quan hệ
gắn bó với nhau, vì nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành
trên mặt nước của dòng sông này.
- Sông Hương đã nuôi dưỡng cảm xúc cho Nguyễn Du trong bao
năm ông lênh đênh trên quãng sông này với một Phiến trăng sầu.
Kể từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều.
- Sông Hương ở đây được cảm nhận theo nhiều góc độ khác nhau
và chủ yếu là từ âm nhạc, “sông Hương đẹp như điệu slow chậm
rãi, sâu lắng, trữ tình”.

Câu 3:
a. - Cách sông Hương rời khỏi kinh thành: Sông Hương chếch về
hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong
sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu
xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi
dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối
ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.

- Lí giải của tác giả về hành động “bất ngờ biết bao” của dòng sông:
Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm
trường đình.Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh
đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao.
Tác giả gọi sự chuyển dòng đột ngột là nỗi vương vấn, cả một chút
lẳng lơ kín đáo của tình yêu.
b. Câu Kiều được tác giả nhắc đến trong đoạn là: Nàng Kiều trong
đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim
Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn
nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu
vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân
nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

c. Trong liên tưởng của tác giả, lời thề của sông Hương với Huế đã trở
thành lời thề của Thúy Kiều và Kim Trọng.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 4

Câu 1:
a. Lịch sử của dòng sông Hương qua các thời kỳ:
- Từ góc nhìn lịch sử, sông Hương không còn là cô gái “Di – gan
man dại”, không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng
Châu Hóa” mà trở thành chứng nhân của những biến thiên lịch sử.
Nhà văn ví sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh
biếc” -> Sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông
Hương là một bản anh hùng ca, đồng thời giữa đời thường sông
Hương là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về,
còn nhớ…”.

- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn thấy từ dòng sông những dấu tích
lịch sử; từng nhánh rẽ của dòng sông, đến “những cây đa, cây cừa
cổ thụ” cũng hàm ẩn một phần lịch sử:
+ Nhà văn đã ngược về quá khứ để khẳng định vai trò của dòng
sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các Vua Hùng,
sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong những thế
kỉ trung đại, với tên gọi Linh Giang, nó đã “oanh liệt bảo vệ
biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Sông Hương gắn
liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm
máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với
cuộc CMT8 với những chiến công rung chuyển. Và sông
Hương cùng những di sản văn hóa Huế oằn mình dưới sự tàn
phá của bom Mỹ… -> Chất trữ tình của tùy bút giảm đi,
nhường chỗ cho chất phóng sự với những sự kiện lịch sử cụ
thể.

b. Hình ảnh sông Hương là thiên “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc” gợi trong em suy nghĩ:
- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi
bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”,
chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa
thế kỉ XIX,...
- Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với
đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,...

=> Sông Hương trở thành dòng linh giang của tổ quốc, chứng nhân
lịch sử cho bao sự kiện thăng trầm của dân tộc, là dòng sông của
thời gian ngân vang của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.

Câu 2: Các câu thơ được tác giả dẫn ra hoặc gợi liên tưởng tới trong bài
kí:
- Dòng sông trắng - lá cây xanh.
- Như kiếm dựng trời xanh.

Câu 3: Sự đồng điệu giữa bài hát và đoạn văn viết về sông Hương lịch sử
của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Cả hai đều mô tả sông Hương – con sông
hiền hòa, dịu êm như câu hát, sông cuồn cuộn êm dịu cùng với mùa xuân
nắng ngập tràn tất cả tạo nên bức tranh sông Hương thơ mộng.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 5

Câu 1: Cụm từ thể hiện sự cảm nhận, đánh giá khái quát nhất của tác giả
về sông Hương từ phương diện vẻ đẹp văn hóa:
“Người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”
Sinh thành toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế
Cảm hứng bất tận cho các nhà văn nghệ sĩ”
Câu 2:
- Các địa danh gắn liền với dòng chảy của sông Hương từ thượng
nguồn về Huế:
- Các địa danh này gợi ra không gian văn hóa Huế:

Câu 3: Các chi tiết cho thấy vẻ đẹp của sông Hương gắn với phong tục
tập quán của con người xứ Huế:
- Khám phá sông Hương từ góc độ văn hoá, tác giả không chỉ nhận
ra sông Hương gắn với nền âm nhạc cổ điển Huế mà nó còn gắn
liền với thơ ca. Tác giả đã khẳng định “Có một dòng sông thi ca về
sông Hương”. Dường như vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông
Hương đã tạo nên một cảm hứng nghệ thuật bất diệt đối với các
nhà thơ.
- Không chỉ gắn bó với nền âm nhạc cổ điển Huế, gắn với thơ ca, vẻ
đẹp sông Hương được khám phá từ góc độ văn hoá còn có sự gắn
bó với những phong tục tập quán, bản sắc văn hoá độc đáo của xứ
Huế. Đó là màu của áo điều lục mà thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc
sau tiết sương giáng, được tác giả cảm nhận “cũng chính là màu
của sương khói trên sông Hương”. Đó là “điệu chảy lặng tờ” của
dòng sông được cảm nhận qua “trăm nghìn ánh hoa đang bồng
bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về”
Tất cả đều là những nét riêng rất Huế được lưu giữ trên sông
Hương.

Câu 4: Vẻ đẹp của sông Hương gợi lên tâm hồn, tính cách của con người
xứ Huế:

- Khi ở thượng nguồn, sông Hương mang vẻ đẹp của 2 người phụ nữ:
+ Cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại đã cất tiếng hát "một
bản trường ca rừng già"', khi "rầm rộ, cuộn xoáy", lúc dịu dàng
và say đắm giữa "dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng".
+ Sau quãng ngắn thượng nguồn, cô gái Di-gan thay đổi hình
hài, tính nết thành "người mẹ phù sa của một vùng văn hoá
xứ sở" bồi đắp những giá trị vật chất và tinh thần tinh thần
cho con người.
- Xuống đồng bằng, sông Hương mang hình hài "người con gái nằm
mơ màng" đợi người tình đến đánh thức, thật giống hình ảnh nàng
công chúa ngủ ở trong rừng... trong câu chuyện cổ tích thơ mộng
của nhà văn Ăng-đéc-xen ngày xưa.

- Vào thành phố Huế, người con gái mơ màng đợi người tình ấy vui
hẳn lên, rồi biến thành "một người tài nữ đánh đàn" với biết bao nét
mềm mại, duyên dáng chan chứa tình yêu, niềm tự hào... của tác
giả.

- Thiên nhiên và dòng sông luôn gắn bó, gần gũi với con người. Qua
điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người
xứ Huế: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ
xở”.

- Qua màu sắc của trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà
văn thấy cách trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái Huế
xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết
sương giáng”

Câu 5:
- Sông Hương đã sinh thành ra nền âm nhạc dân gian và cung đình
Huế. Tác giả phát hiện sông Hương đã trở thành một người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya để đi tới khẳng định “toàn bộ nền âm
nhạc cổ điển của Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng
sông này”. Có lẽ bởi vậy mà ca Huế trên sông Hương luôn là nét
văn hoá hấp dẫn bất cứ du khách nào lần đầu mới đến với Huế.

- Nghĩ đến nền âm nhạc cổ điển Huế, tác giả đã liên tưởng đến
“tiếng nước rơi bán âm” của những mái chèo khuya. Nó cho ta thấy
độ nhạy về thẩm âm và sự hiểu biết sâu sắc về âm nhạc xứ Huế
của tác giả. Điều này thể hiện rất rõ sự tài hoa uyên bác - một trong
những nét phong cách rất đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường -
một cây bút có những hiểu biết phong phú và sâu sắc về lịch sử,
văn hoá và thiên nhiên xứ Huế.
Câu 6: Sông Hương đã nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo cho nghệ sĩ để
sinh thành ra các sáng tác thi ca: Có rất nhiều khám phá về sông Hương
nhưng mỗi khám phá lại gắn liền với một vẻ đẹp độc đáo của dòng sông
thơ mộng này. Tản Đà thì khám phá đó là “dòng sông trắng - lá cây xanh”,
Cao Bá Quát lại đến với sông Hương trong cảm nhận “như kiếm dựng trời
xanh”, còn ở Bà Huyện Thanh Quang nó lại là “nỗi quan hoài vạn cổ với
bóng chiều lảng bảng”. Ở thơ Tố Hữu nó là sức mạnh phục sinh của
những kiếp giang hồ “Trên dòng Hương Giang”. Và sông Hương cũng
chính là nơi sản sinh ra Ai đã đặt tên cho dòng sông? - một tác phẩm
xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Câu 7: Tác giả là cây bút uyên bác tài hoa, kí Hoàng Phủ Ngọc Tường
vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ và thường gắn liền với xứ Huế. Kí
Hoàng Phủ Ngọc Tường thường là kí tâm linh nên rất phong phú nội
dung thông tin về văn hóa lịch sử. Cái tôi trong bút kí khác với cái tôi
trong thơ trữ tình hay trong truyện ngắn, nó là cái tôi trực tiếp. Và chính
những nét độc đáo ấy của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo nên sức
hấp dẫn cho các tác phẩm của ông bởi ở thể loại kí, sức hấp dẫn của tác
phẩm không chỉ phụ thuộc vào sự quan sát , ghi chép, cũng không chỉ
dựa vào những tư tưởng hay lượng tri thức mà nó chứa đựng. Một bài
bút kí có hấp dẫn hay không phụ thuộc phần lớn vào sức hấp dẫn của cái
tôi tác giả.

Câu 8: Qua bài kí, ta có thể cảm nhận được tấm lòng của nhà văn dành
cho thiên nhiên, cho đất Huế, sâu xa hơn là tấm lòng cho quê hương đất
nước, thiết tha với những giá trị cổ xưa của dân tộc. Đó là những giá trị
mà cuộc sống hôm nay vẫn cần đến. Dòng sông Hương không chỉ bồi
đắp nên một nền văn hóa cố đô mà còn làm màu mỡ thêm cho cuộc
sống của mỗi chúng ta hiện tại.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 6

Câu 1: Sự đặc biệt về mặt hình thức và nhan đề: Lấy tên nhan đề cho bài
bút ký dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn dắt, gợi mở
người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát vọng,
niềm tự hào của con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây
dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ Huế.

Câu 2: Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” thể hiện niềm biết ơn đối
với những con người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ
đẹp của đất nước.

Câu 3:
- Trong bài kí, tác giả đã trả lời tên của dòng sông Hương bằng một
huyền thoại mỹ lệ của người dân làng Thành Chung: “Người làng
Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì quá yêu
quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của
trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi
mãi”.

- Qua đó, những người dân xứ Huế, những con người kiến tạo nên
bản sắc văn hóa của xứ Huế cũng chính là người đã đặt tên cho
dòng sông - một nhân chứng lịch sử chứng kiến những thăng trầm
của xứ Huế, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử.

Câu 4: Câu trả lời của tác giả gửi đến người đọc thông điệp: Nói lên khát
vọng của con người là đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hóa và
lịch sử. Gợi lên niềm biết ơn đối với những người đã khai phá miền đất
này, niềm tự hào về quê hương. Mặt khác không thể trả lời vắn tắt trong
một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ
của dòng sông.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 7

Câu 1: Sông Hương - một thủy trình tự nhiên:

- Sông Hương được hợp thành từ hai con sông Tả Trạch và Hữu
Trạch, sông Hương như một dải lụa mềm mại, dài miên man, uốn
lượn chạy qua bao cảnh đẹp xứ Kinh kỳ mộng mơ, từ khu vườn Vỹ
Dạ với những thảm cỏ xanh tươi qua ngôi chùa Thiên Mụ cổ kính
văng vẳng tiếng chuông ngân nga, rồi rẽ vào sông Bạch Yến để
lãng đãng phiêu du cùng mây gió. Trên hành trình ngao du ấy, dòng
sông quyện theo những mùi vị và hương thơm của muôn vàn cây
cỏ lá và thảo mộc nhiệt đới tạo nên mùi thơm ngát hương đặc
trưng cho dòng sông.

- Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca
của rừng già, bản trường ca cất lên cái âm vang mãnh liệt của sự
hùng vĩ của núi rừng đại ngàn. Không những thế, dòng sông còn
mang thiên tính của một “nữ nhân” tài sắc vẹn toàn. Trong lòng
Trường Sơn, sông Hương mang vẻ đẹp hoang dại, nguyên sơ, thánh
thiện của tự nhiên như thiếu nữ.

- Vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế- cuộc hành trình
đi tìm tình yêu từ nguồn đến kinh thành Huế. Thủy trình của sông
Hương như người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp
trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích.

- Vẻ đẹp của sông Hương trong lòng thành phố Huế. Sông Hương
gặp thành phố như đến điểm hẹn tình yêu, nó như tìm được chính
mình nên vui tươi, êm dịu.

- Vẻ đẹp của sông Hương khi rời xa thành phố Huế. Sông Hương lưu
luyến, bịn rịn không nỡ rời xa.

Câu 2: Sông Hương - dòng trầm tích của lịch sử, văn hóa:

- Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi
dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy
trong sách Địa dư của Nguyễn Trãi, nhẹ nhàng soi bóng kinh thành
Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, hòa mình với lịch sử bi
tráng của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX hay chứng nhân bão táp
Cách mạng Tháng Tám, cuộc Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968.

- Trong đời thường, sông mang vẻ đẹp giản dị của người con gái dịu
dàng, nết na của đất nước.
- Tên của dòng sông được lý giải bằng huyền thoại mĩ lệ. Huyền
thoại về tên của dòng sông đã nói lên khát vọng của người dân ở
đây muốn đem cái đẹp, tiếng thơm để xây đắp lịch sử, văn hóa của
quê hương.

Câu 3: Sông Hương - dòng cảm xúc nhà văn dành cho quê hương xứ sở:

- Bằng vốn hiểu biết phong phú trong các lĩnh vực địa lý, lịch sử, văn
hóa,... cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ như so
sánh, nhân hóa , ẩn dụ , hành văn ngôn từ nhẹ nhàng, gợi cảm, giàu
sức biểu đạt và nhiều thủ pháp điệp cấu trúc, động từ mạnh tác giả
đã tô vẽ bức tranh sông Hương khắc cốt ghi tâm trong lòng tác giả.

- Đặc sắc trong phong cách văn chương của nhà văn là sức liên
tưởng, trí tưởng tượng phong phú, kì diệu. Ông xứng đáng là nhà
bút kí đại tài. Từng câu chữ trong bài văn đều là tình yêu xứ sở đậm
đà.

Câu 4: Sông Hương - bút lực của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

- Tâm hồn của tác giả rất tinh tế, nhạy cảm trước trước cái đẹp trữ
tình sâu lắng của thiên nhiên, cảnh vật xứ Huế. Nhà văn không chỉ
nhìn nó bằng đôi mắt mà còn cảm nhận nó bằng tất cả tâm tư xúc
cảm. Dường như trong những bức chân phong sương của lữ khách
đi tìm và ngắm nhìn vẻ sóng sánh của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc
Tường cũng chỉ thấy sự son sắt, dành trọn một lòng mình cho quê
hương.

- Ông trân trọng nhìn ngắm sắc nước hương trời nơi Hương giang
của Huế thơ mà liên tưởng, hình dung đến sắc vóc như cô gái.

- Nhà văn yêu, thấu suốt dòng sông Hương, vì thế ông đã lặn sâu
vào từng nét sông qua mỗi mùa, mỗi khúc giao cảm, qua mỗi hành
trình của Hương giang để thấu hiểu mọi ngóc ngách của dòng
sông.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như cũng hòa tâm tưởng mình với
hải âu, tưởng như mình cũng hụt hẫng bởi dòng chảy cuộn xoáy
không nhẫn nại, không đợi chờ. Trong lòng ông mang nuối tiếc nhớ
về con sông quê hương với biết bao niềm trân trọng.

- Trái tim của người nghệ sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường dường như
cũng hòa mình âm thanh êm dịu của tiếng đàn bên sông vào buổi
đêm mộng mơ.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 8

Câu 1: Đặt tên cho văn bản: Nước chảy mây trôi

Câu 2: Theo văn bản, dòng sông trong văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là
biểu tượng của văn hóa và đời sống.

Câu 3: Ngoài những ý nghĩa như tác giả văn bản trên đã khái quát, dòng
sông trong văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là biểu tượng của lịch sử và văn
hóa, sinh hoạt và phong tục, văn chương và đời sống, con người và thiên
nhiên...Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng
và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị
văn hóa, vừa phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng
tạo cho những người nghệ sĩ, vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng
và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại xâm...Song dường như sau tất cả
những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều bí ẩn chưa được
khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con
người.

Câu 4: Cảm xúc, suy nghĩ về vẻ đẹp, vai trò của những dòng sông trong
cuộc sống chúng ta.

“Quê hương là còn đò nhỏ, êm đềm khua nước ven sông”. Tuổi thơ chúng
ta ai mà chẳng gắn liền với dòng sông quê hương. Bao bài hát bao lời thơ
đã gửi gắm tình cảm từ con sông ấy.
Dòng sông quê hương – dòng sông của tuổi thơ, dòng sông ấp ủ tôi
trong tình yêu thương, dòng sông đỏ màu phù sa, đỏ màu lúa chín, đỏ
màu yêu thương. Phải chăng con sông này không chỉ bồi đắp từ phù sa
mà còn bồi đắp lên từ tình yêu thương tha thiết? Văng vẳng bên sông
tiếng ru ầu ơ, tiếng hò đò, tiếng mái chèo khua nước, và cũng văng vẳng
bên sông tiếng trái tim, tiếng yêu thương nhẹ nhàng mà đằm thắm kì lạ!
Còn nói được gì đây khi nghe thấy, cảm nhận thấy câu hát quan họ mượt
mà, trữ tình vào một đêm trăng thanh ở bến sông? Đêm trăng thanh, đêm
trăng vũ hội của dòng sông. Cùng dòng sông ấy, buổi sáng thì trong trẻo,
mát lành, buổi chiều hoàng hôn đã ngự trị thì hồng rực lên, sáng ánh lửa
còn khi trăng đã chui ra khỏi cái vỏ ngày thì dòng sông lại lấp lánh trong
bộ xiêm áo của nàng lọ lem, sáng và đẹp đến lạ kì! Lắng nghe, bạn còn
nghe thấy cả tiếng vĩ cầm du dương, réo rắt, lúc trầm, lúc bổng vang lên
từ đáy sông. Đó chính là lúc sông đang hát đấy, sông đang hát lên khúc
tình ca, sông đang hát lên, hát về cuộc đời của mình, hát về quê hương.

Chỉ thế thôi, chỉ đơn giản là tiếng nước chảy thôi nhưng sao mà nặng tình
đến thế, lòng người phải chăng cũng rung động trước thứ tình cảm ấy?
Dòng sông ấy nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ của tôi, sẵn sàng mở rộng
vòng tay đón tôi vào trong làn nước mát lành. Tuổi thơ tôi tắm mát trong
dòng sông yêu thương. Dòng sông ấy chứa đựng bao tình yêu thương
của dân làng tôi, một tình yêu đơn sơ, giản dị mà thật cao quý. Tình yêu
này vun đắp cho một tình yêu còn thiêng liêng và cao cả hơn, đó là tình
yêu quê hương, đất nước, yêu xóm làng thân thuộc, để rồi từ nơi này bao
người con đã ra đi không trở về nhưng tôi biết trong trái tim của họ vẫn in
hình con sông yêu thương, dòng máu trong người họ chảy ra, mang màu
con sông yêu thương vì chính họ cũng đã từng tắm trong dòng sông này.
Sao quên được những ngày nắng hạn, dòng sông cạn nước, trong đêm
thanh tôi nghe thấy tiếng khóc than ai oán của con sông, sao mà thương
đến thế. Và cũng sao quên được những ngày mùa bội thu, mọi người
cũng vui mà dòng sông cũng vui, tôi biết nó đang nghĩ gì, nó đang rất vui
cùng dân làng. Con sông ấy cùng như một con người biết yêu thương,
biết giận hờn, lúc vui lúc buồn. Tôi yêu dòng sông xiết bao.

Rồi mai đây, có thể tôi là một bác sĩ, một kĩ sư hay một người lao động
nhưng tôi vẫn chỉ là một đứa trẻ bé bỏng đối với dòng sông yêu thương.
Dòng sông ấy mãi luôn sát cánh bên tôi, tiếp thêm sức lực để tôi vững tin
vào cánh cổng đi tới tương lai tươi sáng muôn màu.

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 9

Câu 1: Điểm chung của hai dòng sông Hương và sông Đà:

- Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một
nhân vật trữ tình có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng
biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước.

- Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội:
+ Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo
và dữ dội của nó trên nhiều phương diện khác nhau cảnh trí
dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như đang bày trùng vi
thạch trận.
+ Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa
như bản trường ca của rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng
khoáng và man dại….

- Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:


+ Sông Đà: dòng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài,
màu nước thay đổi qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính.
+ Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những
dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông
Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái ngủ mơ màng
chờ người tình mong đợi đánh thức, được ví như điệu slow
tình cảm dành riêng cho Huế…

- Hai dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm
mĩ:
+ Sông Đà là nơi hội tụ nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên
Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ
mộng.
+ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ
ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với
vẻ đẹp của người dân xứ Huế.

- Cả hai tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức
trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng hai dòng
sông.

Câu 2: Điểm riêng:


a. Sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân:

- Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đậm nét hung bạo, dữ dội
của sông Đà giống như một kẻ thù hiểm độc và hung ác.

- Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá
bày trùng vi thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người.

- Sông Đà được cảm nhận ở chính nét dữ dội, phi thường, khác lạ:
tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con trâu mộng, đá
trên sông đà mỗi viên đều mang khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến…

- Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật
sự tài hoa, tài trí của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như một
chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt thác của người lái đò là mỗi lần
ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá…

b. Sông Hương trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường:

- Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và
nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong
manh có tình yêu say đắm. Khi ở thượng nguồn, dòng sông là cô
gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu Hóa là cô
thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đêm
khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người
con gái dịu dàng của đất nước.
- Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như
người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa
này từ bao đời nay.

- Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình
của sông Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi.
Khi chảy giữa Huế, sông Hương mềm hẳn đi như một tiếng “vâng”
không nói ra của tình yêu. Trước khi đổ ra cửa biển, sông Hương
như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể hiện nỗi niềm
vương vấn với chút gợi cảm kín đáo.

- Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn
thể hiện nét đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế.

You might also like