You are on page 1of 10

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nguyễn Tuân

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ VẦ TÁC PHẨM


1. Nguyễn Tuân là tác giả lớn của văn học hiện đại Việt Nam với những thành
tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Sáng tác của Nguyễn Tuân mang
phong cách riêng và độc đáo trong đó nổi bật chất tài hoa uyên bác. Là một nghệ sỹ suốt
đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở những phương diện văn
hoá thẩm mĩ, thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
2. Người lái đò sông Đà là bài tuỳ bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong
tập Sông Đà năm 1960. Sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của
Nuyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 -1960, chuyến đi
không chỉ nhằm thoả mãn niềm khát khao xê dịc mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng
trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã
qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hàng ngày của họ. Tác
phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân.
 Lời đề từ của tuỳ bút Người lái đò sông Đà
- Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông!(Wladyslaw Broniewski –Ba Lan): Nhà
văn đã mượn câu thơ mang cấu trúc cảm thán để bộc lộ những xúc cảm đang dâng trào
mãnh liệt trong lòng. Tiếng hát trên dòng sông có thể là tiếng hát của những người chèo
đò, kéo thuyền, vượt thác, tiếng hát thể hiện tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên
và cuộc sống lao động của con người Tây Bắc; cũng có thể hiểu là tiếng hát say mê,
phấn khích đầy ngưỡng mộ của nhà văn trước vẻ đẹp của dòng sông. Lời đề từ do đó đã
thể hiện cảm hứng chủ đạo của tuỳ bút, đó là tình yêu đắm say, tha thiết của nhà văn với
thiên nhiên và con người trên sông Đà.
- Chúng thuỷ giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu (Nguyễn Quang Bích): Hai
câu thơ chữ Hán đã đề cập đến một nét độc đáo của sông Đà khi mọi dòng sông đều
chảy về hướng đôngm chỉ có sông Đà một mình chảy theo hướng bắc – đó cũng là đặc
điểm khi gợi hứng thú khám phá và chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời tìm kiếm
cái Đẹp và sự độc đáo. Nhưng khi mượn câu thơ làm lời đề từ, có lẽ tác giả Người lái đò
sông Đà không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà còn nhằm khẳng
định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương, đó là văn phong đầy sáng
tạo của một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái Tôi cá nhân, về Bản Ngã, về cá tính riêng
trong sáng tạo nghệ thuật.
Với hai lời đề từ, tác giả Nguyễn Tuân đã cho thấy đồng thời cả cảm hứng sáng
tác và phong cách nghệ thuật độc đáo của mình trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà.
II. TÌM HIỂU ĐOẠN TRÍCH
1. Phân tích hình tượng sông Đà
Qua ngòi bút của một nhà văn luôn khám phá thế giới ở phương diện văn hoá,
thẩm mĩ, trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà , dòng sông Đà đã hiện lên như một công
trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hoá với hai ấn tượng sâu đậm: dữ dằn, hung bạo và
thơ mộng, trữ tình.
1.1. Dòng sông hung bạo
Là nhà văn của những cảm giác mãnh liệt luôn có hứng thú đặc biệt với núi cao,
rừng thiêng, với gió bão và thác ghềnh dữ dội, ngòi bút của Nguyễn Tuân tung hoành
sảng khoái giữa dòng thác ngôn từ. Nhà văn tài hoa đã khiến ngôn từ dựng lên ghềnh
thác, khiến nhịp điệu tạo thành sóng gió, dùng những thao tác so sánh, nhân hoá dẫn dắt
người đọc tới trùng điệp những hình dung, liên tưởng hiến cho sự hung bạo của sông Đà
hiện lên đặc biệt sống động và truyền cảm.
1.1.1. Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi lên sự hùng vĩ của sông Đà
chính là cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh vách thành
đã phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe doạ
của sông Đà với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. Tác giả đã dùng những
chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của
lòng sông, độc cao của vách đá, như chi tiết mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách… Độ hẹp của
lòng sông Đà khi bị những vách đá lớn bên bờ sông chèn ép tới nghẹt thở còn được tái
hiện một cách tài hoa khi nhà văn sử dụng động từ chẹt trong một hình ảnh so sánh rất
ấn tượng về cái yết hầu: vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đặc biệt,
nghệ thuật miêu tả sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được
thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác với chi tiết ngồi
trong khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, tạo ra ấn tượng đặc biệt
cho thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy nhà cao gợi ra vách đá, truyền cho người
đọc những hình dung về cái tăm tối, lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền trôi từ ngoài vào
khúc sông có đá dựng vách thành. Những hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp cấu trúc
trùng điệ của kiểu ngôn từ không xác định như nào, mấy… trong so sánh về một khung
cửa sổ nào trên cái tầng lầu thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện dã làm tăng thêm cảm giác
về dộ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá qua cái nhìn chới với rợn ngợp của người
quan sát.
1.1.2. Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn
miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loong.
Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các thanh sắc, những hình
ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ nhau trong cụm từ ngữ hàng cây số nước xô đá,
đá xô sóng, sóng xô gió… đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên
dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà. Động từ xô điệp lại trong cả ba vế câu
gây ấn tượng về những chuyển động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên
nhiên, ghềnh thác; kết cấu ngôn ngữ đặc sắc như mô phỏng hình ảnh những con sông dữ
cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống,
trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh. Từ láy ghùn ghè và hình ảnh so sánh mang đậm sắc
thái nhân hoá về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loong lúc nào cũng như đòi nợ xuýt
bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn,
lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm doạ, uy hiếp con người.
1.1.3. Đem lại những ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của sông
Đà là hình ảnh những cái hút nước trên sông.
Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước hiện ra trong một lạo
hình ảnh cái giếng bê tông… xoáy tít, trong âm thanh ghê sợ của cửa cống cái bị sặc…,
hoặc trong cả hình ảnh và âm thanh khi tưởng tượng ra mặt nước đang bị rót dầu sôi –
đó là những hình ảnh và âm thanh cho thấy cả sức mạnh và sự hung bạo của hút nước.
Từ láy tượng hình lừ lừ, từ láy tượng thanh tăng nghĩa ặc ặc cùng những chi tiết so sánh
mang sắc thái nhân hoá khi miêu tả nước thở và kêu như cửa cống cái… tất cả đều góp
phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ
đến ghê người. Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã
giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút
nước đáng sợ. Nhà văn đã phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những
bè gỗ to lớn, nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy hút nước hay chiếc thuyền bị hút trồng
cây chuối ngược rồi vụt biến đi và rồi tan xác ở khuỷnh sông dưới… - đó là những hình
ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng sâu đậm về những sức
mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Không dừng lại trong hình dung, tưởng tưởng
về những casibef hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, nhà
văn còn tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống
tận đáy hút nước xoay tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã
được miêu tả băng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền
cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng
sông nước xanh ve, thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi chân thực của con người khi
phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan và bất cứ lúc nào cũng có thể
đổ ụp vào người.
1.1.4. Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất trong diện mạo và tâm địa của thứ kẻ
thù số một của con người phải là thác đá sông Đà.
a. Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước thác
bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng con người: khi oán trách… van xin,
khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… khi rống lên… Nghệ thuật nhân hoá đã khiến
thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, đe doạ
con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể
hiện qua cách nhà văn dùng một hệ thống những từ ngữ gợi tả âm thanh thao những
cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe
doạ hung hãn của dòng sông, vừa gợi tả khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với
thác đá sông Đà; mặt khác, đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hài lòng, hồi hộp
đầy hứng thú cho người đọc. Đặc sắc nhát là những phép so sánh kì thú trong một câu
văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa… rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng… nhà văn đã thể hiện tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, khi đặt
những hình ảnh tương phản trong một trường liên từ bất ngờ, thi vị; lấy lửa tả nước, lấy
rừng tả sống… Qua so sánh, tiếng thác đá dông Đà được hiện lên như những âm thanh
man dại, bản năng của một loài động vật hung dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, lại
kết hợp với âm thanh của những thân cây vầu, tre khô, rỗng, nổ dữ dội trong lửa, cách
miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận qua thính giác, không
chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc biệt
của thị giác, xúc giác.
b. Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng thích thú:
Tới cái thác rồi!, nhà văn đã đồng thời tả cả nước thác trong hình ảnh: sóng bọt đã trắng
xoá cả một chân trời đá. Tính từ trắng xoá lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về
gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên mặt sóng, trên
một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh chân trời đá, cau văn miêu
tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tói choáng ngợp của thác đá sông Đà
ngay trong ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng và
gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu tả qua
một hình ảnh nhân hoá đặc sắc: đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục… mỗi lần chiếc
thuyền nào xuất hiện… là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Sử dụng thuật
ngữ của quân sự trên cơ sở những quan sát thực tế, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái bí ẩn
hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn năm mai phục, khi
dữ dằn đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Một
loạt những thuật ngữ của quân sự, thể thao, võ thuật như thạch trận, cuộc giáp lá cà,
hàng tiền vệ, boong ke, pháo đài…, một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái
nhân hoá đặ trong những nhịp câu ngắn, nhanh, dồn dập: mặt sông rung tít, nước thác
reo hò…hò la… ùa vào… bẻ gãy… thúc gối… đội thuyền… đánh miếng đòn độc hiểm…
bám lấy thuyền… đánh khuýp quật vu hồi… khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành
một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên. Sự ác
liệt đó còn được tô đậm hơn bởi những âm thanh cuồng loạn của một trận nước vang
trời thanh la não bạt… Có lúc thác đá còn được động vật hoá để tăng thêm sự hung hãn
hoang dại như trong hình ảnh: dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá.
Thậm chí sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông đà còn được
nahf văn đẩy lên mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông
thần đá. Tuỳ theo hình dạng, kích thước của đá và góc nhìn của nhà văn mà đá sông Đà
được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, hi thì ngỗ ngược… nhăn nhúm méo mó
bởi sự gồ ghề; lúc to lớn qua một dáng vẻ bệ vệ oai phong lẫm liệt; khi này là tảng đá
với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự xấc xược trong cái hất
hàm thách thức; lúc khác lại là tảng đá lớn nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình
ảnh nhân hoá về thằng đại tướng… tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng… Thác đá sông
Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ thuyền đối phương, khi dàn sẵn trận địa và nhất là khi
bày thạch trận mai phục và tấn công con người: Vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh
nằm lập lờ phía tả ngạn, vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch
qua phía hữu ngạn, vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồng sống… lại
ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
c. => Nghệ thuật nhân hoá cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhất
là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc của con người đã giúp Nguyễn Tuân
làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là thác đá trên
dòng sông. Kết hợp với sóng gió, với nước thác, đá sông Đà không im lìm và bất động
như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà gào thét sống động, không vô tri mà ác hiểm, dữ
dằn, đá sông Đà đã không chỉ lộ diện mạo mà cả tâm địa của thứ kẻ thù số một của con
người.
1.1.5. Tuy nhiên, ngay khi miêu tả một sông Đà hung bạo, hiểm ác, làm hiện
lên tất cả diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người, nhà văn của những
cảm giác mãnh liệt, những phong cách phi thường, tuyệt mí, những gió bão, thác ghềnh
dữ dội , núi cao, vực sâu vẫn luôn truyền cho người đọc niềm say mê khát khao muốn
được chiêm ngưỡng vẻ đẹo kì thú của thiên nhiên. Khi miêu tả sông Đà hung bạo khúc
thượng nguồn, Nguyễn Tuân không giấu được niềm say mê, phấn khích đối với những
hình ảnh, âm thanh, hay những hoạt động của dòng sông. Nhà văn đã say sưa , trước
khúc tráng ca mãnh liệt của hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồn gió gùn ghè… là âm thanh man dại tới cuồng loạn của thác nước trong sự so sánh
với lửa, rừng, với đàn trâu da cháy bùng bùng, đó cũng là sự hùng vĩ mênh mông của
hác đá sông đà với sóng bọt trắng xoá cả một chân trời đá… sự ghê rợn sảng khoái của
một trận nước vang trời thanh la não bạt… tất cả đã tạo thành một tập hợp hoành tráng
của những sức mạnh thiên nhiên hung dữ, một cảnh trí có sức hấp dẫn lại kì bởi cả nỗi
sợ hãi và niềm say mê. Thậm chí khi miêu tả dòng sông đà ở khúc hạ lưu êm ả, câu văn
của Nguyễn Tuân vẫn bâng khuâng trong cảm giác dòng sông quãng này lững lờ như
nhớ thương những hòn đá thác đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Từ láy xa
xôi gợi nỗi nuối tiếc, nhớ nhung của chính nahf văn với khúc thượng nguồn với những
sức mạnh hoang dại, với những cuồn cuộn thét gào sóng gió, với vẻ đẹp dữ dội hào
hùng.
1.1.6. => Thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn tả tài hoa, những tri thức
uyên bascc, nahf văn của những cảm giác mạnh, những cảnh trí dữ dội, phi thường đã
làm hiện lên hình ảnh sông đà hung bạo, hiểm ác không chỉ như một con thuỷ quái, kẻ
thù số một của con người mà còn trở thành một công trình mĩ thuật kì vĩ truyệt vời của
tạo hoá, khơi gợi cảm giác hãi hùng đầy ngưỡng mộ, mê đắm.
1.2. Dòng sông trữ tình
Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự
tương phản. Trong tuỳ bút Người lái đò sông Đà sự tương phản hiện hwx ngay trong
đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng sông đà thực sự ngoài chất hung bạo không thể
không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng
sông vặn mình vào một cái bến cát, khi chút bọt nước cuối cùng của thượng nguồn xèo
xèo tan trên cát, ngòi bút tài hoa của NT bất ngờ dẫn người đọc đến một sông Đà êm
đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.
1.2.1. Làm nên chất trữ tình đầu tiên là hình ảnh sông Đà tuôn dài tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân. Chính nhịp câu,
lời văn và nghĩa chữ đã góp phần tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu
văn raasat daafi chỉ có dấu ngắt duy nhất kết hơp điệp ngữ tuôn dài, tuôn dài… vừa gợi
sinh động độ dài của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch, gợi hình ảnh
dòng sông tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của biên giới Tây Bắc, miên man chảy
xuống đồng bằng, lặng lẽ hoà vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển. Những thanh bằng
liên tiếp ở câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc
hạ nguồn. Khi so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình nhà văn đem đến cho sông Đà
sự mềm mại đằm thắm duyên dáng đầy nữ tính nhưng lại không làm mất đi vè đẹp hùng
vĩ lớn lao của dòng sông. Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của nguyễn tuân có thể thấy
sông đà đã đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng huyền ảo của mây trời,
sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi
của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Cách miêu tả của nguyễn tuân đã cho thấy vẻ đẹp
của song Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của tổ quốc bao la, sau
nữa vì nó găn bó thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp vang
bóng một thời nay đã có những thay đổi cơ bản trong quan niệm vè thẩm mĩ. Cái đẹp
không còn cô đơn lạc lõng, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị cái đẹp hiện diện
ngay trong cuộc sống bình thường, của những người lao động bình thường.
1.3. 1.2.2. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn hiện ra qua những màu sắc đầy
biến ảo khi vì niềm yêu và sự say mê, NT đã quan sát dòng sông trong sự công phu và
tinh tế trong những thời điểm kahsc nhau, với những trạng thái khác nhau. Đó là dòng
xanh ngọc bích trong sáng, quí giá và êm nhẹ của dòng sông Đà mùa xuân; việc s sánh
màu xanh ngọc bích của sông Đà với màu xanh canh hến của sông Lô sông Gâm không
chỉ là biểu hiện quen thuộc của một nhà văn thị tài thích khoe tài hoa mà còn là sự thiên
vị của một niềm yêu! Đó còn là dòng sông đà lừ lừ chín đỏ vào mùa thu – những từ ngữ
tượng hình đã gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông ddafaaay
nặng phù sa thượng nguồn. Hình ảnh so sánh nước sông đà mùa thu như da mặt người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội mỗi độ thu
về đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc trưng nước sông đà mùa thu mà còn thể
hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa những đe doạ của một dòng sông vẫn năm năm báo
oán, đời đời đánh ghen với con người. Vậy là, ngay khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng
trữ tình của dòng sông, hình ảnh một sông đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu đây
trong sự quan sát và cảm nhận của nhà văn luôn say mê với những cảm giác của mình.
1.4. 1.2.3. Trong niềm yêu nhwos của nguyễn tuân, sông đà gợi cảm như
một cố nhân. Để thể hiện sự gợi cảm của một dòng sông gần thương xa nhớ, nhà văn đã
tạo ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ, cho những bồn chồn ,khát khao. Đó là tình
huống đi rừng lâu ngày, bắt đầu thèm chỗ thoáng, thèm một không gian phóng khoáng
mênh mông, và nhất là thèm ặp lại sông đà – cố nhân! Hai chữ cố nhân vừa là hình ảnh
nhân hoá vừa đưa đến cho dòng sông chút vương vấn cổ kính của đường thi. Đoạn văn
sau đó tràn ngập những cấu trúc so sánh đặc sắc miêu tả dòng sông đà gợi cảm thông
qua việc bộc lộ cảm xúc của con người khi sắp gặp lại dòng sông. Nhìn dòng song thấy
loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy là cái nhìn của
nguwoif chưa ra đến cửa rừng, mới chỉ thấy từng miếng sáng của dòng sông lấp loá,
thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã háp hức, bồn chồn, vội vàng, khao khát.
Khi liên tưởng vạt sông loé lên giống như màu nắng tháng ba đường thi, nguyexn tuân
đã đem đến cho sông đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự trong sáng rực rỡ của
sắc xuân: yên hoa tam nguyệt há dương châu( lý bạch). Liên tưởng của nhà văn làm xao
xuyến những tâm hồn luôn yêu nhớ phong vị đường thi cổ điển để rồi nỗi xao xuyến ấy
mơ hồ lan toả trên dòng song gợi cảm khiến sông đà troi chảy trong không gian mà như
chảy trong thời gian miên viễn, xa xxawm của thế giới đường thi. Sau đó là một câu văn
chỉ nối tiếp chủ ngữ: bờ song đà, bãi sông đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông đà.
Hai chữ sông đà điệp lại cuối mỗi vế câu như nhịp lên niềm say mê phấn khích tạo cảm
giác hân hoan giữa không gian sông đà để rồi say đắm không gian ấy, thậm chí không
kịp bình tĩnh để quan sát bằng lí trí để miêu tả, tất cả đều bị cuốn đi theo những cảm xúc
dồn dập. Cảm xúc gặp lại sông đà cũng được cụ thể hoá trong những so sánh bất ngờ
thú vị: chao ôi! Trông con sông, như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng. Có thể thấy hình ảnh sông đà gợi cảm vô cùng trong tâm hồn nhà
văn qua so sánh trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm . Nắng tuy
hữu hình nhừn lại là vô thể, chỉ có thể nhìn mà không thể nắm bắt. giòn tan là tính từ
dùng để chỉ đặc điểm của những vật thật mỏng manh, dễ vỡ. nắng giòn tan là một ẩn dụ
đẹp để gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng, thật mỏng và thật nhẹ. Cách so sánh ấy giúp
người đọc dễ hình dung ra cảm giác trìu mến nâng niu cùng niềm vui lâng lâng sảng
khoái của nhà văn khi gặp lại dòng sông. Nhà văn của những khát khao xê dịch đã nhiều
làn tới sông đà, và bất cứ lúc nào, nếu muốn, ông cũng có thể tới với cố nhân của mình;
vậy mà qua so sánh, có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông khi naafo cũng tươi
mới, kì diệu như đc nối lại một giấc mơ đẹp, như vừa đc tận hưởng niềm vui chưa từng
có trong đời, lần nào gawjwp cũng như đó là lần đầu tiên, lần cuối cùng, làn duy nhất.
và trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông đà, nó đằm thắm ấm áp như gặp lại
cố nhân, sông đà thực sự trở thành nguowig bạn cũ, người tri kỉ với bao kỉ niệm gắn ó
trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện tại bao hẹn hò chung thuỷ trong tương lai, với
sự gợi cảm của mình, sông đà thực sự trở thành môt cố nhân, một tình nhân dẫu trái tính
mà vẫn có sức hấp dễn mê hoặc lòng nguwoif đến lạ.
1.5. 1.2.4. Và có lẽ nét trữ tình thi vị nhất của sông đà chính là ở sắc thái
lặng tờ hoang dại của nó. Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh bằng:
thuyền tôi trôi trên sông đà. Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn, người đọc vào một
giấc mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa từng có dấu vết con
người. tính từ lặng tờ lặp lại mang ý nghĩa khẳng định: hình như từ đời lí đời trần đời lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi, khiến cho sjw tĩnh lặng của dòng sông
càng thêm yên ả. Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so sánh độc đáo:
bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa. Cách so sánh của nahf văn không hề làm rõ hình ảnh bờ sông, cung không làm cụ
thể hoá những khái niệm trừu tượng mà thậm chí chỉ càng đẩy dòng sông trôi xa vào
miền mộng ảo, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyễn
hoặc của tuổi thơ, và chính trong thế giới ấy mà người đọc cảm nhận rõ hơn về sự lặng
tờ, hoang dại của một dòng sông trong trẻo êm đềm. Đặc biệt nhất là hình ảnh con
huowu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, cất tiếng hỏi nhà văn bằng tiếng
nói riêng của con vật lành. Chi tiết này làm tăng thêm ảo giác như nahf văn đang bước
lạc vào một cõi trong trẻo, an lành đến mức nhà văn bỗng thềm được giật mình vì một
tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa.không một sự miêu tả trực tiếp nào lại khiến sự ặng
tờ hoang dại của dòng sông hiện rõ nét đến thế.
2. Hình tượng người lái đò sông đà
Trước 1945 Nguyễn tuân thường say mê vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những con
người đặc tuyển xuất chúng, vì thế cái đẹp và nguwoif tài thường cô đơn, lạc lõng, vì
hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến những năm đầu XX , đó là những vẻ đẹp
vang bóng một thời thường đem đến sự ngậm ngùi, tiếc nuối. vẫn năm 1945 quan điểm
của nhà văn đã có những thay đổi cơ bản. vẫn nhìn con người từ phương diện tài hoa
nghệ sĩ nhưng bây giờ nguyễn tuân cho rằng bất cứ người lao động nào khi đạt tới trình
độ giỏi giang, điêu luyện trong công việc của mình cũng có thể coi là nghệ sĩ và xứng
đáng được tôn vinh. Trong những sáng tác sau 1945 Nguyễn tuân đã khám phá vẻ đẹp
tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường,
qua đó mà bộc lộ tấm lòng trân trọng yêu thương với họ. Người lái đò sông đà là tuỳ bút
cùng tên cũng là một nhân vật mà nhà văn khám phá và thể hiện không chỉ ở vẻ đẹ tài
hoa mà cò là trí dũng.
2.1. Bối cảnh ông đò xuất hiện
Ngay khi miêu tả dòng sông đà hung bạo khúc thượng nguồn, nguyễn tuân đã có ý
thức tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ, một không gian hoành tráng, lớn lao
xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. đó là không gian của thác
ghềnh hiểm trở của sóng gió cuồn cuộn thét gào , một không gian của những hút nước
ghê rọn, thác đá dư dằn…
2.2. Tình huống bộc lộ vẻ tài hoa trí dũng của con người.
Và để khắc hoạ vẻ đẹp tài hoa của ông đò, nguyễn tuân đã miêu tả một cuộc vượt
thác nguy hiểm và ngoạn mục trong đó nổi bật sự tương phản giữa một thiên nhiên ác
hiểm, hung bạo với con ngườ trí dũng, đó cũng là trận thuỷ chiến dữ dội một bên là
chiếc thuyền then đuôi én mỏng manh và những người lái đò nhỏ bé với một bên là
những trùng vi thạch trận của đá thác, nước thác cùng sóng. Đối thủ của ông đò là cả
một đoàn quân đá hung bạo, dữ dằn. những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao
như dàn sẵn trận địa… dụ thuyền đối phương… đánh khuýp quật vu hồi… Đá với sóng
dữ, thác dữ trở nên hung hãn như trở thành kẻ thù số một của con người. Tác giả còn sử
dụng một loạt từ láy miêu tả diện mạo gớm ghiếc của đám đá sông đà khi thì ngỗ
ngược, nhăn nhúm, méo mó, khi thì tiu nghỉu mặt xanh lờ… một loạt những động từ đặt
trong các câu nhịp ngắn, nhanh dồn dập: nước thác reo hò…hò la…ùa vào… - tất cả
hiện lên sự hung bạo vô cùng của sông đà khi cùng một lúc các sức mạnh của thiên
nhiên kết hợp với nhau tấn công những con thuyền đơn độc và những con người nhỏ bé.
Thiên nhiên sông đà cfon vô cùng xảo quyệt trong việc dàn trận tấn công con người. Để
đưa con thuyền vượt thác sông đà khúc thượng nguồn, nhưng người lái đò phài đối đầu
với một trùng vi thạch trận trên dòng sông.
 Sự dữ dằn, hung bạo và hiểm ác của thiên nhiên sông đà chính là những tình
huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của mình khi người lái
đò phải luôn tỉnh táo, ngoan cường, dũng cảm mới có thể an toàn đưa con thuyền vượt
qua những trùng vi thạch trận.
2.3. Vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ông đò trong trận thuỷ chiến với sóng trên
sông đà
2.3.1. ở vòng vây thứ 1 của thạch trận, khi song thác đánh miếng đòn độc
hiểm nhất, ông đò méo bệch đi – cách sử dụng từ độc đáo giúp nhà văn làm hiện ra
không chỉ gương mặt biến dạng, tráng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt đi vì dầm lâu
trong nước lạnh. Vết thương đau đớn của ông được thể hiện bởi cảm giác toé đom đóm
và cảm giác rát bỏng như lửa cháy: mặt sông bỗng tích tắc loé sáng như một cửa bể đom
đóm rực lửa. trận hỗn chiến gian nan với tương quan lực lượng quá chênh lệch với thác
đá sông đà, ông đò đã ngoan cường cố nén vết thương khéo léo đưa con thuyền vượt
vòng vây thứ nhất của thạch trận. qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo
của người cầm lái, nguyễn tuân không giấu được lòng hâm mộ và cảm phục.
2.3.2. tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên
cường mà còn thể hiện sự thông minh của người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người
nắm chắc binh phá của thần sông thần núi, người đã thuộc qui luật của thác đá, dòng
sông… Ông được miêu tả như dũng tướng tài ba đang điều khiển, thuần phục con ngựa
bất kham của sóng thác sông đà khi nắm chắc bờm sóng… ghì cương… Những động
tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái miết một đường chéo, khi rảnh
mà rảo bơi chéo… cho thấy những biện phá kì diệu của một tay lái ra hoa – trí tuệ và tài
hoa con người thậm chí đã chiến thắng cả thần sông thần đá.
2.3.3. ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong
hình ảnh ẩn dụ về tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận đá
trùng điệp trong đó bức tường vững chắc của lũ đá phòng vệ kết hợp những mũi tấn
công ào ạt không nghỉ của sóng dữ. nhiệm vụ của ông là phải phóng thẳng thuyền, chọc
thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giũa cửa bọn đá hậu vệ chắn giữ, trong khoảnh
khắc cánh cổng đá mở giữa những đợt sóng dữ dội. hình ảnh con thuyền lao vút qua khe
hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp
những danh từ, động từ nối tiếp: vút, vút… đã thể hiện sự điêu uyện khéo léo và sức
mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay người lái, vừa xuyên
vừa lượn của ông đò không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái và biểu cảm:
vút…vút…, qua hình ảnh so sánh về một mũi tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn
hơi nước mà con thuyền xuyên qua – bởi cách so sánh một mũi tên tre xuyên qua hơi
nước, con thuyền không lướt trên mặt nước mà thực sự bay trong làn hơi nước. tài năng
của ông đồ khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu
luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì diệu.
2.4. những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị.
giở giang, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài
hoa nghệ sĩ và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, khi bao giờ
cũng giữ thế chủ động để tìm cho mình một cửa sinh duy nhất giữa bạt ngàn của tử của
những trùng vi thạch trận hiểm ác, dữ dằn; khi không bao giờ cho phép mình chùn
bước, sợ haxiduf chỉ trong khoảnh kahwsc, khi luôn có thể trình diễn nghệ thuật lái đò
điêu luyện của một tay lái ra hoa. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, những
người lái đò đốt lửa trong hang đá, nướng ốm cơm lam và bàn tán về cá anh vũ, cá dầm
xanh…chả thấy ai bàn tán thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải
nước. thái độ bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người anh
hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi họ coi việc chiến thắng song đà dữ dội
hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh thác sông đà chỉ là chuyện
thường ngày.
III.KẾT LUẬN
Người lái đò sông đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong
phong cách nghệ thuật của nguyễn tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn quan sát,
khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hoá thẩm mĩ; miêu tả con người ở phương
diện tài hoa nghệ sĩ. Với việc thực hiện nhuần nhuyễn những nét phong cách ấy, tác
phẩm đã thực sự thành công khi phái hiện và miêu tả chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và
thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cùng chất vàng mười quý giá trong tâm hồn, tính
cách những người lao động bình dị miền núi tây bắc. Tuỳ bút người lái đò sông đà đã
trở thành thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ đẹp hào tráng của con nguwoif trong cuộc chiến
đấu chinh phục thiên nhiên. Với quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, tích cực của nguyễn tuân,
người lái đò nơi thượng nguồn Tây bắc thực sự là một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng
sông nước khi hàng ngày phải chiến đấu và luôn phải chiến thắn thiên nhiên bằng trí
tuệ, sự khéo léo, sức mạnh và lòng can đảm của mình.

You might also like