You are on page 1of 25

BÀI 7 : NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ( 2012)

- Nguyễn Tuân –

*2 hình tượng cần làm sáng tỏ: SĐ và người lái đò SĐ

1.MỞ BÀI SĐ

          Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho
rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vâng! là người nghệ sĩ chân
chính nên Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo
“xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là kết
quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây
Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai
về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình . Đoạn trích “...” tập trung miêu tả
... qua đó thấy đc...

2.MB về người lái đò

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu


Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Đọc những câu thơ trong trích đoạn Đất Nước, trích trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, tôi lại liên tưởng đến ông lái đò trong tùy bút “Người lái
đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ miêu tả vẻ đẹp của con
Sông Đà hung bạo và trữ tình mà còn miêu tả vẻ đẹp của ông lái đò với hai tư cách người
nghệ sĩ trên sông nước và người anh hùng trong lao động bằng một phong cách rất tài
hoa, uyên bác.

II.THÂN BÀI 

1.Khái quát chung cho cả SĐ và NLĐ

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là nhà văn lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc, người
nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách tài hoa, uyên bác,
độc đáo. Ông luôn tiếp cận thiên nhiên ở vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội hoặc thơ mộng, tuyệt mĩ;
luôn tiếp cận con người dưới tư cách của một người nghệ sĩ. Nếu trước Cách mạng tháng
Tám, ông nổi tiếng với tập truyện “Vang bóng một thời” thì sau cách mạng ông nổi tiếng
với tập tùy bút Sông Đà (1960). Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà – là
thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền
Tây Bắc. Chuyến đi này không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu
nhà muốn tìm kiếm chất vàng mười của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa
trong tâm hồn những người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ
mộng đó. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là
một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động
thật phong phú và phức tạp.Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc
hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai
trong suốt cả bài tùy bút.
Nghệ thuật khắc họa hình tượng SĐ

Thành công của đoạn trích nói riêng và tùy bút “Người lái đò Sông Đà” nói
chung là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Nguyễn Tuân sử dụng một
cách linh hoạt và sáng tạo: ngôn ngữ đặc sắc, sử dụng nhiều ngôn ngữ của nhiều
lĩnh vực thể thao, điện ảnh, quân sự..); văn phong khoa học, nhiều biện pháp tu từ:
nhân hoá, so sánh...miêu tả, liên tưởng tưởng tượng độc đáo, bất ngờ. Từ ngữ
phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Câu văn đa dạng,
nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con
Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn,
tâm trạng. Tất cả đã hòa quyện vào nhau chắp cánh và nâng đỡ cho ngòi bút
Nguyễn Tuân thăng hoa cùng tác phẩm.

Câu hỏi phụ liên quan đến SĐ


1. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn
Nguyễn Tuân
Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh
hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng
sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật
khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng.
Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên
nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo
hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và
lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của
người lao động trong chế độ mới.
2. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:
“Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng
vĩ của thiên nhiên đất nước; Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa,
tinh tế.
“Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở
sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú;
ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh,
thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác
và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
“Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất
nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính.

Nghệ thuật khắc họa người lái đò

Với việc sử dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực, cùng với việc huy động đội
quân ngôn từ hùng hậu, công với sự liên tưởng phong phú, táo bạo bất ngờ, so sánh
độc đáo; kết hợp với việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, điệp
từ, điệp ngữ, Nguyễn Tuân đã rất thành công khi miêu tả ông lái đò trong cuộc
chiến đấu với ba thạch trận. Ông lái đò chính là một người anh hùng và người nghệ
sĩ trong lao động sông nước. Cuộc chiến đấu của ông lái đò đã tạo nên một khúc
tráng ca ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động trên sông nước khắc nghiệt.
Câu hỏi phụ liên quan đến người lái đò

1. Nhận xét “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc
mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm
Qua cuộc chiến đấu giữa ông đò với sóng nước sông Đà, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của
người lao động miền Tây Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí
quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và vẻ đẹp của sự tài trí, tài
hoa, giàu kinh nghiệm. Đây chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động
miền Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.
Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca
ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân
vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động
hàng ngày của nhân dân.
2. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn
Tuân.
Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người
lao động mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường làm
việc và trong công việc của mình khi dám đương đầu với thử thách và đạt tới trình độ
điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã phát hiện ra “chất vàng mười đã qua thử lửa” của
ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện
thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự
hào về con người lao động Việt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh
hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang bóng
một thời”thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy anh hùng và nghệ sĩ ngay trong con người
lao động thường ngày, trong công việc bình thường và trong nghề nghiệp cũng bình
thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng
đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc
trong việc xây dựng đất nước và chinh phục thiên nhiên.
3. Cách nhìn mới về người lao động:

Theo Nguyễn Tuân, người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà là
người biến công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật…

Qua hình ảnh người lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục
những con người lao động bình thường, nhỏ bé nhưng đã góp phần không nhỏ trong công
cuộc xây dựng Tổ quốc. Đó chinh là "Thứ vàng 10 đã qua thử lửa của tâm hồn con người
lao động".

4. Nhận xét quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: vẻ
đẹp của con người không chỉ ở phương diện trí dũng mà còn ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.

Tài hoa nghệ sĩ đâu chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao
động đời thường khi con người đạt đến trình độ điêu luyện, thuần thục.

Con người, bất kể địa vị hay nghề nghiệp gì, nếu hết lòng và thành thạo, điêu luyện
với công việc của mình thì bao giờ cũng đáng trọng. Đồng thời qua cảnh tượng vượt thác
của ông đò, Nguyễn Tuân muốn nói với chúng ta một điều giản dị nhưng sâu sắc: Chủ
nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường mà có ngay trong cuộc sống hàng ngày nơi
mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm manh áo.
.

Đề 1 : Sông Đà hung bạo : Hùng vĩ sông Đà ….cái gậy đánh phèn


Đề 1 : Sông Đà hung bạo : còn xa lắm mới đến cái thác nước… thế là hết thác
Đề 1 : Sông Đà trữ tình : tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần…thác lũ ngay đấy
Đề 1 : Sông Đà trữ tình : thuyền tôi trôi trên sông Đà…hết
Người lái đò Đề 5: ông lái đò trong cuộc vượt thác Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
sông Đà nhất,… Thế là hết thác
Phần Nhận xét nâng cao ( cuối thân bài 1đ )
● Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
● Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà/ về người
lao động của nhà văn Nguyễn Tuân
● Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích sông Đà trữ tình

ĐỀ 1:
Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng
vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông
Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
nai con hỗ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè
mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa  tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà
nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
 Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước
giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu
như cửa sống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.
Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt
quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài
bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước
ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy
nó lôi tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh
sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ
cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh
nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu
cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn
bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào
cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít
đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì
lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại rẻo to mãi
lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng.
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ...

I. Mở bài
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí
quan trọng và đóng góp không nhỏ cho văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút,
bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân
tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa, độc đáo. Tuỳ
bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng
Tám 1945. Bài tùy bút đã miêu tả hình ảnh của sông Đà, một con sông hung bạo, hiểm ác
song cũng rất thơ mộng, trữ tình. Đoạn trích “...” tập trung diễn tả sự hùng vĩ, hung bạo
của sông Đà.
II. Thân bài:
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ
thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến
đi này không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm
chất vàng mười của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những
người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút
tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô
giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức
tạp.Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình.
Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Đoạn trích miêu tả sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà thể hiện qua cảnh đá bờ sông,
quãng mặt ghềnh Hát Loóng, và những cái hút nước trên sông.
2. Cảm nhận đoạn trích
Câu văn đầu được viết theo thể câu khẳng định: “Hùng vĩ của sông Đà không phải
chỉ có thác đá”. Nghĩa là, thác đá là những hình ảnh chủ đạo của sự hung hiểm. Nhưng sự
hiểm trở ấy không chỉ có thác đá mà còn nhiều thứ khác nữa. Câu văn sau mở ra thêm
một thế giới hung bạo nữa của sông Đà. Đó là “cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”. Chữ
“vách thành” gợi liên tưởng đến những thành quách kiên cố, vững chãi. Chữ “thành”
cũng gợi liên tưởng đến cách nói của người xưa “thành cao, hào sâu”. Ở đây tác giả đã
dùng thành để miêu tả độ cao, độ sâu của cảnh đá bờ sông. Hai bên đá dựng thẳng đứng
lởm chởm. Cao đến nỗi “lúc đứng ngọ mới thấy mặt trời”. Ánh sáng bị triệt tiêu, dòng
sông chảy trong bóng tối. Có chỗ khác tác giả miêu tả: “có vách đá thành chẹt lòng sông
Đà”. Động từ “chẹt” gợi ra hình ảnh dòng sông có chỗ bị đá bóp nghẹt lại, chật chội.
Dòng chảy bị nghẽn bởi độ hẹp dữ dội tạo nên sự bức bối ngột ngạt. Phép so sánh “như
một cái yết hầu” gợi hình dung dòng chảy khi đi qua quãng này giống như chảy vào một
nút thắt mà hai bên đều là đá hiểm trở, đầy rẫy những nguy hiểm chực chờ. Đây là nơi
thuyền bè khó đi qua. Có khi lại bị mắc kẹt vào giữa cái yết hầu ấy. Độ hẹp ấy của đôi bờ
sông Đà còn được tác giả gợi tả qua hai hình ảnh: “đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ có lần đã nhảy vọt từ bờ này sang bờ kia”.
Mặt khác hai hình ảnh ấy còn là cách nói thể hiện ý nghĩa: bên trên hai bờ sông thì có vẻ
như rất yên bình. Có thể “nhẹ tay ném hòn đá”, có thể “nhảy vọt” nhẹ nhàng qua bên kia
bờ. Nhưng ở dưới lòng sông lại chứa đựng bao nhiêu là nguy hiểm.

Không chỉ tả bằng thị giác, Nguyễn Tuân còn tả cảm giác. Đầu tiên là cảm giác
“ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh”. “Lạnh” ở đây
vừa là cái lạnh do không khí mát mẻ dưới lòng sông mang lại, vừa là cảm giác lạnh gáy,
sởn gai ốc vì đi đò qua đây chẳng khác gì đang đi vào miệng tử thần, đang tự dâng mình
cho thủy quái. Cảm giác thứ hai mà sông Đà mang lại đó là: “cảm thấy mình như đứng ở
hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện”. Đó là cảm giác về độ cao khủng khiếp của hai bờ đá. Đá cao ngất
như “trên cái tầng thứ mấy”. Đã vậy động từ “tắt phụt” còn gợi ra cảm giác ánh sáng vụt
tắt, bóng tối vây bủa, con người bỗng thấy mình đơn độc, sợ hãi.

Ở mặt ghềnh Hát Loóng, sự hung bạo của sông Đà được đẩy cao hơn: Lại như
quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Câu văn miêu tả có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết
hợp với các thanh sắc, những từ ngữ điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã
tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió,
và đá sông Đà, trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp
ghê rợn trên mặt ghềnh.C âu văn như bị chặt đứt thành nhiều khúc ngắn, gọn, điệp từ,
điệp cấu trúc và thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” vừa
như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang,
vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, vừa gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ
dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người. Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh
mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung
hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông.
Những cái hút nước khủng khiếp ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La
càng ghê rợn hơn nữa. Từ trên nhìn xuống mặt sông: những cái hút nước giống như cái
giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Từ dưới lòng sông nhìn ngược
lên: thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào. Âm thanh thì thật ghê rợn: “Nước ở đây thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tất cả làm hiện ra cả
hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ đến ghê người hết sức
nguy hiểm. Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã giúp
người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước
đáng sợ. Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ
to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị hút trồng cây
chuối ngược rồi vụt biến đi... tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con
thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn nảy ra ý tưởng
điện ảnh táo bạo, tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo
họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút
nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống
động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc
của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của
con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào
cũng như sắp đổ ụp vào người.Lối so sánh, liên tưởng độc đáo khiến con sông Đà không
khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy
hiếp con người.
Qua đoạn văn, ta cảm nhận được một con sông Đà hung bạo ghê gớm. Đó là biểu
tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Hình tượng con sông Đà trong
đoạn văn cũng cho ta cảm nhận về ngòi bút tài hoa độc đáo và uyên bác của Nguyễn
Tuân, khiến cho bài tùy bút trở nên xuất sắc và gây ấn tượng mạnh mẽ.
Nguyễn Tuân đã xây dựng được hình tượng nghệ thuật độc đáo: hình tượng sông
Đà. Biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa, liên tưởng – tưởng tượng…được sử dụng thành
công. Ngôn ngữ, hình ảnh mới lạ, cách hành văn uyển chuyển tài hoa, uyên bác. Tả sự
hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất
Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bất sông Đà như một biểu tượng về sức
mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải
quyết. Nếu không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. Kết bài:
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn
Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta
thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá
của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn
Nguyễn Tuân
Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh
hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng
sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật
khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng.
Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên
nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo
hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và
lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của
người lao động trong chế độ mới.
2. Cái Tôi của nhà văn Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích:
“Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng
vĩ của thiên nhiên đất nước; Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa,
tinh tế.
“Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở
sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú;
ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh,
thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác
và ấn tượng những cảm giác về đối tượng.
“Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất
nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính.

ĐỀ 2:
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại,
réo to mãi lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như
là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc
sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn
mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng
ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số
hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào
cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như
tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những
hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự
động của đá to đá bé. Nhưng hình như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy
rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn
ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi
đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh
một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối
phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật
vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai,
thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là phải đánh tan
cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay
ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước
thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy
trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần
vào. ..
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét...

I. Mở bài:
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa và uyên bác. Ông có sở trường về tùy bút. “Người
lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế đầy hào hứng và gian khổ khi lên mảnh
đất Tây Bắc rộng lớn và xa xôi. Bài tùy bút đã miêu tả hình ảnh của sông Đà, một con
sông hung bạo, hiểm ác song cũng rất thơ mộng, trữ tình. Đoạn trích “...” tập trung diễn
tả sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà.
II. Thân bài:
1. Khái quát:
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ
thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến
đi này không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm
chất vàng mười của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những
người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút
tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô
giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức
tạp.Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình.
Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Đoạn trích miêu tả sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà thể hiện qua cảnh đá bờ sông,
quãng mặt ghềnh Hát Loóng, và những cái hút nước trên sông.
2. Cảm nhận đoạn trích
Sông Đà hung bạo trước hết ở âm thanh tiếng nước. Khi còn xa mới tới thác,
Nguyễn Tuân đã miêu tả tiếng nước thác Sông Đà với muôn vàn  giọng điệu: ban
đầu“nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo…”. Thế rồi bất ngờ âm thanh như được phóng to hết cỡ: “nó rống lên
như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa như đổ
lửa,…đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng”.  Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể
sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Hệ thống
những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và
âm lượng để miêu tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông. Đặc sắc nhất là
những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội: nó rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa,
đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Nhà
văn đã hết sức tài hoa, độc đáo khi lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông. Nguyễn Tuân đã tạo
nên những trang văn tuyệt bút về cái đẹp phi thường, mãnh liệt của Đà Giang. Nước thác
Sông Đà vừa như một sinh thể có linh hồn sống động, tâm trạng phong phú, tính cách dữ
dội vừa như một bản hùng ca tráng liệt của đại ngàn. Khi lại gần, thác đã hiện ra trong
câu văn ngắn “Tới cái thác rồi” – giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú. Sau đó
Nguyễn Tuân đã đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh “sóng bọt đã trắng xóa
cả một chân trời đá”.  Câu văn đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá
sông Đà ngay trong ấn tượng đầu tiên khi gặp mặt. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng,
gió kết hợp với nhau cùng tấn công uy hiếp con người.
Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của sông Đà còn thể hiện qua thạch trận trên sông.
Sông Đà “bày thạch trận trên sông”. Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày bao nhiêu mẹo
lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Bằng thủ pháp nhân hóa, người
đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng
sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá bằng sự phối hợp giữa các
tri thức của các ngành nghề khác nhau như: võ thuật, quân sự, hội họa, điêu khắc …, kết
hợp với thủ pháp nhân hóa, liên tưởng, so sánh, ví von những câu văn dài ngắn, đan xen
đầy tính tạo hình, góc cạnh, gân guốc. Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày
uyên bác trong vốn tri thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Đá sông
Đà đã bày thạch trận trên sông như một trận đồ bát quái dìm bắt bất cứ con thuyền nào
qua đó: những tảng đá ngầm dưới lòng sông luôn chờ chực tiêu diệt người lái đò “Cả một
chân trời đá, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông…mỗi lần có chiếc
thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy, vồ lấy thuyền”. Sử
dụng thuật ngữ của quân sự, trên cơ sở những quan sát thực tế, Nguyển Tuân đã gợi dậy
cái bí ẩn, hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi “ngàn năm vẫn
mai phục”, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để “nhổm cả dậy, vồ
lấy thuyền”. Thạch trận không chỉ hung hãn mà còn bộc lộ bản chất nham hiểm, xảo
quyệt: “mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó”. Những hòn đá vô tri
nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại,
hung dữ với trùng vi thạch trận nhằm tước đoạt và hủy diệt đến cùng sự sống của con
người: chúng giở mọi thủ đoạn, mưu ma chước quỷ để dẫn dụ, phục kích…như “thứ binh
pháp sâu hiểm của thần sông thần đá”.
 Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”.
Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông, nghệ thuật tài hoa và cực kì uyên bác của ngòi
bút số một về thể loại tùy bút – Nguyễn Tuân được thể hiện rõ hơn hết. Đoạn trích là
khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà. Đó chính là sức mạnh của thiên
nhiên mà con người cần chinh phục. Đó cũng chính là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc
hùng vĩ, giàu đẹp.
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để dường như thi tài với tạo hoá. Ông dùng những
câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp nhau, dồn dập.
Nhà văn sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ, chính xác,
thú vị. Nhà văn đã vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địalý,lịch sử, hội họa,
văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải
quyết. Nếu không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. Kết bài:
Với nghệ thuật nhân hóa và liên tưởng phong phú, cùng với ngòi bút miêu tả độc
đáo, con sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn Nguyễn Tuân
đã trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lí rất ghê gớm, đáng sợ. Qua đó ta có thể
hình dung những vất vả gian lao mà những người lái đò phải vượt qua, từ đó ta càng
khâm phục hơn ý chí kiên cường và tài trí của họ trong việc chinh phục con sông, bắt nó
phải quy phục và cống hiến cho cuộc sống của con người.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân
Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông không
chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện, những đối tượng
mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, có ấn tượng với
những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh thể như vậy). Tác giả bộc lộ sự
tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh
tế.Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để
khắc họa hình tượng sông Đà.
Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có ý thức tự khẳng
định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng yêu quê hương đất
nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với
nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý
này.

2. Nhận xét nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Qua đoạn văn, ta thấy được nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân.
Hình ảnh sông Đà hung dữ ở một mức độ ghê gớm, hơn tất cả mọi con sông đã
được tái hiện trong văn học, là bởi vì cảm quan sáng tác của Nguyễn Tuân chỉ hứng thú
với những vẻ đẹp vượt lên mức bình thường, gây ấn tượng mãnh liệt.
Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân khi miêu tả sông Đà càng trở nên độc đáo bởi
cách dùng từ chính xác, với câu văn có kết cấu trùng điệp, đặc biệt với nghệ thuật so
sánh, nhân hóa, liên tưởng bất ngờ và ấn tượng.
Kết hợp với đó là vốn kiến thức phong phú ở nhiều lĩnh vực khác nhau, chính sự
uyên bác của Nguyễn Tuân khiến cho văn phong của ông càng trở nên độc đáo.
Chính nét độc đáo kết hợp với sự tài hoa và uyên bác trong ngòi bút Nguyễn Tuân
khiến cho hình tượng sông Đà trở nên đặc sắc và đáng nhớ.

ĐỀ 3:
[…] Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho
mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên
tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn
ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm
mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò
Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn
Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều
cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông
tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn
say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà
nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen
như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên
Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
   Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã
hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp
đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch
chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng
tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà,
chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng
giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại
bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố
nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn
tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
  Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí
đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh
đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu.
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 190,191).
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét ...

I.MỞ BÀI

          Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho
rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vâng! là người nghệ sĩ chân
chính nên Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo
“xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là kết
quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây
Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai
về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình . Đoạn trích “...” tập trung miêu tả
vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà.

II.THÂN BÀI 

1.Khái quát:

Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ
thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến
đi này không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm
chất vàng mười của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những
người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút
tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô
giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động thật phong phú và phức
tạp.Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình.
Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.
Đoạn trích miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà từ nhiều góc độ.

2. Cảm nhận đoạn trích

Trước tiên, từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà như “cái dây thừng ngoằn ngoèo”
uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng sông lại giống như một người
thiếu nữ kiều diễm “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ấn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “tuôn dài tuôn dài” như
mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh “như một áng tóc trữ
tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của Đà giang. Nó như một kiệt tác của đất trời dành riêng
cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm tăng lên sự bí hiểm của dòng
sông. Ta như đi lạc giữa chốn bồng lai vừa thực, vừa mộng. Mái tóc trữ tình ấy, còn được
cài thêm hoa ban, hoa gạo đẹp mơ màng trong khói nương mùa xuân. Bằng con mắt rất
tinh tế, Nguyễn Tuân đã phát hiện được những góc nhìn mà ở đó, dòng sông đã phô ra
được tất cả vẻ đẹp trẻ trung, mềm mại, thướt tha của mình.
Đoạn văn còn thể hiện tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân : giữa
hai chữ “tuôn dài tuôn dài” thường sẽ có dấu phẩy, nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc
ngữ pháp để bản thân câu chữ cũng có khả năng tạo hình và tô đậm ấn tượng về cái mênh
mang, dàn trải, cái mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Ngoài ra trong câu văn này còn
có thể nhận thấy tác giả sử dụng rất nhiều vần bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy
nhẹ nhàng,êm đềm của dòng sông Đà ở hạ nguồn.Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng
đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là “tờ hoa” trong văn học Việt Nam.
Quan hệ giữa Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa
nhà văn và đối tượng miêu tả mà còn là quan hệ giữa những người bạn tri âm tri kỉ . Bởi
vậy, tác giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại chất thơ của dòng sông mà còn đi
sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính cách, trong quan hệ của dòng sông
với con người. Tác giả dùng 1 từ ngữ rất thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông Đà, đó chính
là “cố nhân”. Từ góc nhìn từ bờ bãi sông Đà, dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố
nhân”.
Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở
thượng nguồn, về đến hạ nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng và đằm thắm, trở thành
đối tượng chia sẻ mọi buồn vui với con người. Bởi vậy khi phải xa cách dòng sông,
Nguyễn Tuân nhớ dòng sông như nhớ 1 người bạn thân thiết .Vì tác giả dành cho dòng
sông nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi được gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ
òa và tràn ra trên bề mặt câu chữ của Nguyễn Tuân .
Trước hết, đó là câu văn: Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên
Sông Đà. Ở đây, Nguyễn Tuân sử dụng những câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp
về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, vừa gợi ra niềm vui háo hức say mê, vừa
gợi ra những bước chân nhanh vội của tác giả để đến với dòng sông của mình. Cụm từ
“sông Đà” được điệp lại liên tiếp 3 lần ở 3 vế của câu văn gợi ra được trái tim nồng nhiệt,
ấm nóng đang cố gắng mở rộng tất cả biên độ của mình để ghi lại những biểu hiện dù là
nhỏ bé, giản dị nhất của sông Đà như: bờ, bãi, chuồn chuồn, bươm bướm. Các vế câu lại
được khéo léo sắp xếp để vế sau dài hơn vế trước cho thấy sự tăng cấp, sự hối hả dồn dập
trong niềm vui vỡ òa của tác giả, khiến cho câu văn không còn là câu mô tả bình thường
mà đã trở thành những tiếng reo vui.
Niềm vui của tác giả còn được diễn tả bằng những hình ảnh so sánh độc đáo liên
tiếp đặt cạnh nhau:“Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm,
vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng”. Có thể nói đây là 2 hình ảnh so sánh rất lạ.Cách so
sánh giúp tác giả diễn tả chính xác niềm vui căng tràn, mãnh liệt của mình. Vui như thấy
nắng giòn tan sau kì mưa dầm gợi ra niềm vui vì sự mong đợi đã được thỏa mãn vì sự
thay đổi theo chiều hướng lạc quan, tươi sáng. Vui như nối lại chiêm bao đứt quãng lại
gợi ra được niềm vui hiếm hoi nhưng vô cùng mãnh liệt, vì thông thường những giấc mơ
khi đã đứt thì rất khó nối lại được. Việc nối lại những giấc chiêm bao đứt quãng vừa là
những trường hợp rất hi hữu, vừa vô cùng quý giá. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất
“đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh
lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bắn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy. Sông
Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ, người tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá khứ,
bao nhớ thương trong hiện tại, bao hẹn hò thủy chung trong tương lai.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước. Nhà văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông “đã nhìn say sưa làn mây
mùa xuân bay trên sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống” sau đó mới
khẳng định: sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà “xanh ngọc
bích” chứ không“xanh màu xanh canh hến như màu của sông Gâm, sông Lô. “Xanh ngọc
bích ” là xanh trong, xanh sáng - một sắc màu gợi cảm giác trong lành, đó là sắc màu của
nước, của núi, của da trời cùng nhau hòa quyện. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Câu văn so sánh khiến người đọc phải ngỡ
ngàng trước sự đa dạng của sắc nước sông Đà. Nó không thay đổi dồn dập như màu nước
sông Hương “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím ” hay đỏ nặng một màu phù sa như nước
sông Hồng. Chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông
ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu”.
Từ góc nhìn từ giữa lòng sông Đà, dòng sông mang vẻ đẹp của một người tình
nhân. Vẻ đẹp của sự vắng vẻ, tĩnh lặng, êm ả, thanh bình được miêu tả qua “cảnh ven
sông ở đây lặng tờ. Hình như đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến
thế mà thôi” . Vẻ đẹp tươi mới, đầy sức sống của thiên nhiên ven sông Đà được nhà văn
tô đậm bởi những hình ảnh: nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không
một bóng người. Cỏ gianh núi đồi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm” và nhất là được gợi tả qua âm thanh khẽ khàng, dịu nhẹ
của tiếng cá dầm xanh quẫy nước”. Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh
so sánh độc đáo: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa. Người đọc như lạc vào miền ảo mộng, phiêu diêu trong cõi hồng
hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc.

Như vậy, để làm rõ vẻ vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả
từ nhiều thời điểm: mùa xuân, mùa thu, từ nhiều góc độ: khi thì ngồi trên trực thăng để
bao quát toàn cảnh , khi thì xuôi thuyền dọc theo sông Đà thậm chí có khi còn dừng hẳn
lại để chiêm ngưỡng và miêu tả một cách cặn kẽ, kĩ càng. Việc làm đó của Nguyễn Tuân
vừa cho thấy con sông Đà mang trong mình một vẻ đẹp đa chiều, phải soi ngắm từ nhiều
phương diện, góc độ mới có thể thấy hết cái thơ mộng trữ tình của nó, vừa cho thấy tinh
thần lao động nghiêm túc ở Nguyễn Tuân.
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân hóa, miêu tả, liên
tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm
cao. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả... Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút
của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân
tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải
quyết. Nếu không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. Kết bài:

Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn
Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta
thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá
của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Bình luận ngắn gọn nét độc đáo trong cách miêu tả sông Đà nói riêng, thiên
nhiên Tây Bắc nói chung của nhà văn Nguyễn Tuân.

Nhà văn nhìn Sông Đà không chỉ là một dòng sông tự nhiên, vô tri vô giác mà còn
là một sinh thể có sự sống, có tâm hồn, tình cảm. Với Nguyễn Tuân, sông Đà nói riêng,
thiên nhiên Tây Bắc nói chung cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Vẻ
đẹp của Sông Đà hòa quyện vào vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc nên càng trở nên đặc biệt.

Cách miêu tả độc đáo này cho thấy Nguyễn Tuân có sự gắn bó sâu nặng, tình yêu
mến tha thiết đối với thiên nhiên Tây Bắc, với quê hương đất nước, đồng thời cho thấy
được ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm của ông.

2. Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân là người tài hoa, luôn nhìn nhận, đánh giá cảnh vật và con người ở
phương diện cái đẹp và góc độ mĩ thuật và tài hoa. Sông Đà hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ và
là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, còn người lái đò như một nghệ sĩ
trong việc vượt thác ghềnh.

Nhà văn đã vận dụng những tri thức ở nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lí, quân sự…
để viết về con Sông Đà hung dữ mà thơ mộng.

Văn phong Nguyễn Tuân phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện và phong phú, hình ảnh
giàu liên tưởng bất ngờ, độc đáo. “Người lái đò Sông Đà” thể hiện sở trường ở thể loại
tuỳ bút của ngòi bút Nguyễn Tuân.
3. Nhận xét phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân

Nét tài hoa, uyên bác:Ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn tả được mọi sắc
thái, mọi cung bậc, hình thù, màu sắc của sông Đà. Nguyễn Tuân là “bậc thầy của ngôn
từ”” người làm xiếc trên ngôn từ”…Vận dụng kiến thức nhiều bộ môn.

4. Nhận xét những nét đặc sắc của văn Nguyễn Tuân

Qua việc ngợi ca vẻ đẹp độc đáo của dòng Sông Đà, tác giả đã thể hiện tình yêu
thiên nhiên,yêu đất nước,thiết tha của mình.
Qua đó làm nổi bật lên phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: sự độc
đáo, tài hoa,uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn nhìn
nhận mọi sự vật,sự việc dưới phương diện thẩm mỹ, luôn đi tìm cảm hứng trong sáng tạo
nghệ thuật,tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt gây ấn tượng
5. Nhận xét chất thơ thể hiện trong đoạn trích
Cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông: Sông Đà như một người gái
đẹp của núi rừng Tây Bắc với mái tóc dài, thật dài, mượt mà, tha thướt, gài buông lơi
những bông hoa ban trắng ngần hay những bông gạo đỏ rực, thấp thoáng ẩn hiện giữa núi
rừng mùa xuân mù sương khói.
Vẻ tinh khôi, non tơ của nương ngô nhú lá non đầu mùa, của những vạt đồi cỏ gianh
đang ra nõn búp; vẻ lặng tờ, tịnh không một bóng người, hoang dại, hồn nhiên của đôi bờ
biền bãi.
Ở xúc cảm tinh tế của tác giả trước dòng sông thơ mộng, trữ tình: cảm giác đằm
đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân sau chuỗi ngày chia biệt; cảm giác thấy thèm được giật
mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên
Bái - Lai Châu...
Ở những so sánh, liên tưởng thú vị độc đáo của Nguyễn Tuân: Sông Đà như một
người con gái đẹp, như một cố nhân, nước Sông Đà đổi màu liên tục qua mỗi mùa trong
năm.
Chất thơ trong tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một phần trong nội dung phong cách tài
hoa, uyên bác của ông. Ông để lại ấn tượng đặc biệt về một con sông đầy cá tính, mang
tính cách của con người với hai nét độc đáo, đối lập mà thống nhất: hung bạo và trữ
tình.Qua đó, ta thấy nhà văn có công đi tìm cái đẹp- chất vàng thiên nhiên Tây Bắc để ca
ngợi. Thiên nhiên là sản phẩm nghệ thuật vô giá, là công trình mĩ thuật của tạo hoá đã
ban tặng cho con người.Đó cũng chính là tình yêu Tổ quốc mà nhà văn cách mạng
Nguyễn Tuân đã gửi gắm qua trang tuỳ bút của mình.
6. Cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích

Đam mê cái đẹp thiên nhiên; ngợi ca, tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của
Tây Bắc; cái tôi yêu nước, hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới. Cái tôi uyên bác,
tài hoa với thể tùy bút phóng túng

7. Nhận xét những đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân

Đoạn trích đã cho thấy công phu lao động nghệ thuật nghiêm túc, khó nhọc của nhà
văn. Nguyễn Tuân đã phải dành nhiều tâm huyết và công sức để làm hiện lên những vẻ
đẹp và sắc thái khác nhau của thiên nhiên Tây Bắc.

Nhà văn đã huy động tối đa các giác quan thị giác, xúc giác, thính giác và vận dụng
tri thức của nhiều lĩnh vực để tái hiện hình ảnh sông Đà gây ấn tượng mạnh mẽ với người
đọc

Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ trong
việc tái tạo những kì công của tạo hóa.

ĐỀ 4:
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã miêu tả về cuộc chiến
giữa người lái đò và con sông Đà:
Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí
ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một
cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng
đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn
chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ
huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng
thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc
quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm
cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ
hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch
qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà
phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm
bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa
tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ
còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích,
mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất
vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba
nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này
lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa
giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong,
lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt
Nam 2013, tr 189)
Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lái đò trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét
“thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc mà Nguyễn Tuân
đang tìm kiếm.

I.MỞ BÀI
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho
rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Vâng! là người nghệ sĩ chân
chính nên Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo
“xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là kết
quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây
Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai
về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của
một chiến binh sông nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một
người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng
mang cảm giác thật mãnh liệt qua đoạn văn sau đây: “Sóng thác [… ] thế là hết thác
II. Thân bài:
1. Khái quát
Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ
thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân thu hoạch được trong chuyến đi tới miền Tây Bắc. Chuyến
đi này không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu nhà muốn tìm kiếm
chất vàng mười của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn những
người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Dưới ngòi bút
tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, hình tượng người lái đò sông Đà hiện lên thật đẹp.
2. Cảm nhận đoạn trích
Ông lái đò là một ông già 70 tuổi, thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm
thạch:  ngực ông đầy  những củ nâu –  thương tích trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn
Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào,  chân
ông khuỳnh khuỳnh;  nhỡn giới ông cao vời vợi,  giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước
ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy – Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa được vẻ đẹp
của con người lao động gắn bó với chiến trường sông nước. Ông là một người từng trải,
hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò. Thành thạo đến mức sông Đà, đối với ông
lái đò ấy, “như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than,
chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
Sự hung bạo của sông Đà chính là tình huống đầy thử thách để người lái đò bộc lộ
vẻ đẹp trí dũng của mình. Để làm nổi bật hình tượng và vẻ đẹp của người lái đò, nhà văn
đã tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ xứng đáng với sự xuất hiện của người anh
hùng sông nước. Đó là một không gian của thác ghềnh hiểm trở, sóng gió cuồn cuộn
“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, một không gian của những hút nước ghê rợn,
những thác đá dữ dằn, hiểm ác. Thoạt nhìn, đó là một cuộc chiến không cân sức bởi một
bên là thiên nhiên dữ dội, hiểm ác với trùng trùng lớp lớp dàn trận bủa vây, có sự hợp tác
của nhiều thế lực: sóng, nước, đá, gió…còn bên kia chỉ là con người nhỏ bé, đơn độc trên
một con thuyền và vũ khí chỉ là những cán chèo. Như Nguyễn Tuân đã miêu tả, bầy thủy
quái đã dàn thạch trận để “đòi ăn chết cái thuyền”. Khi con thuyền đến nơi, “mặt nước hò
la vang dậy, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”. Sóng nước như thể quân liều mạng hết “đá
trái” rồi lại “thúc gối vào bụng và hông thuyền”…Sông Đà hung hãn, hiểm ác như “một
thứ kẻ thù số một của con người. Nhà văn đã sáng tạo ra một cuộc vượt thác sông Đà của
ông trải qua ba trùng vi thạch trận.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là
trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung
bạo của thiên nhiên nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để
dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt
lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà
lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp
chặt lấy hạ bộ người lái đò”.  Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một
cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo
bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn
đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng,
đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò.
Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo
còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh
Ở trùng vi thạch trận thứ hai , sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa
sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn.
Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông
nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật
phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến
cùng như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây
thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di
chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa.  Chúng xô ra định níu chiếc
thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh  mà rảo bơi
chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy
động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm,
ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt
qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò
đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu
nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song
toàn.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi
này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay
giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa”
làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại
ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông
giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua
cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.
Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách
đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự
thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng
vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do
của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy
Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục.
Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích vì thế
đã xây dựng được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. 
Nguyễn Tuân xây dựng ông lái đò với vẻ đẹp trí dũng và tài hoa. Trí dũng để có thể
chế ngự được dòng sông hung bạo, tài hoa để xứng với dòng sông trữ tình. Vẻ đẹp của
người lái đò là vẻ đẹp bình dị, thầm lặng nhưng đầy trí tuệ và sức mạnh. Đây chính là
chất vàng mười đã qua thử lửa của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt
Nam nói chung. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, người lái đò lại “đốt lửa trong
hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”. Thái độ
bình thản ấy càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc
sống đời thường bình dị khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà hiểm ác, dữ dội
chỉ là chuyện thường ngày.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải
quyết. Nếu không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
Qua đoạn trích, nhà văn đã thể hiện... (yêu cầu 2)
III. KẾT BÀI
          Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca
những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là
hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất
nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường,
xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN

1. Nhận xét “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động miền Tây Bắc
mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm
Qua cuộc chiến đấu giữa ông đò với sóng nước sông Đà, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của
người lao động miền Tây Bắc. Đó là vẻ đẹp của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí
quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống và vẻ đẹp của sự tài trí, tài
hoa, giàu kinh nghiệm. Đây chính là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của người lao động
miền Tây Bắc mà Nguyễn Tuân đang tìm kiếm.
Qua nhân vật ông đò cho thấy sự thay đổi trong cách tiếp cận con người của
Nguyễn Tuân sau cách mạng: Trước cách mạng, con người Nguyễn Tuân hướng tới ca
ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau cách mạng, nhân
vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công cuộc chiến đấu, lao động
hàng ngày của nhân dân.
2. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn
Tuân.
Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người
lao động mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường làm
việc và trong công việc của mình khi dám đương đầu với thử thách và đạt tới trình độ
điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã phát hiện ra “chất vàng mười đã qua thử lửa” của
ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện
thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự
hào về con người lao động Việt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh
hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang bóng
một thời”thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy anh hùng và nghệ sĩ ngay trong con người
lao động thường ngày, trong công việc bình thường và trong nghề nghiệp cũng bình
thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng
đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc
trong việc xây dựng đất nước và chinh phục thiên nhiên.
3. Cách nhìn mới về người lao động:

Theo Nguyễn Tuân, người nghệ sỹ không chỉ là người sáng tạo ra cái đẹp mà là
người biến công việc lao động của mình trở thành một nghệ thuật…

Qua hình ảnh người lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục
những con người lao động bình thường, nhỏ bé nhưng đã góp phần không nhỏ trong công
cuộc xây dựng Tổ quốc. Đó chinh là "Thứ vàng 10 đã qua thử lửa của tâm hồn con người
lao động".

4. Nhận xét quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: vẻ
đẹp của con người không chỉ ở phương diện trí dũng mà còn ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.

Tài hoa nghệ sĩ đâu chỉ có ở lĩnh vực nghệ thuật mà có ngay trong cuộc sống lao
động đời thường khi con người đạt đến trình độ điêu luyện, thuần thục.

Con người, bất kể địa vị hay nghề nghiệp gì, nếu hết lòng và thành thạo, điêu luyện
với công việc của mình thì bao giờ cũng đáng trọng. Đồng thời qua cảnh tượng vượt thác
của ông đò, Nguyễn Tuân muốn nói với chúng ta một điều giản dị nhưng sâu sắc: Chủ
nghĩa anh hùng đâu chỉ có ở nơi chiến trường mà có ngay trong cuộc sống hàng ngày nơi
mà chúng ta phải vật lộn với miếng cơm manh áo.

You might also like