You are on page 1of 64

NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

Hình Tượng Người Lái Đò Qua Bài Tùy Bút Người Lái Đò Sông Đà Của Nguyễn Tuân
- Về nghệ thuật:
+Tạo tình huống đầy thử thách cho nhân vật; chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ; sử dụng ngôn ngữ phong
phú, sáng tạo, tài hoa;
+Kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc, bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú
vị;
+Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng
định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
c. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân
- Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về người lao động mới. Ông đò
tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong môi trường làm việc và trong công việc của mình khi dám
đương đầu với thử thách và đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã phát hiện ra “chất vàng
mười đã qua thử lửa” của ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính
hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng đầy cảm hứng, say mê…
- Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng, tự hào về con người lao
động Việt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa người anh hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong
nghệ thuật và thuộc về quá khứ “vang bóng một thời”thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy anh hùng và nghệ
sĩ ngay trong con người lao động thường ngày, trong công việc bình thường và trong nghề nghiệp cũng bình
thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ dành
riêng cho cuộc chiến đấu chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất nước và chinh
phục thiên nhiên.

MB: Tố Hữu đã từng viết:

"Chín năm làm một Điện Biên


Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng"

Sau cuộc chiến thắng Điện Biên lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu với hiệp định Giơnevơ được kí kết,
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo lời kêu gọi của Đảng, miền Bắc dấy lên phong trào tình nguyện,
đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh tế, để hàn gắn vết thương chiến tranh và tìm kiếm
cảm hứng sáng tác mới đối với các văn nghệ sĩ. Họ trở lại nhiều hơn cả những nơi xưa vốn là chiến trường.
Tây

Bắc Điện Biên được xem là một miền đất hứa. Hàng loạt con người mới của xã hội chủ nghĩa nô nức đến
miền Tây của Tổ quốc. Họ ra đi đầy ắp tiếng hát, đầy sông đầy cầu. Sự thật cuộc sống bước vào văn chương
như một qui luật tất yếu bởi nhà văn là thư kí trung thành của thời đại. Nếu Nguyễn Khải có tập truyện "Mùa
lạc", Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm "Bốn năm sau", Chế Lan Viên có "Tiếng hát con tàu" thì Nguyễn
Tuân có tập tùy bút "Sông Đà" gồm mười lăm bài kí sáng tác năm 1958 - 1960 khi nhà văn đi thực tế trên
mảnh đất Tây Bắc. Linh hồn của tập tùy bút là bài kí "Người lái đò sông Đà". Tác phẩm được đưa vào trong
chương trình giảng dạy như là một trong những kiệt tác của Nguyễn Tuân ở thể kí. Thành công của Nguyễn
Tuân trong tác phẩm này bên cạnh việc xây dựng được hình tượng con sông Đà chân thực, sống động, ta
phải kể đến tác giả đã thể hiện được hình tượng Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người

DUNG VAN PL _1
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
mới xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định không quá lời rằng với tác phẩm "Người lái đò sông Đà", ngòi bút
của Nguyễn Tuân đã nở hoa trên dòng sông văn chương của mình.

Đến với "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân, điều đầu tiên người yêu văn bắt gặp đó là hình ảnh con
sông Đà được nhà văn tài ba này xây dựng vô cùng chân thực và sống động. Dòng sông ấy hiện lên dữ dội
khác thường nhưng cũng nên họa, nên thơ. Nhưng con sông Đà hiện lên dù chân thực, hung bạo hay trữ tình
đến đâu cũng chỉ làm nền cảnh để Nguyễn Tuân tô lên chân dung của con người mới xã hội chủ nghĩa thông
qua hình tượng ông lái đò Lai Châu. Chỉ khi ông đò xuất hiện thì bức tranh Đà Giang của Nguyễn Tuân mới
trở nên hoàn chỉnh bởi ông đò Lai Châu chính là chủ thể của bức tranh thiên nhiên - làm chủ thiên nhiên,
làm chủ núi rừng, làm chủ dòng sông, làm chủ cả cuộc đời mình Có được điều đó bởi Nguyễn Tuân đã
được giác ngộ lí tưởng của Đảng. Trong văn chương, những người nghệ sĩ cách mạng, thiên nhiên hiện ra dù
hùng vĩ, mĩ lệ đến đâu cũng chỉ là nền cảnh để tô lên sự hiện diện của con người. Con người làm chủ thiên
nhiên, làm chủ núi rừng, làm chủ dòng sông, làm chủ cả cuộc đời mình. Ông đò Lai Châu là một nhân vật
như vậy.

Sở dĩ Nguyễn Tuân viết thành công ông đò Lai Châu trong thiên tùy bút của mình bởi nhắc đến
Nguyễn Tuân là phải nhắc đến một nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ, cả đời chỉ phụng sự cái đẹp. Vì vậy,
những nhân vật của Nguyễn Tuân dù làm bất cứ nghề nghiệp gì cũng phải là người nghệ sĩ trên nghề nghiệp
của mình. Ta đã từng bắt gặp một Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, là một nghệ sĩ viết chữ đẹp. Đó còn là một
Bát Lê trong "Bữa rượu máu" tuy chỉ là một đao phủ nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Tuân lại trở thành một
nghệ sĩ chém người... Ở đây, ta thấy ông đò Lai Châu cũng là một người nghệ sĩ như vậy. Dù tuổi đã vào
bảy mươi nhưng khi lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo với nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực
xoáy, tay lái của ông vẫn ra hoa. Ông làm chủ dòng sông Đà, làm chủ cả thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Ông
là người nghệ sĩ trên sông nước mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở trên Tây Bắc. Có thể khẳng định chính
người nghệ sĩ trên dòng sông Đà này đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận đối với ngòi bút tài hoa của
Nguyễn Tuân

Như đã nói ở trên, ông đò Lai Châu trong tác phẩm này là một nhân vật khuyết danh. Điều này cho thấy
Nguyễn Tuân không có ý định xây dựng ông đò theo một kiểu nhân vật điển hình. Nói cách khác, ông đò
Lai Châu không phải là một điển hình văn học vì nhân vật điển hình bao giờ cũng có tên tuổi, có địa chỉ xác
định, có hoàn cảnh phải điển hình. Ông đò Lai Châu tuy chỉ là một nhân vật khuyết danh bình hường trong
đời sống thường nhật nhưng ông lại có một vị trí đứng rất đặc biệt trong tâm hồn người yêu văn Nguyễn
Tuân. Cả đời ông có mười năm gắn bó với nghiệp sông nước. Mười năm đối với đời của một con người
không phải thời gian dài. Thế nhưng trong suốt mười năm ấy, ngày nào ông cũng phải cưỡi thác sông Đà
như cưỡi hổ, phải đối mặt với những trùng vi thạch trận; ngày nào ở nơi ấy ranh giới giữa sự sống và cái
chết cũng vô cùng mỏng manh. Điều ấy đã khiến cho mười năm ấy dài tựa trăm năm.
DUNG VAN PL _2
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Chính cuộc đời gắn bó với sông nước đã làm nên cái dáng vẻ rất riêng của ông đò Lai Châu. Nguyễn Tuân
đã chỉ ra được những đặc điểm rất riêng ấy: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông khuỳnh khuỳnh gò lại
như kẹp cái cuỗng lái trong tưởng tượng. Ông đò Lai Châu bỏ nghề đôi chục năm nay rồi nhưng ngày nào
ông cũng ngỡ mình như đang lái thuyền trên sông nước. Tiếng ghềnh sôi thác réo vẫn còn âm vang trong
giọng nói của ông. Đôi mắt của ông nửa thực nửa mơ như muốn mơ về một cõi mơ xa thẳm. Nhỡn giới của
ông cao vòi vọi như lúc nào cũng hướng về một bến bờ nào đó ở trong sương mù. Đã vào độ tuổi bảy mươi
nhưng ông vẫn còn lực lưỡng quá. Cái đầu quắc thước được đặt trên một thân hình to khỏe gọn quánh chất
sừng chất mun. Người xưa có câu "giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay". Với người lái đò, có lẽ điều quan tâm
của Nguyễn Tuân là ở đôi bàn tay của ông. Đôi tay ông còn trẻ trung quá khiến cho dường như thời gian đã
có bước lùi trong tuổi tác của ông đò. Như một lẽ thường tình, người nào sống quá lâu trong lam lũ vất vả
thì người ấy chóng già. Riêng với ông đò Lai Châu, từ khuôn mặt đến nụ cười của ông đều là của tuổi trẻ.
Đây chính là tiền đề để Nguyễn Tuân xuất thần câu văn rất đẹp: "Khuôn mặt ông he hé nửa miệng cười".

Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút tài tình của Nguyễn còn lách sâu vào để khắc họa những tính cách rất
riêng của ông đò Lai Châu. Vẫn biết rằng Đà giang là một con sông rất đặc biệt trên đất nước trăm sông
nghìn núi này. Điều ấy đã hơn một lần được Nguyễn Quang Bích khẳng định:

"Chúng thủy giai Đông tẩu


Đà giang độc Bắc lưu"

Sự độc đáo của Đà giang đã tạo nên sự hung bạo của nó. Để chinh phục được con sông Đà hung bạo, ông đò
Lai Châu đã bộc lộ mình là một người có tính cách phi thường như "chim hải âu chỉ quen đối đầu với sóng
dữ". Ông chỉ thích lướt sóng lướt thuyền trên đoạn "thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá".
Ông cũng đã từng tâm sự "Lái thuyền trên dòng sông Đà ở quãng sông không có sóng rất dễ dại chân tay và
rất dễ buồn ngủ." Như vậy, một người thích đương đầu với sóng gió, thích đương đầu với gian khổ hi sinh,
ông đò Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi thường. Nhìn rộng ra, đây là sự hóa thân của
ngòi bút Nguyễn Tuân. Ông không thích những gì là bình thường, là quen nhàm bởi "cái bình thường là cõi
chết của nghệ thuật". Chính vì lẽ đó, Nguyễn Tuân đã khẳng định được vị trí của mình trên tao đàn bằng
những đề tài khá gai góc để bộc lộ sở trường, phong cách của một người nghệ sĩ đã được giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh đóng đanh trong một chữ "ngông".

Bên cạnh đó, ông đò Lai Châu còn là một người có trí nhớ rất tuyệt vời. Trí nhớ của ông chẳng khác nào
cuốn thủy văn sông Đà. Ông nhờ đến tường tận như đóng đanh vào trong lòng từng con thác. Tuy bỏ nghề
đã đôi chục năm nay nhưng khi Nguyễn Tuân đi khảo sát dòng sông, ông vẫn kể vanh vách năm mươi trên
tổng số bảy mươi ba con thác dữ từ ngã ba biên giới Việt - Trung về đến Chợ Bờ. Ông hiểu rõ tính cách quy
luật của từng con thác dữ, của từng tướng đá nơi đây từ cách bày binh bố trận của nó. Đây không chỉ là biểu

DUNG VAN PL _3
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
hiện trí nhớ đơn thuần của một con người mà nó còn là biểu hiện của lòng yêu nghề, coi "nghề" như
"nghiệp". Ông gắn bó với nghề nghiệp của mình như con ong làm mật yêu hoa, con cá bơi yêu nước, con
chim ca yêu trời. Nhìn rộng ra, đây cũng là biểu hiện phong cách của Nguyễn Tuân. Ông cả đời chăm chỉ
cần mẫn như con ong hút nhụy từ những bông hoa của cuộc sống. Không có sự cần mẫn của con ong, nhụy
hoa không thể trở thành mật ngọt. Có thể khẳng định, nếu coi ông lái đò thuộc những con thác ở Đà giang
như người nghệ sĩ thuộc tác phẩm của mình, coi con sông Đà là một thiên anh hùng ca của thiên nhiên Tây
Bắc dữ dội, khác thường, nên họa, nên thơ thì ông đò Lai Châu thuộc bản anh hùng ca ấy đến từng dấu
chấm, dấu phẩy.

Không chỉ có trí nhớ tuyệt vời, có tính cách phi thường, ông đò còn là một con người rất khỏe mạnh. Ngày
nào lái thuyền trên dòng sông Đà, ông luôn phải tập trung cao độ, người luôn phải dựng đứng. Ông phải
luôn mắt, luôn chân, luôn tay, luôn gân và cả luôn tim. Chỉ cần khinh suất một chút là cả người và thuyền sẽ
bị lật úp dưới dòng sông Đà mà như có lần Nguyễn Tuân đã mô tả: "Có những con thuyền đã bị cái hút nó
hút xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới." Thế nhưng ông đò Lai Châu vẫn chiến thắng những đoạn sông
hung bạo vì ông là một người trí dũng. Gặp những cái hút nước, người khác phải run tay thì ông lại bơi dẻo
tay chèo, nắm chặt lấy bờ sóng để phóng qua. Cũng đã có những lúc thuyền của ông đò bị sóng nước ùa vào
bẻ gãy cán chèo, tóm lấy thắt lưng, dùng đòn tỉa, đòn âm làm ông đuối sức, mắt hoa lên, nhìn cửa sông ngỡ
là cửa biển, cả một rừng đom đóm ùa xuống châm lửa xuống đầu sóng... Mặc dù vậy, ông đò vẫn không hề
buông tay, tiếng chỉ huy tay chèo vẫn vô cùng ngắn gọn và đầy tỉnh táo vì ông là một người trí dũng hơn
người.

Ngoài ra, ông đò Lai Châu còn là một con người rất khéo léo. Lái thuyền trên dòng sông Đà thực sự là một
nghệ thuật. Ông đò Lai Châu vốn là một nghệ sĩ trên sông nước vậy nên tất cả những nhịp chèo của ông khi
thì khoan thai, khi thì mạnh khỏe, dứt khoát. Ông nhớ rất rõ từng con thác, từng tướng đá và biết rất rõ lúc
lui lúc tiến vô cùng nhịp nhàng. Có những tướng đá ông tránh ra để giảm tay chèo, nhưng có những con thác
ông đè sấn lên, chặt đôi ra để mở đường tiến. Nhiều lúc thuyền của ông đò như một cái tên tre xuyên qua
cổng đá cánh mở, cánh khép. Sau khi vượt qua ba trùng vi thạch trận, thuyền của người nghệ sĩ lái thuyền
trên dòng sông Đà ấy lại trôi vào một quãng sông lặng tờ, yên ả, nhịp chèo trở nên khoan thai như thuyền tôi
trôi trên sông Đà. Rồi cứ thế, qua cái quãng sông đầy nên thơ, người nghệ sĩ lúc này ngồi thản nhiên như để
ung dung ngắm cảnh ở nơi đây. Tối đến, nhà đò lại neo đậu trong một cái hang lạnh thổi lửa nướng cơm lam
và kể về việc nhà cửa, về cách làm ăn, kể về những loài cá quí hiếm chỉ có ở sông Đà. Tuyệt nhiên Nguyễn
Tuân không thấy những con người nơi đây kể về chiến công của mình sau một trận vượt thác. Đó là bởi đức
tính anh hùng là một phần cố hữu trong tâm hồn của người lái đò nơi đây, trở thành một phần bản chất của
người dân Tây Bắc. Đứng trước đức tính khiêm nhường của người Tây Bắc, cái "Tôi" của Nguyễn Tuân co

DUNG VAN PL _4
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
cụm lại, câu văn trở nên đầy tế nhị, không phô trương, kéo dài, ngồn ngộn ngôn ngữ như ở những đoạn văn
trên nữa. Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám mà thôi.

Thông qua "Người lái đò sông Đà", với khoảng vài trang sách, vài trang tùy bút, Nguyễn Tuân đã dựng lên
trước mắt chúng ta một bức chân dung của người nghệ sĩ lái đò. Ông thực sự là người nghệ sĩ trên sông
nước. Lái thuyền trên dòng sông Đà hung bạo, tay lái của ông vẫn ra hoa nhưng điều quan trọng mà ta cần
phải bàn đến đó là ông chính là bông hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa. Có lẽ đây là bức chân dung
chân thực nhất về vẻ đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa, những con người sống rất âm thầm, giản dị,
sẵn sàng trở thành một hậu phương lớn của một miền Bắc để sau này chi viện cho tiền tuyến lớn ở miền
Nam thành đồng Tổ quốc.

Như vậy, ta có thể thấy ông đò Lai Châu bước vào trang văn đã được thể hiện một cách vô cùng trân
trọng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân. Điều này chỉ có thể có ở một Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám vì
lúc này, Nguyễn Tuân đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, phù sa của nhân dân bồi đắp. Ông đứng giữa lòng
nhân dân mà nhân dân là cội nguồn của nghệ thuật. Nhớ lại trước cách mạng Nguyễn Tuân vẫn chìm đắm
trong vòng cái "Tôi" của một nhà văn lãng mạn tiêu biểu. Ông chỉ viết về những con người kì vĩ, lớn lao của
một thời vang bóng ví như nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm "Chữ người tử tù" lấy từ nguyên mẫu ngoài
đời là Cao Bá Quát. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân đi từ cái "Tôi" cô đơn đến cái "Ta" của cộng đồng. Vì
vậy, sau cách mạng Nguyễn Tuân viết nhiều về anh bộ đội, chị dân quân, anh du kích... Đó là những con
người anh hùng ngay trong đời bình thường, những con người rất bình dị. Ông đò Lai Châu là một nhân vật
như vậy. Để khẳng định rằng mình đã tìm thấy chủ nghĩa anh hùng ở những người dân bình thường, Nguyễn
Tuân đã để ông đò Lai Châu là một người khuyết danh khiến cho ông cũng là một con người bình thường
như muôn nghìn người dân Tây Bắc khác. Có thể khẳng định không quá lời rằng họ chính là những bông
hoa đẹp trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa.

Có thể khẳng định rằng bài kí "Người lái đò sông Đà" đã bộc lộ toàn bộ sở trường, phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân. Người ta yêu Nguyễn Tuân vì Nguyễn Tuân rất có tài. Người ta trọng Nguyễn Tuân vì
ông là một người nghệ sĩ của cái đẹp, người nghệ sĩ của hai chữ "thiên lương" trong sáng. Nhưng nói một
cách khách quan, văn của Nguyễn Tuân không phải ai cũng ưa chuộng, nhất là những bài tùy bút bởi
Nguyễn Tuân hay viết những câu văn rất dài cùng những tư liệu khá khô khan, khó hiểu. Bài kí "Người lái
đò sông Đà" cũng không tránh khỏi những tì vết kể trên. Tuy nhiên, với bức chân dung của ông đò Lai Châu
cùng tất cả những gì Nguyễn Tuân đã cống hiến trên thi đàn văn chương, Nguyễn Tuân thực sự là một tài
năng lớn, là một nhân cách lớn mà như Nguyễn Minh Châu đã nói: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về
người nghệ sĩ."
Bình giảng đoạn văn sau trong Người lái đò Sông Đà: "Thuyền tôi trôi trên sông Đà... mình dây cổ
điển trên dòng trên"
DUNG VAN PL _5
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

Bài làm
Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã
trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng
rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong
lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta
thêm yêu mến tự hào.
Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm
cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người
Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là "chất vàng mười" của tâm hồn. Là một con người
yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi
và sông, về cỏ cây trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
Bút pháp của Nguyễn Tuân rất biến hóa. Lúc thì ông miêu tả sông Đà "hung bạo và trữ tình" qua cặp mắt
ông lái đò dũng cảm, tài hoa. Lúc thì ông nhắc đến sông Đà như một "cố nhân" sau những ngày dài ở rừng
đi núi "thèm chỗ thoáng", và khi gặp lại con sông "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mui dầm, vui như nối
lại chiêm bao đứt quãng". Có lúc Nguyễn Tuân từ trên tàu bay nhìn xuống Đà Giang bâng khuâng dõi theo
dáng hình của nó "tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình...". Có lúc ông lại trôi theo con đò êm ả xuôi
dòng để thăm thú và tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ, kì thú mà nhiều người trong chúng ta thèm khát. Nhà văn
đang miêu tả hay đang tâm tình. Đây một đoạn tùy bút đẹp, gợi tả vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của miền
trung lưu Sông Đà, một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi hiếm có:
"Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ... và con sông đang trôi những con đò mình nở
chạy buồm vải nó khác hẳn những con đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên".
Nếu trong cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân tung ra một vốn từ ngữ phong phú, chính xác, mới lạ để diễn tả
cuộc chiến giữa ông đò với thần sông, thần đá có đủ quân đông, tướng dữ, bằng một giọng văn mạnh mẽ,
nhịp vần gấp như thác gầm, sóng réo, thì đến đoạn văn này giọng văn, nhịp điệu thay đổi hẳn: nhẹ nhùng,
lâng lâng, mơ màng. Vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm của Đà Giang ở quãng trung lưu được diễn tả đầy chất thơ.
Đó là quãng sông từ thác Tiếu trở như một câu tục ngữ Thái đã nói: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm" -
mới có vẻ êm đềm thơ mộng ấy. Câu văn toàn thanh bằng diễn tả con thuyền êm ái nhẹ nhàng trôi xuôi:
"Thuyền tôi trôi trên sông Đà...". Một không gian nghệ thuật "lặng lờ" như ru "ông khách Sông Đà" vào giấc
mộng phiêu du. Cái "lặng lờ" được nhấn đi nhấn lại như ướp hương rừng gió núi vào hồn người mà lắng
nghe, mà cảm nhận, mà thưởng ngoạn: "Cảnh ven sông ở đáy lặng tờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà. Ngược thời gian một thiên niên kỉ về trước, hai tiếng "lặng tờ" dẫn
người đọc trở về với "mấy trăm năm thấp thọáng mộng bình yên" (Hoàng Cầm). Đã có cái "phẳng lặng tờ"

DUNG VAN PL _6
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
của con sông trong cổ thi: "Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ" nên mới có cái "lặng tờ" êm như ru của
sông Đà mà Nguyễn Tuân cảm mến.
Mơ màng nhìn dòng sông, nghe nước êm trôi "lặng tờ", ông khách sông Đà bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần
cảnh ven sông. Bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô "nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa", đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng
ngạc nhiên "mà tịnh không một bóng người". Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những "nõn
búp" ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa
làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu "hoang dại" và "cổ tích". Không phái chú nai vàng ngơ
ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào : mà ở đây chì có: "Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm". Chỉ có Nguyễn Tuân mới có cái nhìn "xanh
non" ấy, mới có cách nói, cách tả độc đáo ấy; ông đã thả hồn mình vào linh vật, mà yêu mến, nâng niu. Câu
văn của ông tưởng như là hai vế của của một câu song quan trong bài phú lưu thúy:
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử;
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật
mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. "Bờ tiền sử", "nỗi niềm cổ tích tuổi xưa" là chữ của nhà văn
bậc thầy về ngôn ngữ này. Nguyễn Tuân không dựa vào trực giác để so sánh, ông ta đã dùng tưởng tượng để
tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kì thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm
xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp "hoang dại" và "hồn nhiên" của Đà Giang.
Rồi từ trong cái không gian "hoang dã" ấy của đôi bờ sông Đà, Nguyễn Tuân khao khát sống, khao khát
"thèm" một âm vang của thời đại. Từ giấc mơ của "bờ tiền sử" chuyển sang giấc mơ về một tương lai huy
hoàng qua một tiếng còi tàu kì diệu... Trong mộng tưởng có nhiều say mê: "Chao ôi thấy thèm được giật
mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đườngsắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu''. Ông
yêu sông Đà với cái "hồn nhiên", "hoang dại'' của nó, đã "nhìn sông Đà như một cổ nhân", ông còn "thèm"
ánh sáng của thời đại chiếu rọi đôi bờ Đà Giang, đưa người đọc cùng ông bay lên cùng "ngọn gió ngày mai
thổi lại...". Chất lãng mạn trong văn Nguyễn Tuân dìu dịu trong hương hoa "bữa tiệc thạch lan hương" thuở
nào, chỉ đủ cho ta mơ ước về một viễn cảnh...
Đó là dư vị, là nhã thú mà ta cảm nhận được qua tiếng còi xúp lê mơ màng. Cuộc đối thoại giữa ông khách
sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là một bài thơ trữ tình kì diệu, một giấc mơ chập chờn chơi vơi
trong cái lặng tờ của ven sông. Cái tĩnh lặng của khoảnh khắc giao cảm thần tiên giữa ông khách sông Đà
với đàn hươu núi đã lên đến đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cò sương, hươu chăm chăm nhìn người như
dò hỏi. Lòng người và tạo vật cùng rung động: "con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương,
chăm chăm nhin tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò". Hươu nhìn người mà ngơ ngác Người nhìn đàn hươu mà
lâng lâng chìm vào mộng tưởng. Không một tiếng động nhỏ. Cả một không gian nghệ thuật trở nên tĩnh

DUNG VAN PL _7
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
lặng, thiêng liêng, nhiệm màu. Hươu hỏi người hay người tự hỏi? Một giả định vừa thực vừa mộng ảo, siêu
thực mà lãng mạn.
Từ cõi mộng mà trở về thực tại với bao nỗi bồi hồi: Hươu vểnh tai, nhìn tôi khôug chớp mắt mà như hỏi
mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: "hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy
một tiếng còi sương?". Có thể nói những nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ tài hoa,
độc đáo, đã gợi tả cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dại của đôi bờ con sông Đà, đã tạo nên chất thơ, chất mộng
ảo, dào dạt trong lòng người và thiên nhiên tạo vật. Câu chữ rất có duyên gợi lên cái hồn của cảnh vật: "Con
hươu thơ ngộ", "ngẩng đầu nhung", "áng cỏ sương", "chăm chăm nhìn", "Con vật lành", "tiếng còi sương...".
Nguyễn Tuân đã nhìn thiên nhiên với cái nhìn phát hiện ở những chi tiết, dáng vẻ mang tính thẩm mĩ tài hoa.
Cảnh biến đổi nên câu văn Nguyễn Tuân cũng co duỗi biến hóa. Một tiếng động nhỏ của con cá dầm xanh
như làm cho ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng. Mượn cái động để tả cái tĩnh được vận dụng sáng tạo, mở
ra một không gian nghệ thuật mới. Cá quầy, đàn hươu vụt biến, cá vọt lên mặt sông "bụng trắng như bạc rơi
thoi". Như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn. Hươu núi vụt biến, cá bụng
trắng vượt lên rồi rơi xuống, lặn xuống; trước mắt du khách chỉ còn là một màu xanh của nước, màu xanh
cùa cỏ gianh đồi núi. Câu văn "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi" là một
câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so
sánh "đàn cá. bụng trắng như bạc rơi thoi" đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình
thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh.
Cá quẫy... đàn hươu vụt biến... và ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng, trở về thực tại, với con đò trôi xuôi,
êm ái, lặng tờ. Vốn là một nhà văn tài hoa. uyên bác, những câu văn, câu thơ cổ kim đông tây, ông "giắt đầy
mình", vui thì ông đưa duyên, buồn thì ông ngâm ngợi Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Chưa
có thi sĩ nào viết nhiều và viết hay về núi Tản sông Đà như Nguyễn Khắc Hiếu. Có trăng phải có rượu, cũng
như có cảnh đẹp thì phải ngâm thơ. Nguyễn Tuân coi sông Đà là "cố nhân", nên lấy thơ thi sĩ Tản Đà ra
ngâm vịnh, mà ngắm cảnh đẹp Đà Giang, hỏi có còn nhã thú nào bằng? Tản Đà có ba bài thơ trường thiên
cùng chung một giọng điệu: "Thư đưa người tình nhân không quen biết" (1918), "Thư trách người tình nhân
không quen biết (1921), "Thư lại trách người tình nhân không quen biết" (1926). Nguyễn Tuân chỉ trích hai
câu trong bài thơ thứ hai, trích hai câu hay nhất, đích đáng mà lại vừa hợp cảnh, hợp tình, ông viết:
"Thuyền tôi trôi trên "dải sông Đà bọt nước lênh bênh - bao nhiêu cảnh bấy; nhiêu tình" của "một người tình
nhân chưa quen biết" (Tản Đà). Việc trích dẫn thơ Tản Đà ở đây còn mang một ý nghĩa "tri ân", "Rượu ngon
không có bạn hiền" để cùng nhau "đối tửu". Cũng như có cảnh đẹp mà thiếu bạn thì cái yêu hoa thưởng
nguyệt đã giảm đi ít nhiều nhã thú. Đọc thơ bạn, ngâm bạn trong lúc này, Nguyễn Tuân xem như bạn đang
cùng mình ngồi trên thuyền trôi trên "dải sông Đà bọt nước lênh bênh..." mơ màng tâm tình và thưởng
ngoạn. Đó là tài tử, là tài hoa. Đó là tri ân, tri kỉ.

DUNG VAN PL _8
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước
chảy "lững lờ", nhà văn cảm thấy nó "như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn
Tây Bắc". Dòng sông vẫn "lững lờ" êm trôi "như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và
con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây
cổ điển trên dòng trên", "Con đò mình nở chạy buồm vải", "Con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển", là nhận
xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng
sông, vào con đò, vào cảnh vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình
yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đàm thắm nồng hậu, một cái lắng nghe trìu mến yêu thương. Nguyễn
Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông để cùng với nó mà "lắng nghe", mà nhớ
thương, những âm vang, những nhịn sống ấm ấp của cuộc đời. Ta cảm thấy có một dòng sông đang êm
trôi,đang lững lờ trong tâm hồn minh, bát ngát mênh mông... Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta
bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy!
Nguyễn Tuân yêu sông Đà, yêu Tây Bắc, yêu một trời hoa ban, yêu một sắc đầy Tô Hiệu, yêu một ông lái đò
dũng mãnh tài ba, lúc vượt thác cũng như lúc ngồi trong hang đá nướng ống cơm lam... Bác Nguyễn yêu cái
lặng tờ của dòng sông ,yêu đàn hươu rừng thơ ngộ, yêu một tiếng cá dầm xanh quẫy, vọt lên mặt sông "bụng
trắng như bạc rơi thoi". Tác giả Sông Đà còn yêu và say mê ngắm "con đò đuôi én thát mình dây cổ điển"
của người Thái, "con đò mình nở chạy buồm vải" của người Kinh, người Mường... Yêu sông Đà, yêu cảnh
sắc sông Đà yêu Tây Bắc, với Nguyễn Tuân, với chúng ta, chính là tình yêu sông núi, yêu con người Việt
Nam cần cù, nhân hậu, dũng cảm, tài ba..
Đoạn văn trên chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp - vẻ đẹp
thơ mộng - của Đà Giang ở quãng trung lưa. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn
Nguyễn Tuân. Một chất thơ tỏa rộng, man mác. Một ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo
hình dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu. Những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi. Đây là một đoạn hay
và đẹp nói về hương sắc đất nước. Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên "trang hoa", "tờ hoa" này.. Người đọc vẫn cảm thấy mình
trở thành "ông khách sông Đà" đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn say mê
ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ cùa dòng
sông "dải sông Đà bọt nước lênh bênh...".

DUNG VAN PL _9
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
A2. SÔNG ĐÀ – CON SÔNG TRỮ TÌNH CỦA MIỀN TÂY BẮC

3. Nghệ thuật:
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân hóa, miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ
ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để
miêu tả… Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
4. Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
– Phong cách nghệ thuật: độc đáo, tài hoa, uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi kiếm tìm cái đẹp:Nguyễn
Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện thẩm mỹ; Nguyễn Tuân luôn đi tìm cảm hứng mạnh trong sáng tạo
nghệ thuật: Tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt, những ấn tượng đậm nét.
– Nét tài hoa, uyên bác:Ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn tả được mọi sắc thái, mọi cung bậc,
hình thù, màu sắc của sông Đà. Nguyễn Tuân là “bậc thầy của ngôn từ”” người làm xiếc trên ngôn từ”…
Vận dụng kiến thức nhiều bộ môn.

Hai nét tính cách hung bạo và trữ tình đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn
Tuân - một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác
nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển,
của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán
xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì
từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài -
Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà ở nhiều tầm nhìn khác nhau, lúc thì nhìn từ
trên cao xuống - lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc lại nhìn gần đi từ rừng ra và đi thuyền trực tiếp trên
sông nước.
Trước hết là cảm nhận của nhà văn về vẻ đẹp của sông Đà khi nhìn từ trên cao xuống , tác giả so
sánh từ trên máy bay sông Đà “như chiếc dây thừng ngoằn ngoèo”, phép so sánh cụ thể hóa dáng hình mềm
mại của sông Đà giống như ca dao xưa ví dòng sông uốn lượn trên núi rừng Tây Bắc. Tác giả tiếp tục sử
dụng trùng điệp các đối so sánh liên hoàn để tô đậm thêm vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ muôn sắc của dòng
sông, “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…”. Điệp ngữ “tuôn dài” được lặp lại hai lần nhấn mạnh chiều
dài sông Đà chảy suốt chiều dài biên giới phía Tây Tổ quốc. Phép so sánh sông Đà như một áng tóc trữ tình
lại nhấn mạnh dáng hình dòng sông mềm mại óng ả, mượt mà, duyên dáng uyển chuyển, yêu kiều, hình ảnh
ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù khói núi mèo đốt nương xuân,
chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp tình tứ của dòng sông. Động từ “bung nở” là một động
từ mạnh đứng trước hai loài hoa của mùa xuân là hoa gạo đỏ tươi và hoa ban trắng tinh khiết làm tăng thêm
cảm nhận về sự vận động của sắc màu cứ xôn xao rạo rực rồi bừng lên lộng lẫy, trang điểm cho dòng sông
đẹp tuyệt diệu cuốn hút lòng người. Những phép tu từ giúp Nguyễn Tuân vừa tả sông Đà lại vừa gợi lên vẻ
đẹp lộng lẫy giống như một cô gái Tây Bắc e ấp tình tứ.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Ở mỗi thời
điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà
xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là
xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi
lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng
phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân.
Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng
tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.Nguyễn Tuân phải rất yêu sông Đà thì mới có cái
nhìn đắm đuối say mê xuyên qua làn mây mùa xuân thấy “mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích”, phép so
DUNG VAN PL _10
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
sánh tài hoa làm nổi bật màu nước sông Đà vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập
khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Còn khi qua làn sương mùa
thu thì nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”, gợi cho ta cảm giác nước
sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Khi
đi từ rừng ra nhà văn lại thấy nước sông Đà chói lóa như trẻ con nghịch miếng gương chiếu vào mặt trời,
ánh sáng này cũng cho ta cảm nhận rằng nước sông Đà rất trong, phản chiếu ánh mặt trời chói lóa gợi cảm
giác ấm áp. Trên bờ bãi sông còn có sắc màu lộng lẫy của chuồn chuồn, bươm bướm.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Tác giả ví sông Đà như một cố nhân
đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu
Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – “Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu “của Lý
Bạch,Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy
trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh
bình. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông
Đà”. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực ,vẻ đẹp thơ mộng của
dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Nguyễn
Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những quãng sông này
“lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi
niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh” hiền lành như muốn hỏi ông khách
sông Đà…, những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như
bạc rơi thoi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa giàu. Có lẽ ở nơi đây chỉ có thiên nhiên làm chủ vẻ đẹp của
chính mình và con người chỉ đóng vai trò là một “ông khách” thưởng ngoạn cái đẹp.

Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những
quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn
nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh”, “những tiếng cá
đập nước làm đàn hươu nai biến mất”, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dòng
sông vừa đẹp vừa giàu.
Với đôi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên nhiên sông
Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dòng sông lúc thì như một cố nhân, lúc lại đắm say như một
tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi xa thì nhớ, gặp lại thì vui như nối lại chiêm bao đứt quãng,
như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa dầm” có cảm giác đằm đằm, ấm ấm rất hạnh phúc. Tài hoa của
Nguyễn Tuân đã truyền đến cho người đọc bao yêu thương trìu mến để sông Đà mãi sống trong lòng người
đọc.
* Nghệ thuật:
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân hóa, miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ
ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để
miêu tả… Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
*. Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
– Phong cách nghệ thuật: độc đáo, tài hoa, uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi kiếm tìm cái đẹp:Nguyễn
Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện thẩm mỹ; Nguyễn Tuân luôn đi tìm cảm hứng mạnh trong sáng tạo
nghệ thuật: Tô đậm những cái phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt, những ấn tượng đậm nét.
– Nét tài hoa, uyên bác:Ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn tả được mọi sắc thái, mọi cung bậc,
hình thù, màu sắc của sông Đà. Nguyễn Tuân là “bậc thầy của ngôn từ”” người làm xiếc trên ngôn từ”…
Vận dụng kiến thức nhiều bộ môn.

DUNG VAN PL _11


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
ùy bút Người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân viết vào năm 1960 in trong tập tùy bút Sông Đà. Tác phẩm
là kết quả của chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn của những
con người lao động, chiến đấu nơi núi rừng đậm chất vàng mười của Nguyễn Tuân.
Qua tác phẩm "Người lái đò sông Đà" Nguyễn Tuân muốn khắc họa một thiên nhiên Tây Bắc đầy màu sắc
và chuyển động. Một trong những phần đẹp nhất của thiên nhiên là sông Đà. Nước sông Đà thay đổi theo
mùa, có nghĩa là có màu sắc khác nhau và có hình dạng khác nhau. Dọc theo sông Đà có rất nhiều thác
ghềnh, một số thác có những tảng đá được tạo hình thành những cánh cổng tượng trưng cho sự sinh và tử.
Đồng thời, nhà văn còn nhận thấy ở người lao động mới chất nghệ thuật, tài năng, bản lĩnh cao cả: chất vàng
thứ mười của đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, nhà văn đã ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây
Bắc, cũng như con người Tây Bắc cần cù, dũng cảm và tài hoa.

2. Phân tích vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà


Nguyễn Tuân là nhà văn yêu thiên nhiên, cái đẹp. Các tác phẩm của ông chứa đầy những hình ảnh sống
động về con người và thiên nhiên, với trọng tâm là ca ngợi cái trước. Một trong những sáng tác nổi tiếng
nhất của Nguyễn Tuân phải kể đến là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm này, con sông Đà
được nhìn lên vừa dữ dội vừa hiền hòa, hệt như một dòng sông Tây Bắc xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm, nhiều góc độ khác nhau nên có rất nhiều cách cảm
nhận về hình dáng con sông này. Khi ngồi trên máy bay nhìn xuống, nhà văn nhận thấy dòng sông như một
cái dây thừng ngoằn ngoèo trải ra trên một đại dương núi đá. Hình ảnh này giúp người đọc hình dung được
toàn cảnh về độ lớn, độ hoành tráng của dòng sông, nó uốn lượn trải dài gần như toàn bộ vùng Tây Bắc.
Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì không có gì xứng đáng với tình yêu của tác giả,
chính dòng sông này lại mang trong mình một vẻ đẹp khác, vô cùng thơ mộng, trữ tình làm xao xuyến lòng
người: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Câu văn dài chỉ
một dấu ngắt tay duy nhất kết hợp với điệp từ "tuôn dài" khiến Sông Đà hiện lên như một người thiếu nữ
Tây Bắc với vẻ đẹp trữ tình, trẻ trung, duyên dáng, bồng bềnh giữa núi rừng.
Nếu ở trên thượng nguồn, dòng sông hung bạo bao nhiêu thì về đến hạ nguồn dòng sông lại trở nên đằm
thắm, dịu dàng bấy nhiêu. Bản thân dòng sông đã mang vẻ đẹp quyến rũ nhưng tác giả còn tô điểm thêm
màu sắc, đường nét cảnh vật xung quanh. Sắc xanh của dòng sông càng trở nên nổi bật giữa sắc trắng tinh
khôi của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng người của hoa gạo, bức tranh đó lại được ẩn hiện trong lớp sương
khói núi Mèo càng tạo nên vẻ đẹp mơ màng, huyền áo, đầy bí ẩn. Đoạn văn còn thể hiện tài hoa của nhà văn
trong việc sử dụng ngôn ngữ giữa hai chữ "tuôn dài" thường sẽ có một dấu phẩy nhưng tác giả cố tình phá
vỡ cấu trúc ngữ pháp để tô đậm ấn tượng về cái mênh mang, trải dài, mềm mại, duyên dáng của dòng sông.
Câu văn còn sử dụng nhiều thanh bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy êm đềm, nhẹ nhàng. Chính
những nét phá vỡ đấy đã cho người đọc thấy được sự say mê của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của đất nước.
Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp nhất được coi là "tờ hoa" trong
nền văn học Việt Nam.

DUNG VAN PL _12


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường phát hiện nước Sông Hương thay đổi theo thời gian trong ngày "Sớm xanh
trưa vàng chiều tím" thì Nguyễn Tuân lại nhìn thấy nước Sông Đà thay đổi theo mùa trong năm. Mùa xuân
"Sông Đà mang sắc xanh ngọc bích". Ẩn đằng sau hình ảnh miêu tả tưởng chừng như đơn giản ấy là vẻ đẹp
của nước, về độ trong cũng như ánh sáng trên dòng sông. Bởi để có thể tạo nên sắc xanh đẹp đẽ như sắc ngõ
thì đòi hỏi dòng nước phải đạt đến độ trong vắt, dòng chảy êm đềm, ngoài ra còn có ánh sáng chan hòa rực
rỡ. Bằng sự từng trải của một người ham mê phong cách xê dịch, nhà văn đã nhận thấy cùng là sắc xanh
nhưng chỉ nước sông Đà về mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và đẹp như thế, còn các dòng sông khác như
sông Lô, sông Gâm lại mang màu xanh cánh hến.
Về mùa thu nước sông Đà lại biến đổi hoàn toàn, không còn là màu xanh mà chuyển sang "lừ lừ chín đỏ như
da mặt một người bầm đi vì rượu, "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Câu văn gợi ra một dòng sông chảy chậm, nhẹ nhàng với màu đỏ của phù sa nặng trĩu. Sắc đỏ của dòng sông
được miêu tả không chỉ ở bề mặt mà còn ở sâu trong tâm trạng, ở sự bất mãn, bực bội mà phải cảm nhận
bằng tâm hồn mới hiểu được. "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo" vì thế mà Nguyễn Tuân đã có một
phép so sánh trường nghĩa đầy táo bạo màu sắc sông giống với màu bệnh lý của khuôn mặt người. Bằng tình
yêu của một người say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng thắn phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã gọi
sông Đà là sông Đen. Nhà văn đã trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của
con sông xứ sở và niềm tự tôn dân tộc sâu sắc.
Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không đơn thuần chỉ là quan hệ giữa nhà văn với đối tượng được miêu tả
mà còn là giữa những người bạn tri ân, tri kỷ. Tác giả đã dùng một từ rất thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông
Đà, đó chính là "cố nhân". Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở
nơi thượng nguồn. Về đến thượng nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng, đằm thắm, trở thành một người
bạn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người. Bởi vậy, khi xa dòng sông nhà văn nhớ nó như một
người bạn thân thiết. Tác giả dành cho dòng sông một nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi gặp lại con sông
yêu thương, niềm vui đã vỡ òa tràn ra bề mặt câu chữ.
Nắng chiếu trên dòng sông Đà đẹp đến mê hồn. Nguyễn Tuân đã tạo ra một kết hợp từ độc đáo "Nắng tháng
ba Đường thi", trong câu văn có cả màu sắc, thời gian và thi ca. Căn văn đưa người đọc trở về với vẻ đẹp
lãng mạn trong thơ Đường " Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Ấn tượng để lại trong lòng người đọc là
hình ảnh dòng sông phẳng lặng, yên bình, trong sáng và đầy sắc xuân. Cảm xúc được bộc lộ trực tiếp bằng
hình ảnh so sánh độc đáo "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng". Đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được đem ra so sánh có sự đối lập nhau.
"Nắng giòn tan" là hình ảnh ẩn dụ gợi ra cái nắng trong trẻo, nhẹ nhàng hoàn toàn tương phản với cái u ám
trĩu nặng của bầu trời ngày mưa dầm. Đặc biệt "nối lại chiêm bao đứt quãng" là việc gần như không thể có
trong đời và nó hi hữu, hiếm hoi bao nhiêu thì đem lại cảm giác sung sướng bấy nhiêu. Cuối cùng, Nguyễn
Tuân nhấn mạnh lại một lần nữa cảm giác gặp lại sông Đà bằng hình ảnh so sánh "nó đằm đằm ấm ấm như
gặp lại cố nhân". Hai từ láy liên tiếp gợi cảm giác ấm áp, trìu mến. Sông Đà trở thành người bạn cũ với bao
kỉ niệm, tình yêu thương và nhớ nhung. Hình ảnh dòng sông mang đến cho người đọc những cảm xúc chân
thành, vừa mãnh liệt, vừa hết sức nhân văn đó là tính trữ tình toát lên từ tâm hồn, tính cách của dòng sông hạ
nguồn.
DUNG VAN PL _13
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Từ điểm nhìn của mình, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ cảnh vật
ven sông. Một vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn đó dấu tích lịch sử của ông cha ta để lại "cảnh ven
sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến như thế". Hai
hình ảnh so sánh độc đáo đặt cạnh nhau "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích xưa" gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo và tĩnh lặng đến tuyệt đối của dòng sông Đà. Chất
trữ tình còn được thể hiện rõ nét qua cảnh vật như "nương ngô nhú lên mấy lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp, con hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh". Chỉ vài chi tiết nhỏ nhưng tạo ra ấn tượng về sự tràn
đầy sức sống của những bờ đê dọc con sông Đà. Cảnh vật nối tiếp nhau tạo nên một bức tranh thơ mộng, trữ
tình bình yên. Biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt bụng trắng như bạc
rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến" đã khẳng định không gian thanh bình vắng vẻ
nơi đây. Tác giả đã chứng minh được vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng
bất tận cho thi ca.
Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà tuyệt đẹp bằng cách sử dụng cảm nhận tinh tế, giác quan
nhạy bén, ngôn từ độc lạ và một lối viết tài hoa. Ông đã biến hình ảnh dòng sông trở thành một biểu tượng
thể hiện niềm tự hào về thiên nhiên cây cỏ, sông núi và khát khao tìm thấy cái đẹp. Bài tùy bút "Người lái đò
sông Đà" là một câu chuyện hiện thực về thiên nhiên và nguồn cảm hứng mãnh liệt say mê với nó của
Nguyễn Tuân. Đặc sắc nghệ thuật của nó với nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú đã làm cho
sông Đà trong văn học mãi mãi trở thành một địa danh nghệ thuật.

BỘ ĐỀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN


ĐỀ 01

I. ĐỌC – HIỂU (3.0 điểm)


Đọc đoạn trích:
“ Những tình yêu thật thường không ồn ào
chúng tôi hiểu đất nước đang hồi khốc liệt
chúng tôi hiểu điều ấy bằng mọi giác quan
bằng chén cơm ăn mắm ruốc
bằng giấc ngủ bị cắt ngang cắt dọc
bằng những nắm đất mọc theo đường hành quân

có những thằng con trai mười tám tuổi


chưa từng biết nụ hôn người con gái
chưa từng biết những lo toan phức tạp của đời
câu nói đượm nhiều hơi sách vở
khi nằm xuống
DUNG VAN PL _14
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
trong đáy mắt vô tư còn đọng một khoảng trời
hạnh phúc nào cho tôi
hạnh phúc nào cho anh
hạnh phúc nào cho chúng ta
hạnh phúc nào cho đất nước”
(Thanh Thảo, Thử nói về hạnh phúc, 1972, dẫn theo thivien.net)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Trong đoạn trích, hoàn cảnh khốc liệt của đất nước được tác giả thể hiện thông qua những hình ảnh
nào?
Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về nội dung của những câu thơ sau:
có những thằng con trai mười tám tuổi
chưa từng biết nụ hôn người con gái
chưa từng biết những lo toan phức tạp của đời
câu nói đượm nhiều hơi sách vở
khi nằm xuống
trong đáy mắt vô tư còn đọng một khoảng trời
Câu 4. Theo anh/chị, giữa hạnh phúc…cho tôi và hạnh phúc…cho chúng ta, điều gì quan trọng hơn? Vì
sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày
suy nghĩ của mình về hạnh phúc..

DUNG VAN PL _15


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Câu 2 (5.0 điểm)
“…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy
hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà
châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên
tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn
gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ
tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi,
nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy
quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn
này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những
luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không
ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng
thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải
bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được. Thế là hết thác…”
Cảm nhận của anh /chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét cái nhìn
mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân

(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12
- tập một, NXB Giáo dục Việt Nam - tr 189, 190)
------------ Hết -------------

(Ghi chú: Học sinh không được sử dụng tài liệu. Giám thị không giải thích gì thêm)

ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN 12


BÀI VIẾT SỐ 3
PHẦN CÂU NỘI DUNG ĐIỂM
I ĐỌC - HIỂU 3.0
1 Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm 0.5
2 - Trong đoạn trích, hoàn cảnh khốc liệt của đất nước được tác giả thể hiện 0.5
DUNG VAN PL _16
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
thông qua những hình ảnh: “chén cơm ăn mắm ruốc”, “giấc ngủ bị cắt
ngang cắt dọc”, “những nắm đất mọc theo đường hành quân”, “có những
thằng con trai mười tám tuổi, khi nằm xuống…”
3 - Những câu thơ thể hiện sự hi sinh, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đất 0.5
nước của những người lính trẻ. Họ “nằm xuống” để đất nước được hòa
bình, độc lập, tự do khi tâm hồn vẫn hồn nhiên, vô tư, trong sáng và đầy
mơ mộng.
- Bộc lộ niềm trân trọng, tự hào xen lẫn tiếc thương của nhà thơ dành cho
thế hệ mình trong những năm chống Mĩ đầy ác liệt. 0.5
4 - Nêu rõ sự lựa chọn của bản thân, trả lời câu hỏi hạnh phúc nào thực sự 0.5
quan trọng với chính mình.
- Trình bày được cách hiểu của bản thân về quan niệm hạnh phúc đã lựa
chọn. 0.5
- Lí giải hợp lí, thuyết phục chủ kiến của mình.
II LÀM VĂN 7.0
1 Trình bày quan điểm của mình về hạnh phúc trong cuộc sống hiện đại 2.0
ngày nay.
a. Đảm bảo thể thức một đoạn văn 0.25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, móc xích,
song hành hay tổng - phân - hợp
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: 0.25
Quan điểm về hạnh phúc trong cuộc sống hiện đại ngày nay.
c. Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn: 1.0
Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn
chứng.. Có thể viết đoạn văn theo định hướng sau:
- Giải thích: Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc tích cực của con người
có được khi họ có được niềm vui, thỏa mãn từ một việc gì đó. Hạnh phúc
có thể đến từ những điều nhỏ bé, giản dị: có cơ thể lành lặn, có thể còn
được sống, được thấy nụ cười của mẹ, được điểm cao trong môn học, dành
dụm mua được món đồ yêu thích…
- Bình luận:
+ Hạnh phúc của một người rất đáng trân trọng.
+Hạnh phúc giúp con người thỏa mãn nhu cầu tinh thần của bản thân, làm
cuộc sống trở nên vui vẻ hơn.
+ Tạo cảm giác yêu đời, yêu cuộc sống.
+ Tạo động lực để vượt qua những thách thức, mệt mỏi khó khăn và đạt
được những niềm hạnh phúc mà bản thân khao khát.
- Mở rộng vấn đề
+ Luôn mở rộng cửa trái tim để đón nhận những điều tốt đẹp.
+ Phê phán những kẻ bằng mọi cách để thảo mãn dục vọng bản thân để có
được hạnh phúc. Đó không phải là hạnh phúc đích thực.
– Bài học hành động: Không ngừng cố gắng, nỗ lực để đạt được mục tiêu
để có được hạnh phúc xứng đáng.
d. Sáng tạo: Cách diễn đạt độc đáo, có suy nghĩ riêng về vấn đề nghị luận. 0.25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng 0.25
Việt.
2 Cảm nhận của anh /chị về hình tượng người lái đò sông Đà 5.0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển 0.25
khai được vấn đề, Kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận. 0.5
Cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà

DUNG VAN PL _17


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm. 3.5
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao
tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng, đảm bảo các yêu cầu
sau
* Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông 0.5
Đà và đoạn trích
*Giới thiệu khái quát về người lái đò
*Hình tượng người lái đò trong đoạn trích:
- Là con người lao động mang vẻ đẹp trí dũng:
+ Trùng vi thạch trận thứ nhất: 1.0
 Sông Đà như một kẻ thù nham hiểm, hung hãn, chúng ra những
miếng đòn hiểm độc.
 Người lái đò bình tĩnh, kiên cường, nén chịu vết thương, tỉnh táo chỉ
huy sáu bơi chèo, hiên ngang như một chiến tướng vững vàng, mưu
trí, dày dạn kinh nghiệm trên chiến trường sông nước.
+ Trùng vi thạch trận thứ hai:
 Sông Đà lộ rõ hơn bộ mặt nham hiểm, hùng mạnh như thú dữ, quyết
tiêu diệt con thuyền và ông đò.
 Với kinh nghiệm sông nước, sự am hiểu tường tận về Đà giang, ông
đò đã thay đổi chiến thuật. Ông dũng mãnh như một vị tướng đang
chế ngự, thuần phục dòng sông.
+ Trùng vi thạch trận thứ ba:
 Cách bày binh bố trận nguy hiểm và đáng sợ hơn hai vòng trước
 Ông đò quyết đoán với những hành động khéo léo, dũng cảm, thần
tốc nhanh gọn, chính xác phá tan trận địa.
- Là con người lao động mang vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ 1.0
+ Ông lái đò được đặt trong tình huống thử thách đặc biệt: chiến đấu với
thác dữ sông Đà, vượt qua ba trùng vi thạch trận bằng tài nghệ “tay lái ra
hoa”
+ Động tác ông đò thành thạo, thuần thục, chính xác, điêu luyện như một
nghệ sĩ tài hoa.
+ Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy của
thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái
điêu luyện. 0,5
*Về nghệ thuật:
+Tạo tình huống đầy thử thách cho nhân vật; chú ý tô đậm nét tài hoa,
nghệ sĩ; sử dụng ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, tài hoa;
+Kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc, bút pháp nghệ thuật so sánh,
nhân hóa, liên tưởng độc đáo, thú vị;
+Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả
cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
Đánh giá: Vẻ đẹp người lái đò Sông Đà là vẻ đẹp của người anh hùng lao
động trong công cuộc dựng xây cuộc sống mới của đất nước. 0,5
Nhận xét: Nhân vật ông lái đò thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát hiện
của ông về con người lao động Việt Nam, người lái đò vô danh – chất vàng
mười của tâm hồn Tây Bắc, nhân vật điển hình cho những người lao động
bình dị đã và đang sống, lao động làm giàu cho Tổ quốc.
d. Sáng tạo: Có quan điểm riêng, suy nghĩ mới mẻ, phù hợp với đặc trưng 0.25
tiếp nhận văn học.
đ. Chính tả, dùng từ đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa 0. 5
tiếng Việt.

DUNG VAN PL _18


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Tổng điểm 10.0

ĐỀ SỐ 36
2. MỤC TIÊU ĐỀ THI
1 Kiến thức:Thu thập thông tin để đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng đối với một số nội dung
Tiếng Việt, Đọc hiểu và Làm văn trọng tâm trong chương trình Ngữ văn THPT.
2. Kỹ năng: Đánh giá kỹ năng đọc hiểu một văn bản ngoài SGK và kỹ năng vận dụng các thao tác lập
luận để viết bài văn nghị luận văn học; Kĩ năng trình bày và diễn đạt các nội dung bài viết.
3. Thái độ: Có quan điểm tích cực trước những vấn đề cần nghị luận, định hướng cho học sinh lối sống
đúng đắn, tính trung thực trong thi cử.
4. Năng lực:Phát huy năng lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực sáng tạo của học sinh.
B. HÌNH THỨC KIỂM TRA
1. Hình thức: Tự luận, thời gian 120 phút.
2. Cách thức tổ chức kiểm tra: Kiểm tra chung
C. THIẾT LẬP MA TRẬN
Mức độ Vận dụng
Nhận biết Thông hiểu Tổng
Chủ đề Vận dụng thấp Vận dụng cao
Chủ đề 1: Đọc
Hiểu được nội Nêu được tác dụng Liên hệ bản
hiểu (Một văn bản Nhận biết thể thơ
dung các dòng thơ của biện pháp tu từ thân
ngoài SGK)
Số câu 1 1 1 1 4
Số điểm 0,5 0,75 0,75 1,0 3.0
Tỉ lệ 5% 7,5% 7,5% 10% 30%
Chủ đề 2: Đoạn văn Viết được đoạn văn
Nghị luận xã hội nghị luận xã hội
Số câu 1 1
Số điểm 2 2
Tỉ lệ 20% 20%
– Hiểu được yêu
Xác định vấn đề cầu trọng tâm của
Chủ đề 3: Làm nghị luận, phạm đề bài. Vận dụng kết hợp
Liên hệ vận
văn Nghị luận về vi, dẫn chứng, – Hiểu được đề kiến thức, kỹ năng,
dụng kiến thức
một tác phẩm trong thao tác lập luận tài, cảm xúc chủ năng lực đọc hiểu
xã hội, văn hóa
chương trình Ngữ chính. đạo, dụng ý NT văn bản và cách
văn học để bình
văn 12 – tập 1) – Nhận biết nét của tác giả, ý làm bài nghị luận
luận, đánh giá
(7.0 điểm) chính về tác giả, nghĩa chi tiết, hình văn học
tác phẩm ảnh, biện pháp
NT…
Số câu 1
1.0 1.0 2.0 1.0
Số điểm 7.0
10% 10% 20% 10%
Tỷ lệ 50%

Tổng cộng 1 2 2 1 6
Số câu 0,5 1,5 2 5.0 10
Số điểm 5% 15% 30% 50% 100%

DUNG VAN PL _19


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Tỷ lệ
D – BIÊN SOẠN ĐỀ THI

ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Đọc đoạn trích:

Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt, Phải trăm năm mới có ngày độc lập
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng Ai đếm hết chuỗi người lên máy chém lúc hừng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết đông?
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông… Roi vọt Côn Lôn, ngục tù Phú Quốc
Mỗi trang sử đất này đều nặng máu cha ông.
Hãy cứ đo bể ta bằng luật – điều quốc tế
Trời xanh ta xanh bao nhiêu hải lý Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu tất cả
Nhưng chớ đừng đo lòng căm giận chúng ta Một chiếc cầu vừa mới bắc qua sông
Máu hơn ba chục năm trời ta đã đổ ra Một hợp tác lúa chiêm vàng óng ả
Một nhà ăn cửa sổ sơn hồng…
(Chế Lan Viên, Sao chiến thắng)

Câu 1 (NB).Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
DUNG VAN PL _20
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Câu 2 (TH).Anh/Chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào?
Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Câu 3 (TH)). Hãy cho biết hiệu quả của phép điệp trong các dòng thơ sau:
Hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu tất cả
Một chiếc cầu vừa mới bắc qua sông
Một hợp tác lúa chiêm vàng óng ả
Một nhà ăn cửa sổ sơn hồng…
Câu 4 (VD).Từ niềm tự hào của tác giả về non sông đất nước, anh/ chị thấy cần phải có trách nhiệm nào với
đất nước.
LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm). Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày
suy nghĩ của mình về lòng yêu nước của thế hệ trẻ hiện nay.

Câu 2 (5,0 điểm).


… Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách
nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu
bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời
kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông
Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao
sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông
núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc
với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng
hai va cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông
Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ
lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội
gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta
ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà
như nhìn một cố nhân. Chuyến ấy ở từng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh
liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, thấy trước mắt loang loáng như trẻ
con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn thấy cái miếng sáng lóe lên một màu nắng
tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm
bao đứt quãng. Đi dừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân,
mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bắn tính và gắt
gỏng thác lũ ngay đấy…”
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp trữ tình của hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về
phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
(Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.186-
187 và 190-191)

Người lái đò sông Đà - Sông Đà trữ tình

Đề bài:

"Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình
một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên
DUNG VAN PL _21
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng
ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời
kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ
với người lái đò Sông Đà . Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng
dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh" Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán
đời đời đánh ghen ". Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc
ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy
quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân
mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn
mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu và nhìn xuống dòng nước Sông Đà.
Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội
gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân
Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo
lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ".

(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)

Phân tích và trình bày cảm nhận về hình tượng sông Đà trữ tình trong đoạn trích
trên. Từ đó, nhận xét về nét tài hoa trong phong cách nghệ thuật của tác giả.

Bài làm:

Nói về văn chương, Pau-tốp-xki từng khẳng định: "Niềm vui của nhà văn chân
chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp". Nhận định của tác giả
DUNG VAN PL _22
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
mang ý nghĩa nhấn mạnh vai trò dẫn đường của nhà văn và ý nghĩa của văn
chương đó là mang đến cho đời những xứ sở của cái đẹp. Nếu hiểu như vậy,
Nguyễn Tuân chính là một nhà văn chân chính - một nhà văn "suốt đời đi tìm cái
đẹp" và "Người lái đò Sông Đà" chính là xứ sở của cái đẹp mà nhà văn vui mừng
dẫn đường cho chúng ta đến đó. Xứ sở của cái đẹp trong tác phẩm đó là vùng đất
Tây Bắc hùng vĩ của đất nước. Nơi ấy có những người lái đò tài hoa, tuyệt kĩ, có
con sông Đà trữ tình làm đắm say hồn người. Trong hai hình tượng chính của tùy
bút "Người lái đò Sông Đà, hình tượng sông Đà trữ tình được khám phá khắc họa ở
nhiều góc độ, trong đó đặc sắc nhất là ở góc độ từ trên máy bay nhìn xuống. Cảm
nhận về sông Đà ở góc độ này, người đọc còn nhận ra những nét tài hoa trong
phong cách nghệ thuật của tác giả.

" Người lái đò Sông Đà "là một tác phẩm xuất sắc in trong tập" Sông Đà "- một
trong những tập tùy bút nổi tiếng của Nguyễn Tuân. Tùy bút này nối dài những
thành công của những tùy bút viết Nguyễn Tuân viết trước cách mạng tháng Tám
như" Tóc chị Hoài "," Thiếu quê hương ". Nó là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà
Nguyễn Tuân thu hái được sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 - chuyến đi
mà Nguyễn Tuân từng ví như" Đi tìm chất vàng mười trên Tây Bắc ". Đóng góp
vào sự thành công lớn lao ấy là nghệ thuật của một thể loại đặc sắc, đó là thể loại
tùy bút. Tùy bút là một thể loại văn xuôi ghi chép lại những sự vật sự việc mà nhà
văn chứng kiến hoặc trải qua bằng một lối văn tự do, phóng túng, bay bổng theo
cảm hứng của người viết. So với các thể loại khác mà Nguyễn Tuân đã thành công
như truyện ngắn, bút kí, thể loại tùy bút cho thấy rõ nét chất uyên bác, tài hoa trong
sáng tác của nhà văn. Việc lựa chọn thể loại này đã giúp Nguyễn Tuân khắc họa
được một hình tượng vô cùng độc đáo đó là hình tượng Sông Đà với tính cách trữ
tình giàu cảm xúc.

Sông Đà trữ tình được Nguyễn Tuân cảm nhận và khắc họa từ trên máy bay nhìn
xuống trước hết ở hình dáng. Mở đầu đoạn trích, tác giả viết:" Tôi có bay tạt ngang
Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách
nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình ". Nguyễn Tuân từng trực tiếp đi
thuyền trên sông Đà nhiều lần và cảm nhận về con sông Tây Bắc hung bạo dưới
góc nhìn của người lái đò. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân còn đến với sông Đà ở độ cao
từ trên máy bay vì thế tác giả có cơ hội khám phá sông Đà ở một góc độ nhìn mới
một cách nhìn mới về con sông Tây Bắc trữ tình, nên thơ. Bởi đã mấy lần bay tạt
ngang Sông Đà nên Nguyễn Tuân phát hiện và khám phá ra nhiều dáng nét của
sông Đà ở nhiều độ cao khác nhau. Trước hết từ trên tàu bay nhìn xuống, Sông Đà
hiện ra như" cái dây thừng ngoằn ngoèo ". Hình ảnh so sánh sông Đà với" cái dây
thừng "đã cho người đọc hình dung cụ thể về kích thước nhỏ bé của con sông được
nhìn từ trên cao. Từ láy" ngoằn ngoèo "gợi tả dáng vẻ uốn lượn quanh co của con
sông trên vùng rừng núi Tây Bắc. Ở độ cao thứ nhất này, tác giả đã vô cùng bất
ngờ, ngạc nhiên trước một con sông nhỏ bé hiền lành hiện ra bên dưới cánh máy
bay khác hẳn với ấn tượng về con sông trái tính trái nết, cáu bẳn cứ" hằng năm và
đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi
vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Thêm một bất ngờ nữa đó là "không ai nghĩ
rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh" ngàn đời
DUNG VAN PL _23
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
nay nổi sóng dữ trong những cơn ghen tuông vô độ lại là "sợi dây thừng" bình
lặng, hiền hòa dưới chân mình. Có thể nói những ấn tượng về sự mới lạ của sông
Đà trong khám phá của Nguyễn Tuân đã cung cấp thêm cho người đọc hình ảnh
thú vị về con sông trữ tình của Tây Bắc.

Ngồi trên máy bay hạ độ cao với điểm nhìn được thay đổi, Nguyễn Tuân đón nhận
một hình ảnh khác về sông Đà. Lúc này sông Đà không còn là sợi dây thừng nữa
mà "từng nét sông tãi ra trên bờ đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình".
Nếu hình ảnh so sánh sợi dây thừng gợi tả kích thước nhỏ gọn, rắn chắc của sông
Đà thì hình ảnh "từng nét sông tãi ra" cho thấy rõ độ đậm nét của dòng sông với
hai bờ đã "tãi ra", dàn ra rộng hơn. Đặc biệt giữa một "đại dương đá" mênh mông
núi đá, sông Đà như một nét vẽ mềm mại trữ tình trên cái nền hùng vĩ của núi non
Tây Bắc. Đó chính là một vẻ đẹp đầy tự hào về sông Đà mà góc độ nhìn này đã
ban tặng cho tác giả. Sử dụng câu có thành phần tình thái, tác giả đã khẳng định
niềm tự hào mãnh liệt của mình: "Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi,
thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la,
càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên bờ đại dương đá lờ lờ bóng mây
dưới chân mình". Nếu như "quen đọc bản đồ sông núi" chỉ cho Nguyễn Tuân đến
với một sông Đà gián tiếp bằng nét vẽ trên giấy, thì khi ngồi tàu bay nhìn xuống
tác giả được tiếp cận con sông một cách trực tiếp để từ đó "càng thấy quen thuộc"
với từng nét sông và càng thấy tự hào hơn về "đất nước Tổ quốc bao la". Có thể
thấy tình yêu đối với đất nước giang san của tác giả dường như chảy tràn trên trang
viết. Đến với dòng sông Tây Bắc bằng tình yêu thiết tha, rạo rực như vậy, cho nên
sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân trở thành một áng thơ văn xuôi tuyệt tác.

Ở độ cao thứ ba - độ cao thấp nhất trong những lần "bay tạt ngang qua Sông Đà",
Nguyễn Tuân lại thấy "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình..".
Qua phép điệp ngữ với từ "tuôn dài" được lặp lại hai lần, sông Đà đã hiện lên rõ
nét với chiều dài tưởng như vô cùng vô tận và dáng nét nhẹ nhàng, uyển chuyển.
Bên cạnh đó, hình dáng của sông Đà được khắc họa qua so sánh "như một áng tóc
trữ tình" gợi cho người đọc mối liên tưởng về con sông mang vẻ đẹp của người con
gái đang độ xuân thì, có dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển, dịu dàng, thướt tha, tràn
đầy sức sống. Nếu như ở thượng nguồn, sông Đà nổi bật với tính cách hung bạo,
dữ dằn thì ở đoạn hạ vi nó cuốn hút và làm say lòng người bởi vẻ đẹp trữ tình,
duyên dáng của nó. Vẻ đẹp ấy có được là nhờ phép so sánh một hình ảnh của thiên
nhiên với một hình ảnh của con người rất đặc sắc của tác giả. Mái tóc - dòng sông
ấy còn được miêu tả với những chi tiết cụ thể hơn, đó là "đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai..". Có thể thấy một sự
gắn bó hài hòa của mái tóc - dòng sông với mây trời, với hoa lá của xứ sở Tây Bắc.
Từ trên máy bay, Nguyễn Tuân say sưa ngắm nhìn con sông khi ẩn khi hiện trong
màu trắng của hoa ban, màu đỏ của hoa gạo và đất trời mùa xuân tháng hai đầy thơ
mộng, hiền hòa. Phải chăng tạo hóa lấy hoa ban và hoa gạo với những sắc màu
tươi sáng rực rỡ cài lên mái tóc - sông Đà làm đẹp thêm cho áng tóc trữ tình, bay
bổng, lãng mạn ấy. Đẹp như vậy cũng đã đủ sức hút hồn người nhưng con sông
còn ẩn hiện trong "cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Con sông trở nên
bí ẩn, thơ mộng, huyền ảo hơn dưới làn khói của những nương xuân. Nói cách
DUNG VAN PL _24
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
khác, nhìn từ máy bay, làn khói cuồn cuộn trên nương rẫy đã phủ lên áng tóc -
dòng sông một vẻ bồng bềnh, hư ảo.

Đọc câu văn miêu tả dáng nét của sông Đà nói trên, người đọc không chỉ bị cuốn
hút bởi hình ảnh mang tính thẩm mĩ cao mà còn bị cuốn vào cảm xúc của tác giả
bởi độ dài trập trùng của nó. Xét về ngữ pháp, đây là câu ghép có độ dài đặc biệt,
nhiều cụm vị tạo nên âm điệu miên man, trùng điệp diễn tả con sông trữ tình ngân
vang giữa núi rừng Tây Bắc. Có thể nói với ba vị trí điểm nhìn được thay đổi liên
tiếp, tác giả đã khắc họa và nổi bật vẻ trữ tình, nên thơ của dòng sông Đà. Đó là
một vẻ đẹp đa dạng với những dáng nét đầy thơ mộng, trữ tình, mới lạ.

Bên cạnh dáng nét, sông Đà trữ tình còn được Nguyễn Tuân cảm nhận và khắc họa
về màu sắc. Nếu như sông Đà được miêu tả về dáng nét qua các độ cao khác nhau,
thì màu sắc của sông Đà được khắc họa qua các thời điểm, qua hai mùa khác nhau.
Trước hết, tác giả miêu tả sông Đà vào mùa xuân, với "dòng xanh ngọc bích". Màu
"xanh ngọc bích" của dòng nước sông Đà là màu sắc tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh.
Vẻ đẹp này của sắc nước sông Đà được tác giả đón nhận với cảm xúc "tôi đã nhìn
say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà". Đó là sự chăm chú, say mê, chiêm
ngưỡng bằng cả tâm hồn và mọi giác quan chứ không phải chỉ nhìn bằng một thái
độ vô hồn, vô cảm. Cũng bởi yêu mến cái sắc màu độc đáo ấy mà Nguyễn Tuân đã
so sánh với sông Gâm, sông Lô cho dù ông không ghét bỏ hai dòng sông ấy. Bởi
sắc nước sông Đà tươi trong quá chứ không nhờ nhờ, đùng đục như bát canh hến
của sông Gâm sông Lô. Lấy màu xanh của bát canh hến đời thường mộc mạc để so
sánh, tác giả đã làm tôn nổi sắc màu sang trọng, quý phái của dòng sông Đà. Qua
miêu tả của Nguyễn Tuân, ai có thể không yêu một dòng sông vào xuân đẹp ngất
ngây đến vậy?

Sau mùa xuân, sông Đà còn được tác giả cảm nhận và miêu tả vào mùa thu. Ở thời
điểm này sông Đà mang màu "lừ lừ chín đỏ". Từ láy "lừ lừ" đã góp phần làm rõ
sắc đỏ có sự biến chuyển một cách chậm rãi của sắc nước sông Đà. Để cụ thể hóa
sắc đỏ ấy, tác giả sử dụng tới hai so sánh. So sánh đầu tiên về sắc đỏ đó là "Mùa
thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa". Với
một người đi rộng, hiểu nhiều thì sẽ dễ dàng tưởng tượng ra da mặt đỏ bầm, đỏ
sậm của người uống rượu hàng ngày trong bữa ăn. Từ màu da ấy, có thể hình dung
ra màu đỏ sẫm, đỏ tía của dòng nước sông Đà. So sánh thứ hai cụ thể một màu đỏ
khác đó là "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bức bội gì mỗi độ thu
về". Nếu như màu đỏ của da mặt người uống rượu bữa là do tác động của rượu thì
màu đỏ thứ hai là do tác động của tâm lí bực bội bất mãn trước sự thay mùa của
thiên nhiên. Đó là cái màu đỏ tưng bừng như căng lên hết cỡ của nước sông Đà.
Hai sắc đỏ ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận khi "xuyên qua đám mây mùa thu mà
nhìn xuống dòng nước Sôn Đà". Nó là hai sắc màu hiện ra đầy bất ngờ, lí thú đối
với nhà văn.

Mang cảm xúc đầy ngạc nhiên và tự hào ấy, tác giả không thể chấp nhận thái độ
cách đối xử của bọn thực dân Pháp đối với dòng sông của đất nước. Nhà văn bày tỏ
rõ nét thái độ căm phẫn của mình: "Chưa hề bao giờ tôi thấy Sông Đà là đen như
DUNG VAN PL _25
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên
Tây láo lếu rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ". Đó là sự tức giận trước hành
động bịa đặt, hạ thấp giá trị và vẻ đẹp của sông Đà của bọn thực dân Pháp. Đó còn
là thái độ căm phẫn trước cách ứng xử áp đặt, ép buộc một cách trắng trợn của
chúng đối với con sông ta. Có thể thấy tình yêu đối với con sông, niềm tự hào tự
tôn dân tộc ở Nguyễn Tuân là rất lớn.

Qua đoạn trích ta thấy hình tượng sông Đà trữ tình đã được khắc họa sống động ở
hai khía cạnh hình dáng và màu sắc. Với sự miêu tả đầy dụng công của nhà văn,
sông Đà đã hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, nên thơ, quyến rũ. Từ vẻ đẹp của dòng
sông, tác giả còn làm sáng lên vẻ đẹp của miền Tây Bắc xa xôi, hùng vĩ, thơ mộng.
Đọc và cảm nhận hình tượng sông Đà trữ tình trong tùy bút "Người lái đò Sông
Đà" của Nguyễn Tuân mới thấy sự độc đáo của tùy bút Nguyễn Tuân ở đề tài viết
về dòng sông. Nếu như trong bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, sông Hương được khắc họa ở một góc độ của người quan sát sông
Hương theo hành trình của dòng chảy, thì trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà"
của Nguyễn Tuân, sông Đà được khắc họa ở ba góc độ đó là từ trên máy bay nhìn
xuống, đi bộ từ trong rừng ra và từ trên thuyền trôi trên sông Đà. Những góc nhìn
độc đáo đó mà cụ thể ở đoạn trích trên là từ máy bay nhìn xuống, đã đem đến cho
dòng sông của miền rừng núi xa xôi những vẻ đẹp đa dạng, phong phú. Con sông
Đà lúc này trở thành một công trình tuyệt mĩ mà tạo hóa ban tặng cho con người.

Tìm hiểu hình tượng sông Đà trữ tình còn cho người đọc thấy được nét tài hoa
trong phong cách nghệ thuật của tác giả. Đó là sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn
từ với sự lựa chọn công phu các loại từ như danh từ, tính từ, động từ tạo nên sức
gợi tả, đầy chất sống của một bậc thầy ngôn từ. Đó còn là sự tài hoa trong việc sử
dụng các biện pháp tu từ, trong đó chủ đạo, giàu hiệu quả nhất là so sánh với các
hình ảnh so sánh mới mẻ, độc đáo, giàu sức gợi, đa dạng đến từ thái độ của một
nhà văn muốn miêu tả kĩ lưỡng, nhiều chiều cho người cảm nhận đủ rộng, đủ sâu
về con sông. Đó cũng là sự tài hoa trong việc sắp xếp những câu dài, trùng điệp
diễn đạt chồng chất nhiều ý đem lại sự cuốn hút không ngừng nghỉ cho người đọc.

Đối với một đất nước "nắng lắm mưa nhiều" như nước ta, những dòng sông đã trở
thành một phần không thể thiếu của mỗi miền quê. Trong các dòng sông nổi tiếng,
sông Đà có một ý nghĩa thật đặc biệt. Nó tạo nên ở người đọc một nguồn rung cảm
mạnh mẽ và làm dấy lên một tình yêu tha thiết đối với đất nước quê hương mình.
Có thể khẳng định rằng: Bằng tình yêu mãnh liệt, nhà văn đã làm sống mãi một
dòng sông.

ĐÁP ÁN

DUNG VAN PL _26


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Phần Câu Nội dung Điểm
I. ĐỌC- HIỂU 3.0
1 Thể thơ: Tự do 0.5
– Qua biện pháp tu từ so sánh: “ta yêu như máu thịt”, “như mẹ cha ta, như vợ 0.5
như chồng” tác giả khẳng định tình yêu mãnh liệt của mình đối với Tổ quốc.
2 – Hai dòng thơ cũng là lời nhắn nhủ tới mọi người: hãy yêu đất nước và sống có
trách nhiệm với đất nước.
0,25
– Phép điệp ngữ: “hãy yêu”, điệp từ “một”.
– Tác dụng: Tạo nhịp điệu, tăng tính nhạc, góp phần thể hiện cảm xúc vui
tươi, tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của đất nước. Qua phép điệp ngữ, điệp từ
0,25
3 cùng các hình ảnh liệt kê: “chiếc cầu vừa mới bắc qua sông”, “hợp tác lúa chiêm
0,5
vàng óng ả”, “nhà ăn cửa sổ sơn hồng”tác giả đã làm hiện lên một đất nước tươi
đẹp, bình dị. Đất nước ấy đang trỗi dậy, đang hồi sinh mạnh mẽ, đất nước gian lao
mà anh dũng, vất vả mà đầy lạc quan.
Gợi ý một số trách nhiệm với đất nước:
– Yêu Tổ quốc, yêu quê hương, yêu đồng bào và yêu nếp sống văn hóa thủy
chung.
4 1.0
– Hiến dâng nhiệt huyết, trí tuệ để xây dựng đất nước.
– Đấu tranh với các thế lực thù địch và luận điệu sai trái.
– Sẵn sàng lên đường khi Tổ quốc cần
II Làm văn 7,0
1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn khoảng
200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về lòng yêu nước của thế hệ trẻ hiện 2,0
nay.
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -
phân-hợp, song hành hoặc móc xích.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: lòng yêu 0,25
nước của thế hệ trẻ hiện nay.
c. Triển khai vấn đề nghị luận 1,0
Hs có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau. Có thể triển khai theo
hướng sau:
*Nêu vấn đề: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta chính là truyền thống
quý báu từ bao đời nay. Đặc biệt hơn, lòng yêu nước của thế hệ trẻ ta ngày
nay cũng rất xứng với tổ tiên ta ngày trước.
*Bàn luận:
– Thật vậy, truyền thống yêu nước của dân tộc là một truyền thống quý báu
từ bao đời nay của dân tộc và qua việc làm thiết thực, toàn thể người dân
Việt Nam ngày nay đang dần kế thừa, phát huy truyền thống ấy. Bằng
những việc làm thiết thực cũng như một lòng hướng về Tổ quốc được thể
hiện qua những hoạt động mang tầm vóc quốc gia, người Việt Nam đều
nhất quán đi theo đường lối của Đảng và nhà nước đề ra cũng như phụng
sự cho tổ quốc, thể hiện được tình yêu nước của mình.
– Trong đó, ta phải đặc biệt kể đến biểu hiện yêu nước tích cực của thế hệ
trẻ ngày nay. Đầu tiên, ta có thể nhận thấy rằng, người trẻ ngày nay đang ra
DUNG VAN PL _27
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
sức học tập nhằm phụng sự cho Tổ quốc. Học sinh ở mọi trường học đều
đang ra sức thi đua phấn đấu học tập nhằm mang lại vẻ vang cho đất nước,
làm giàu cho xã hội. Trên thực tế, những đoàn học sinh giỏi của chúng ta
khi ra thi đấu với bạn bè quốc tế đều mang về những giải thưởng lớn và
đáng tự hào, làm rạng danh cho dân tộc. Việc làm của các bạn là khẳng
định tên tuổi của Việt Nam trên thế giới, góp phần xây dựng đất nước
trong thời bình được tiến bộ phát triển hơn. Thứ hai, thế hệ trẻ còn dần thể
hiện tình yêu nước của mình bằng những việc làm hết sức thiết thực và
tỉnh táo. Nhờ được tuyên truyền và cảnh báo, người trẻ Việt Nam đã dần
cảnh giác với các âm mưu gây chia rẽ và kích động của các thế lực thù
địch: đi biểu tình,…
*Bài học: Hãy xây dựng và bảo vệ đất nước này, một đất nước đã chứa
đầy xương, đầy máu của ông cha ta, đã chất đầy mồ hôi, nước mắt của dân
tộc ta, một đất nước mà ta là một phần trong đó.
d. Sáng tạo
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề 0,25
nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
5.0
Học sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những nội
dung sau.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận.
– Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài.
0.25
– Mở bài nêu được vấn đề; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài kết luận được
vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp trữ tình của hình tượng sông Đà
qua đoạn trích: “… Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần…rồi chốc lại bắn 0.25
tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy…”
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập
luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
Câu
2 1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích… 0,5
2. Nội dung
1.0
a. Đoạn văn thứ nhất: “… Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần… rồi
cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”: Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà
nhìn từ trên cao xuống.
– Sông Đà hiện lên với đường nét, tính cách mang linh hồn của một con
người: “Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ
rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông
hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản
ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là
con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “núi cao sông hãy
còn dài – năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
– Sông Đà xinh đẹp như một người con gái kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây 1.0

DUNG VAN PL _28


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương
xuân”.
– Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ
nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm sông Lô”.“Mùa thu
nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.”
b. Đoạn văn thứ hai: “Con Sông Đà gợi cảm…. rồi chốc lại bắn tính và gắt
gỏng thác lũ ngay đấy”: Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà ở góc quan
sát gần.
– Sông Đà “gợi cảm” như một “cố nhân”.
– Tác giả nhìn thấy nắng trên sông Đà “loang loáng” như “trẻ con cầm gương
chiếu vào mắt người lớn rồi bỏ chạy”.
– Nhà văn say đắm liên tưởng: miếng sáng ấy trên sông lóe lên một màu nắng
tháng ba Đường thi: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
– Dòng sông ấy sức sống đang dạt dào với “bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn
chuồn bươm bướm trên sông Đà”.
– Niềm vui của tác giả khi gặp lại con sông: “Chao ôi, trông con sông vui
như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”;nó
“đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn
cũ, một tri âm với bao kỷ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương trong hiện
tại, bao chung thủy trong tương lai đến, một cố nhân trái tính mà vẫn có sức hấp
dẫn đến lạ kỳ.
3. Nghệ thuật: Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân hóa,
miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh
và có sức gợi cảm cao. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả… Con Sông
0,5
Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm
trạng. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân
sông Đà thơ mộng và trữ tình.
4. Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
– Phong cách nghệ thuật: độc đáo, tài hoa, uyên bác của một nghệ sĩ suốt đời đi
kiếm tìm cái đẹp:Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở phương diện thẩm mỹ; Nguyễn
Tuân luôn đi tìm cảm hứng mạnh trong sáng tạo nghệ thuật: Tô đậm những cái
phi thường để tạo cảm giác mãnh liệt, những ấn tượng đậm nét. 0,75
– Nét tài hoa, uyên bác:Ngôn ngữ phong phú, giàu chất hội họa: diễn tả được mọi
sắc thái, mọi cung bậc, hình thù, màu sắc của sông Đà. Nguyễn Tuân là “bậc
thầy của ngôn từ”” người làm xiếc trên ngôn từ”…Vận dụng kiến thức nhiều bộ
môn.
d. Sáng tạo: Sử dụng ngôn ngữ theo cách thức riêng của bản thân để bàn luận vấn
0,5
đề và thể hiện suy nghĩ sâu sắc mới mẻ.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đúng qui tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25

ĐỀ THI THỬ CHUẨN CẤU KỲ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM
TRÚC MINH HỌA 2021
ĐỀ SỐ 11 Bài thi: Ngữ Văn
(Đề thi có 02 trang) Thời gian làm bài: 120 phút không kể thời gian phát đề

A. ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ
DUNG VAN PL _29
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
1. Cấu trúc đề vẫn gồm hai phần, đó là phần Đọc hiểu (3 điểm) và Làm văn (7 điểm).
- Trong đó, câu hỏi Đọc hiểu gồm ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa cùng 4 câu hỏi đọc hiểu theo các
mức độ: Nhận biết/ thông hiểu/ vận dụng. Đó là những dạng câu hỏi quen thuộc với học trò từ nhiều năm
nay.
- Trong phần Làm văn, câu Nghị luận xã hội (2 điểm) với yêu cầu viết một đoạn văn khoảng 200 chữ,
nội dung nghị luận là vấn đề có quan hệ hữu cơ với nội dung trong ngữ liệu đọc hiểu.
2. Nội dung:
- Đề đảm bảo kiến thức cơ bản, và không có kiến thức trong nội dung tinh giản mà Bộ mới công bố ngày
31.3.2021. Đề không khó, vừa sức với học sinh, học sinh trung bình không khó để đạt mức điểm 5 - 6; học
sinh khá đạt 7 - 8. Tuy nhiên để đạt mức điểm 9-10 đòi hỏi học sinh phải phát huy được tư duy phản biện,
các trình bày vấn đề nghị luận sắc bén, thể hiện quan điểm cá nhân mang tính sáng tạo.
- Phần Đọc hiểu trong đề thi sử dụng ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa, gồm một đoạn trích dẫn cho
trước và 4 câu hỏi. Để trả lời được 4 câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức về Tiếng Việt,
đọc hiểu nội dung và suy ngẫm, đánh giá. Đặc biệt ở câu 3, câu 4 đòi hỏi người làm bài phải hiểu sâu sắc
đoạn trích, câu trích dẫn thì bài làm mới hay, hiểu đúng vấn đề.
- Trong phần Làm văn:
+ Đề thi yêu cầu học sinh viết đoạn văn nghị luận xã hội: Câu này vẫn giữ nguyên tắc ra đề truyền thống,
yêu cầu học sinh viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về một vấn đề được rút ra từ ngữ liệu ở
phần Đọc hiểu.
+ Ở câu nghị luận văn học, nội dung câu hỏi nằm ở phần kiến thức chương trình học kì I lớp 12, không
ra ngoài nội dung tinh giản của Bộ GDĐT, mức độ phù hợp giống với câu nghị luận học trong đề thi chính
thức năm 2019. Và đây là đơn vị kiến thức nhỏ (không phải toàn bộ tác phẩm), phù hợp với dung lượng bài
văn 5 điểm trong thời lượng đề thi 120 phút.
B. MA TRẬN ĐỀ THI
MA TRẬN
PHẦN CÂ CẤP ĐỘ NHẬN THỨC
U Nhận biết Thông hiểu Vận Vận dụng cao
dụng
ĐỌC HIỂU 1 x
2 x
3 x
4 x
LÀM VĂN 1 x
2
C – BIÊN SOẠN ĐỀ THI
I. Đọc hiểu (3 điểm)
Đọc đoạn trích:
Khó có thể nói có ai đó là hoàn hảo, mặt nào cũng tốt, khi nào cũng tốt và ai đó là hoàn toàn ngược
lại, không có gì đáng giá cả, cuộc đời họ là một màu đen tuyền.
Ngay cả người được coi là xấu nhất, nếu chịu khó nhìn kỹ, theo dõi kỹ, ta vẫn cảm nhận được không
ít điều hay lẽ phải với những nét hấp dẫn mà chưa chắc người bình thường đã có. Còn người tốt thì cũng
đừng có nghĩ rằng không có lúc nào họ xấu hoặc có những mặt những tính chất khác người khó chịu, làm
nhiều người phiền muộn.
Vấn đề ta thường thấy ở đây là có người tốt nhiều, người tốt ít, người xấu nhiều, người xấu ít hoặc
người này bản chất là tốt hay người kia bản chất là xấu.
Nhà văn hóa M. Twain (Mỹ) có dùng một hình ảnh khá chí lý: "Ai cũng có một vầng trăng và một
đám mây đen". Câu nói đó có ý nghĩa tích cực là khuyên răn con người hãy luôn làm cho ánh hào quang
của vầng trăng thêm rực rỡ và xóa dần màu xám xịt của đám mây đen. Người tốt cũng đừng chủ quan là
mình sẽ không biến chất và người xấu cũng không phải không giáo dục được, không tự tu dưỡng điều chỉnh
mình được.
Đời người là một sự phấn đấu không ngừng, một sự điều chỉnh bổ sung liên tục.
DUNG VAN PL _30
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
(Phong cách sống của người đời, Nhà báo Trường Giang, https://www.chungta.com)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, Vấn đề ta thường thấy là vấn đề gì?
Câu 3. Theo anh/chị việc xóa dần màu xám xịt của đám mây đen thể hiện trong văn bản có tác dụng
gì?
Câu 4. Lời khuyên về người tốt và người xấu của tác giả gợi anh/chị suy nghĩ gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình
bày suy nghĩ ý nghĩa sự phấn đấu không ngừng của con người trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy
hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà
châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên
tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn
gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ
tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi,
nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy
quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn
này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những
luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không
ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng
thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải
bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
(Trích Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó , nhận xét cái nhìn
mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI CHI TIẾT

Phầ Câu/Ý Nội dung Điểm


n
I Đọc hiểu 3.0
1 Phương thức biểu đạt chính: nghị luận. 0,5
2 Theo tác giả, vấn đề ta thường thấy là: có người tốt nhiều, người tốt ít, người 0,5
xấu nhiều, người xấu ít hoặc người này bản chất là tốt hay người kia bản chất là
xấu.
3 Việc xóa dần màu xám xịt của đám mây đen có tác dụng: 1,0
- Giúp con người tìm thấy điểm yếu của bản thân và cải thiện chúng nhằm đem
lại cho mình sức mạnh thay đổi nhiều khía cạnh của cuộc sống; giải quyết các
vấn đề một cách dễ dàng hơn và con người sẽ nhận ra rằng, dù khó khăn thế nào
thì vẫn sẽ có cách để thành công.
DUNG VAN PL _31
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
- Giúp con người vượt ra khỏi vùng an toàn của bản thân để làm những điều chưa
bao giờ dám nghĩ. Thay vì luôn e sợ và quẩn quanh với những điều quen thuộc
thì giờ đây, con người có thể suy nghĩ đến những cảnh tượng mới mẻ hơn và tốt
đẹp hơn.
4 Lời khuyên về người tốt và người xấu của tác giả gợi suy nghĩ: 1,0
- Học sinh tóm lược lại lời khuyên về người tốt và người xấu của tác giả thể hiện
trong văn bản: Người tốt cũng có lúc mắc sai lầm biến thành người xấu; còn
người xấu nếu tìm hiểu kĩ, họ vẫn có không ít điều hay lẽ phải với những nét hấp
dẫn;
- Nêu suy nghĩ bản thân: Khi đã thành người tốt, càng phải giữ vững và phát huy
những điều tốt đẹp, không rơi vào tự cao, tự mãn. Khi lỡ làm điều sai lầm, rơi
vào cái xấu, cần phải tìm cách sửa chữa cái sai kịp thời, đừng nên tự ti, mặc cảm
tội lỗi.
II Làm văn
1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn 2,0
khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ ý nghĩa sự phấn đấu không ngừng của con
người trong cuộc sống.
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -
phân-hợp, song hành hoặc móc xích. 0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: ý nghĩa sự phấn
đấu không ngừng của con người trong cuộc sống.
c. Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận 1,0
theo nhiều cách nhưng phải làm rõ ý nghĩa sự phấn đấu không ngừng của con
người trong cuộc sống. Có thể triển khai theo hướng sau:
- Ý nghĩa sự phấn đấu không ngừng của con người trong cuộc sống:
+ Sự phấn đấu không ngừng tạo cho con người sự bền bĩ, gắng sức nhằm đạt tới
mục đích cao đẹp;
+Sự phấn đấu không ngừng giúp con người trở nên năng nổ, cần cù, không chỉ
có thể có được thành tựu trong công việc mà còn có thể tạo cho họ nhiều cơ hội.
+Sự phấn đấu không ngừng tạo nên sức mạnh tinh thần để chiến thắng chính
mình, xoá tan đám mây đen để hiện ra vầng trăng sáng ngời, thay cái xấu thành
cái tốt.
- Bài học nhận thức và hành động.
+ Mỗi người cần có nhận thức đúng đắn để thấy rằng sự phấn đấu không ngừng
là rất cần thiết, nhằm khẳng định vị trí của mình trong xã hội;
+ Mỗi người cần có hành động đúng đắn: sống là hành động, phấn đấu không
ngưng nghỉ để biến ước mơ, hoài bão thành hiện thực.
d. Sáng tạo 0,25
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
2 Cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, 5,0
nhận xét cái nhìn về con người mang tính phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân.
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn thơ (có ý phụ) 0,25
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài
triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích; nhận xét cách nhìn mang tính phát
hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc
và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
DUNG VAN PL _32
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Cụ thể: 0,25
3.1.Mở bài
- Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách
mạng tháng Tám 1945.
-Nhân vật ông lái đò trong đoạn trích “….” thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát
hiện của ông về con người lao động Việt Nam.
3.2.Thân bài: 3.50 0,25
a. Khái quát về tuỳ bút, đoạn trích
- Về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm;
- Vị trí, nội dung đoạn trích.
b. Cảm nhận vẻ đẹp của ông đò trong đoạn trích 2,0
- Về nội dung:
+ Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ ở hình ảnh ông lái đò:
++ Ông lái đò được đặt trong tình huống thử thách đặc biệt: chiến đấu với thác
dữ sông Đà, vượt qua ba trùng vi thạch trận bằng tài nghệ “tay lái ra hoa”.
++ “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”và ung dung chủ động trong
hình ảnh “trên thác hiên ngang người lái đò sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy
đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”
++ Rất nghệ sĩ trong hình ảnh “nắm chắc lấy cái bờm sóng đúng luồng, ông đò
ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh…”;
với lũ đá nơi ải nước, “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, con thuyền trong sự điều khiển của
ông lái: “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động
lái được, lượn được.”…
++ Nhận xét: Việc đưa con thuyền tìm đúng luồng nước, vượt qua bao cạm bẫy
của thạch trận sông Đà quả thực là một nghệ thuật cao cường từ một tay lái điêu
luyện.
+Vẻ đẹp trí dũng ở hình ảnh ông lái đò:
++ Một mình một thuyền, ông lái giao chiến với sóng thác dữ dội như một viên
dũng tướng luôn bình tĩnh đối đầu với bao nguy hiểm: “ông lái đò cố nén vết
thương…hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái…” , mặc dù “mặt méo bệch đi” vì
những luồng sóng “ đánh đòn âm, đánh đòn tỉa”, “nhưng trên cái thuyền sáu
bơi chèo, vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái” …
++ Đối mặt với thác dữ sông Đà, ông đò có một lòng dũng cảm vô song: “Cưỡi
lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ” …
++ Ông lái đò khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh, đưa con
thuyền vượt thác an toàn khi “ những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”, còn lũ
đá thì “thất vọng thua cái thuyền”… Cuộc đọ sức giữa con người với thiên
nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người đã chiến thắng.
++ Nhận xét:Vẻ đẹp người lái đò Sông Đà là vẻ đẹp của người anh hùng lao
động trong công cuộc dựng xây cuộc sống mới của đất nước.

- Về nghệ thuật:
+Tạo tình huống đầy thử thách cho nhân vật; chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ;
sử dụng ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, tài hoa;
+Kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc, bút pháp nghệ thuật so sánh, nhân
hóa, liên tưởng độc đáo, thú vị;
+Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật góp phần miêu tả cuộc 0,5
chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
c. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn
Nguyễn Tuân
DUNG VAN PL _33
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
- Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về
người lao động mới. Ông đò tiêu biểu là người anh hùng, cũng là nghệ sĩ trong
môi trường làm việc và trong công việc của mình khi dám đương đầu với thử
thách và đạt tới trình độ điêu luyện trong công việc. Nhà văn đã phát hiện ra 1,0
“chất vàng mười đã qua thử lửa” của ông đò bằng phong cách nghệ thuật tài hoa,
uyên bác với thể tuỳ bút vừa giàu tính hiện thực, vừa tràn ngập cái tôi phóng túng
đầy cảm hứng, say mê…
- Qua cách nhìn nhân vật ông đò, nhà văn bày tỏ tình cảm yêu mến, trân trọng,
tự hào về con người lao động Việt Nam. Nếu trước đây, ông thường khắc họa
người anh hùng trong chiến đấu, người nghệ sĩ trong nghệ thuật và thuộc về quá
khứ “vang bóng một thời”thì đến tác phẩm này, ông tìm thấy anh hùng và nghệ sĩ
ngay trong con người lao động thường ngày, trong công việc bình thường và
trong nghề nghiệp cũng bình thường. Nguyễn Tuân còn khẳng định với chúng ta
rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng đâu phải chỉ dành riêng cho cuộc chiến đấu
chống ngoại xâm mà còn thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng đất nước và chinh
phục thiên nhiên.
3.3.Kết bài
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp hình tượng ông đò;
- Nêu cảm nghĩ về người lao động làm nên cái đẹp cho cuộc đời.
4. Sáng tạo 0,25
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề
nghị luận.
5. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM
Bài thi: NGỮ VĂN – ĐỀ 17
Thời gian làm bài: 120 phút không kể thời gian phát đề

I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)


Đọc đoạn trích sau:
Chúng tôi không mệt đâu
Nhưng cỏ sắc mà ấm quá!
DUNG VAN PL _34
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

Tuổi hai mươi thằng em tôi sững sờ một cánh chim mảnh như nét vẽ
Nhiều đổi thay như một thoáng mây
Khi chúng tôi nằm nó vẫn ngồi nguyên đó
Ngậm im lìm một cọng cỏ may…

Những dấu chân lùi lại phía sau


Dấu chân in trên đời chúng tôi những tháng năm trẻ nhất
Mười tám hai mươi sắc như cỏ
Dày như cỏ
Yêu mến và mãnh liệt như cỏ
Cơn gió lạ một chiều không rõ rệt
Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất
Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên
Hơn một điều bất chợt

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình


(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?

Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em…


(Trích Trường ca Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Chỉ những hình ảnh so sánh trong đoạn trích được tác giả sử dụng để dễ hình dung về đặc điểm của
tuổi mười tám, hai mươi?
Câu 3. Những dòng thơ sau giúp anh/chị hiểu gì về lý tưởng người lính?
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
Câu 4. Anh/ chị nhận xét về những vẻ đẹp của hình tượng người lính thời kì chống Mĩ được thể hiện trong
đoạn trích trên?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
của anh/ chị về ý nghĩa của lối sống có trách nhiệm.

Câu 2. (5,0 điểm)


Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng thành
vách, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng lúc ngọ mới có mặt trời. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một
cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt
từ bờ này qua bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
như đứng ở một hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà cao thứ mấy
nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được
qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như
cái giếng bê tong thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị
sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men
gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô to sang số
nhấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho
DUNG VAN PL _35
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng
đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vút biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút
sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới…”
(Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXB GD)
Phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nét tài hoa, độc đáo trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân gửi gắm qua hình tượng sông Đà.

ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ:


-Mức độ: Trung bình
DUNG VAN PL _36
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
-Nhận xét: Đề đảm bảo kiến thức cơ bản, không có kiến thức trong nội dung tinh giản mà Bộ mới
công bố ngày 31.3.2021. Đề không khó, vừa sức với học sinh, học sinh trung bình không khó để đạt mức
điểm 5 - 6; học sinh khá đạt 7 - 8. Tuy nhiên để đạt mức điểm 9-10 đòi hỏi học sinh phải phát huy được tư
duy phản biện, các trình bày vấn đề nghị luận sắc bén, thể hiện quan điểm cá nhân mang tính sáng tạo.
Phần Đọc hiểu trong đề thi minh hoạ THPT quốc gia năm 2021 sử dụng ngữ liệu nằm ngoài sách
giáo khoa, gồm một đoạn trích dẫn cho trước và 4 câu hỏi. Đặc biệt ở câu 3, câu 4 đòi hỏi người làm bài
phải hiểu sâu sắc đoạn văn, câu trích dẫn thì bài làm mới hay, hiểu đúng vấn đề mà đoạn trích truyền tải.
Ở câu nghị luận văn học, nội dung câu hỏi nằm ở phần kiến thức chương trình lớp 12, không ra vào
phần nội dung tinh giản của Bộ GDĐT.
MA TRẬN
PHẦN CÂU CẤP ĐỘ NHẬN THỨC
Nhận biết Thông hiểu Vận Vận dụng cao
dụng
ĐỌC 1 x
HIỂU 2 x
3 x
4 x
LÀM VĂN 1 x
2 x

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

Phần Câu Nội dung Điểm


I ĐỌC HIỂU 3,0
1 Đoạn trích trên được viết theo thể thơ tự do. 0,75
2 Những hình ảnh so sánh trong đoạn trích được tác giả sử dụng để dễ hình dung về 0,75
đặc điểm của tuổi mười tám, hai mươi: "sắc như cỏ", "Dày như cỏ", "Yêu mến và
mãnh liệt như cỏ" -> kiên cường, mạnh mẽ, đoàn kết, lãng mạn, nhiệt huyết...
3 Những dòng thơ: 1,0
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
nói về lí tưởng của người lính sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân, sẵn sàng lên
đường và hi sinh bảo vệ tổ quốc.
4 Những vẻ đẹp của hình tượng người lính thời kì chống Mĩ được thể hiện trong 0,5
đoạn trích:
-Vẻ đẹp kiên cường, mạnh mẽ, đoàn kết, lãng mạn, nhiệt huyết,...
- Vẻ đẹp sẵn sàng chiến đấu và hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước.
(Thí sinh có thể trả lời theo cách khác mà phù hợp với nội dung đoạn trích vẫn
được điểm tối đa)

II LÀM VĂN 7,0


1 Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 2,0
200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý nghĩa của lối sống có trách
nhiệm.
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết đoạn nghị luận xã hội, đòi hỏi thí sinh phải huy
DUNG VAN PL _37
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày
tỏ thái độ và chính kiến của mình để làm bài.
-Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn
cứ xác đáng; được tự do bày tỏ chủ kiến của mình nhưng phải có thái độ chân
thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Yêu cầu cụ thể
Hình thức: 0,25
-Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
-Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Nội dung:
a.Nêu vấn đề cần nghị luận: Sống có trách nhiệm. 0,25
b.Giải thích: 0,25
- "Sống có trách nhiệm" là gì? Sống có trách nhiệm là làm tròn nghĩa vụ bổn phận
với xã hội, trường lớp, gia đình và bản thân... dám làm, dám chịu trách nhiệm về
những hành động của bản thân. Bổn phận là học sinh, là những tinh hoa tương lai
của đất nước, chúng ta phải có trách nhiệm với bản trách nhiệm với bản thân, gia
đình, những người xung quanh.
c. Bàn luận: đưa ra lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục. Có thể tham khảo ý sau: 1,0
- Biểu hiện lối sống có trách nhiệm:
+ Với xã hội: làm tròn trách nhiệm công dân, sống có ích, biết cống hiến cho
cộng đồng, xã hội.
+Với gia đình: sống có trách nhiệm với gia đình, yêu thương kính trọng cha mẹ,
giúp đỡ, chăm sóc anh em.
+Với bản thân: sống lành mạnh, không ngừng nỗ lực phấn đấu để rèn luyện và tự
hoàn thiện bản thân
- Ý nghĩa lối sống có trách nhiệm:
+ Sống có trách nhiệm sẽ hoàn thành được mọi công việc nhiệm vụ được giao.
+ Luôn được mọi người tin tưởng, yêu mến.
+ Người sống có trách nhiệm còn dễ dàng vươn đến thành công trong công việc
và cuộc sống
- Chứng minh: Học sinh lấy dẫn chứng phù hợp, có phân tích ngắn gọn.
- Mở rộng vấn đề:
- Bên cạnh đó, trong cuộc sống vẫn còn rất nhiều người vô trách nhiệm, chỉ nghĩ
về lợi ích của bản thân, mà quên đi trách nhiệm với cộng đồng xã hội và gia đình.
Lối sống vô trách nhiệm làm băng hại đạo đức gia đình, gây tổn hại tới xã hội và
bản thân chính cá nhân đó. Đây là lối sống đáng lên án.
d. Bài học nhận thức và hành động 0,25
- Nhận thức được ý nghĩa của việc cần phải sống có trách nhiệm đối với bản thân,
gia đình, quê hương đất nước.
- Cần phải ham học hỏi, luôn trau dồi vốn sống và kĩ năng sống, biết giúp đỡ, biết
đồng cảm và yêu thương người khác, có chí hướng...
2 Cảm nhận về đoạn trích trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà" 5,0
Yêu cầu chung:
- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy
động kiến thức về tác phẩm văn học, lí luận văn học, kĩ năng tạo lập văn bản và
khả năng cảm thụ văn chương để làm bài.. .
-Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có
lí lẽ và căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản tác phẩm.
Yêu cầu cụ thể
a Đầy đủ bố cục 3 phần: 0,25
DUNG VAN PL _38
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
-Mở bài: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp của hung bạo của sông
Đà từ đó thấy được nét độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Tuân.
-Kết bài: Khẳng định lại vấn đề
b Khái quát về tác giả, tác phẩm 0,25
-Tác giả:
+ “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa”(Nguyễn Minh
Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một
“huyền sử” – huyền sử của một người ưu lối chơi “độc tấu”.
+Là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp.
+ Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mĩ,
thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
-Tác phẩm:
+ In trong tập tùy bút Sông Đà (1960)
+ Thành quả của chuyến đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ
quốc.
+ Ở đó, nhà văn phát hiện ra chất vàng của thiên nhiên đặc biệt là thứ vàng mười
đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động……….
c Lời đề từ 0,25
– Thể hiện cảm hứng sáng tác và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Tuân trong tùy bút.
+ Thể hiện tình yêu với thiên nhiên và con người trên sông Đà.
+ Nhắc đến sự ngạo ngược của dòng sông và khẳng định cá tính độc đáo của
mình trong dòng sông văn chương.
d Cảm nhận đoạn trích
*Cảnh vách đá bờ sông 1,0
– Vẻ đẹp hùng vĩ của con sông Đà không chỉ có nhiều thác đá mà nó còn là
những cảnh đá ở 2 bên bờ sông, đá dựng vách thành -> nghệ thuật ẩn dụ “vách
thành” phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và sức mạnh đầy bí ẩn đe
dọa của Sông Đà.
– Với cách so sánh rất độc đáo, mới mẻ nhưng cũng rất lạ lùng khi đem cái “yết
hầu” của con người ra để ví von với những bức thành đá cao lớn ép chặt lấy lòng
sông Đà đén nghẹt thở.
– Cái hẹp của lòng sông Đà được tác giả mô tả hẹp theo đủ cách khác nhau:
+ Chỉ và đúng lúc “ngọ” giữa buổi trưa, khi mặt trời lên cao nhất và chiếu thẳng
xuống lòng sông thì lòng sông mới nhận được chút tia nắng ấm áp ít ỏi và
khi thời gian trôi đi thì những tia nắng ấy cũng dần biến mất.
+ Chỉ cần đứng từ bên bờ bên này nhẹ tay ném một hòn đá nhỏ cũng có thể qua
đến vách đá bên kia bờ sông.
+ Hơn nữa có quãng hẹp đến nỗi con nai con hổ cũng có lần đã vọt từ bên bờ bên
này sang được bờ sông bên kia.
+ Mùa hè ngồi trong khoang đò đi qua quãng sông ấy mà cũng cảm thấy mát
lạnh, thấy mình như đứng ở một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
của một tòa nhà cao tầng nào đó.
-> Miêu tả sự vật thông qua cảm giác: tạo ấn tượng tương phản thông qua xúc
giác, ấn tượng với thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy nhà cao gợi vách đá,
truyền cho người đọc hình dung về cái tối tăm lạnh lẽo.
– So sánh “một khung cửa sổ nòa trên cái tầng thứ mấy nào vừa phụt tắt đèn 1,0
điện”: làm tăng thêm về độ cao hun hút, thăm thẳm, rợn ngợp.
->Bằng việc so sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ lạ lùng tác giả Nguyễn
Tuân như đã lục lọi hết cả kho từ ngữ phong phú của mình để tìm ra được những
ngôn từ đắt giá nhất có thể làm kinh động đến hồn trí người đọc khi miêu tả
DUNG VAN PL _39
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
những vách đá bên bờ sông Đà.
*Quãng mặt ghềnh Hát Loóng
– Nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện của các thanh trắc, những hình
ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ trong cụm từ ngữ “hàng cây số nước xô 1,0
đá, đá xô sóng, sóng xô gió” -> tái hiện sức mạnh dữ dội của thiên nhiên.
– Động từ “xô” điệp lại trong cả ba vế -> gây ấn tượng về sự chuyển động vĩnh
hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác. Mô phỏng hình ảnh
những con sóng dữ cuồn cuộn, chồm lên nhau theo chiều ngang và vút lên cao
theo chiều dọc, rồi đổ ấp xuống, trùng điệp trên mặt ghềnh.
– Từ “ghùn ghè” và hình ảnh mang đậm sắc thái nhân hóa: lúc nào cũng đòi nợ
xuyết bất cứ người lái đò nào qua đó -> thể hiện sự hung hãn, lì lợm và cuồng
bạo của dòng sông.
*Quãng Tà Mường Vát
– Như những “cái bẫy” cứ nối nhau giăng mắc trên sông Đà từ quãng này đến
quãng khác, địa danh này đến địa danh khác. Ở đây, tác giả dụng công miêu tả
những cái “hút nước” ghê rợn trên sông Đà, lòng sông ẩn chứa nhiều nguy hiểm
đe dọa con người, sẵn sàng nhấn chìm mọi thuyền bè đi ngang qua.
– Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà văn đã tái hiện nhưng cái hút nước ấy từ
hình dạng bên ngoài đến âm thanh và hậu quả khủng khiếp mà nó gây ra cho con
người.
+ Cách so sánh nó với “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu”.
+ Cùng với câu văn: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” -> hai biện
pháp tu từ so sánh và nhân hóa được sử dụng cùng một lúc khiến hiệu quả gợi
hình, gợi âm sắc, gợi cảm xúc của Nguyễn Tuân được nhân lên gấp bội. Dòng
nước thở hồng hộc, thanh âm thống thiết, thét gào giữa núi rừng Tây Bắc điệp
trùng.
– Hình ảnh những cái hút nước quãng này cũng đang quay “những cánh quạ
đàn”:
+ Nước xoáy tròn sẵn sàng đưa mọi thứ gần đó xuống đáy sâu mà phía trên trông
như đang quạt thật mạnh, thật điên cuồng với khát vọng khuất phục mọi thứ.
+ Sặc lên mùi tử khí của quãng này. Dòng sông Đà vì thế mà trở nên hùng dũng,
uy lực, dữ dội hơn rất nhiều.
– Sự liên tưởng thú vị: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy,
thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga
cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh
và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào”.
-Hậu quả khi vô ý đi ngang qua cái hút nước được tác giả dự báo trước: “Nhiều
bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống…
tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sức mạnh của thiên nhiên từ lâu vốn là mối đe dọa
đối với con người. Có trách là trách “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý”,
hoặc đi trên sông Đà mà người chèo thuyền không đủ tự tin, bản lĩnh, không am
hiểu quy luật của dòng nước thì “thuyền bị trồng ngay cây chuối ngược” cũng là
chuyện thường tình, không trách ai được. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Tuân đã dụng
công miêu tả sự tài hoa, tinh tế, trí thông minh, lòng dũng cảm của ông lái đò như
một tấm gương sông nước nơi núi rừng khắc nghiệt, hiểm trở này.
- Kết hợp quan sát tỉ mỉ, tinh tường với cách dùng hàng loạt động từ Nguyễn
Tuân đã diễn tả hình ảnh chiếc thuyền bị hút nước nuốt chửng một cách đáng sợ.
Đây là những hình ảnh đầy chất hiện thực mà người đọc dễ dàng cảm nhận sự
“tàn nhẫn” của những cái hút nước trên sông Đà. Ngòi bút Nguyễn Tuân giúp
người đọc nhận ra bên trong sự hung bạo ấy, hình ảnh con sông Đà nổi lên như
DUNG VAN PL _40
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước.
e Nét tài hoa, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân gửi 0,25
gắm qua hình tượng sông Đà
- Sở thích săn tìm những gì dữ dội, mãnh liệt và là một thầy phù thủy ngôn từ,
hình ảnh.
+Trong tùy bút Sông Đà ông đã dùng hết tài năng, vốn từ ngữ của mình tung ra
trang giấy để tái hiện sự hung bạo của dòng sông cũng như vẻ đẹp trữ tình của
một "cố nhân" lâu ngày gặp lại".
+Với sự hiểu biết rộng rãi của mình, Nguyễn Tuân đã sử dụng từ ngữ trong
nhiều lĩnh vực để tái hiện được hết tất cả những góc độ khác nhau của dòng
sông. Có ngôn ngữ của điện ảnh ("Contre – plongée"); có võ thuật ("đánh khuýp
quật vu hồi"); có cả từ ngữ về ô tô ("sang số nhấn ga"… Những từ ngữ này
mang đặc trưng của mỗi lĩnh vực nhưng đều tập trung thể hiện dòng sông Đà.
-> Với cách sử dụng từ ngữ , hình ảnh như thế, nhà văn đã đưa nhiều lĩnh vực
tưởng xa với văn chương trở nên gần gũi để tập trung thể hiện hình tượng văn
học.
- Nhìn nhân vật ở góc độ của một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa. Nhân vật trong tác
phẩm của ông luôn được soi chiếu ở phương diện văn hóa, mĩ thuật của nó.
Dòng sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo
như "kẻ thù số một" của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng, mơ màng,
có nét trữ tình của một con người nồng nàn xúc cảm.
- Tình yêu thiên nhiên, tình yêu tiếng Việt -> Biểu hiện tình yêu đất nước thầm
kín.
g Nhận xét, đánh giá 0, 25
– Vận dụng linh hoạt các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như ẩn dụ, nhân hóa, so
sánh…
– Lối hành văn đầy biến hóa, độc đáo, giàu sức gợi tả và gợi cảm, vận dụng tri
thức tổng hợp của nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau để quan sát, miêu tả hoặc
bộc lộ cảm xúc.
– Xây dựng thành công vẻ hung bạo của Sông Đà qua những từ ngữ bạo khỏe,
gân guốc, câu văn ngắn gọn…
– Nguyễn Tuân là một định nghĩa đầy đủ về người nghệ sĩ. Ông suốt đời rong
ruổi đi tìm cái đẹp. Đọc văn của ông, người ta thấy một con người tài hoa, uyên
bác.
h Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo qui tắc chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
i Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn 0,25
đề nghị luận

DUNG VAN PL _41


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM


TỪ ĐỀ MINH HỌA 2021 Môn thi thành phần: Ngữ Văn
CHUẨN CẤU TRÚC Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát
đề

ĐỀ SỐ 20

A. ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ
1. Cấu trúc đề vẫn gồm hai phần, đó là phần Đọc hiểu (3 điểm) và Làm văn (7 điểm).
- Trong đó, câu hỏi Đọc hiểu gồm ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa cùng 4 câu hỏi đọc hiểu theo các
mức độ: Nhận biết/ thông hiểu/ vận dụng. Đó là những dạng câu hỏi quen thuộc với học trò từ nhiều năm
nay.
- Trong phần Làm văn, câu Nghị luận xã hội (2 điểm) với yêu cầu viết một đoạn văn khoảng 200 chữ,
nội dung nghị luận là vấn đề có quan hệ hữu cơ với nội dung trong ngữ liệu đọc hiểu.
2. Nội dung:
- Đề đảm bảo kiến thức cơ bản, và không có kiến thức trong nội dung tinh giản mà Bộ mới công bố ngày
31.3.2021. Đề không khó, vừa sức với học sinh, học sinh trung bình không khó để đạt mức điểm 5 - 6; học
sinh khá đạt 7 - 8. Tuy nhiên để đạt mức điểm 9-10 đòi hỏi học sinh phải phát huy được tư duy phản biện,
các trình bày vấn đề nghị luận sắc bén, thể hiện quan điểm cá nhân mang tính sáng tạo.
- Phần Đọc hiểu trong đề thi sử dụng ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa, gồm một đoạn trích dẫn cho
trước và 4 câu hỏi. Để trả lời được 4 câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức về Tiếng Việt,
đọc hiểu nội dung và suy ngẫm, đánh giá. Đặc biệt ở câu 3, câu 4 đòi hỏi người làm bài phải hiểu sâu sắc
đoạn trích, câu trích dẫn thì bài làm mới hay, hiểu đúng vấn đề.
- Trong phần Làm văn:
+ Đề thi yêu cầu học sinh viết đoạn văn nghị luận xã hội: Câu này vẫn giữ nguyên tắc ra đề truyền thống,
yêu cầu học sinh viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về một vấn đề được rút ra từ ngữ liệu ở
phần Đọc hiểu.
+ Ở câu nghị luận văn học, nội dung câu hỏi nằm ở phần kiến thức chương trình học kì I lớp 12, không
ra ngoài nội dung tinh giản của Bộ GDĐT, mức độ phù hợp giống với câu nghị luận học trong đề thi chính
thức năm 2019. Và đây là đơn vị kiến thức nhỏ (không phải toàn bộ tác phẩm), phù hợp với dung lượng bài
văn 5 điểm trong thời lượng đề thi 120 phút.
B. MA TRẬN ĐỀ THI
MA TRẬN
PHẦN CÂ CẤP ĐỘ NHẬN THỨC
DUNG VAN PL _42
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
U Nhận biết Thông hiểu Vận Vận dụng cao
dụng
ĐỌC HIỂU 1 x
2 x
3 x
4 x
LÀM VĂN 1 x
2

C – BIÊN SOẠN ĐỀ THI

I. Đọc hiểu (3 điểm)


Đọc đoạn trích:
Xã hội và đời sống đã có nhiều thay đổi thì dù ít dù nhiều nếp nhà có biến đổi cũng là lẽ đương
nhiên. Nhưng, quan trọng nhất là hồn cốt của gia phong vẫn còn được giữ, có giá trị định hình, nuôi dưỡng
nhân cách của mỗi thành viên, đặc biệt là con cái.

Nếp nhà là sự gắn bó giữa các thành viên, là những người trong gia đình phải biết yêu thương nhau,
nhường nhịn nhau, nhưng đùm bọc không có nghĩa là chấp nhận những việc làm sai trái của những người
trong gia đình mình. Bảo bọc nhau bằng cách là bảo ban giữ những điều tốt đẹp và để ứng xử với người
trong gia đình, với người ngoài xã hội. Nếp nhà mà giữ không tốt thì đừng nói chuyện giữ cho xã hội tốt đẹp
được. Điều đáng nói, giữ nếp nhà là giữ những điều tốt đẹp, chứ không phải tự vun vén cho riêng gia đình
mình. Quan trọng để giữ nếp nhà là người lớn phải là tấm gương soi chiếu để cho con cái học theo. Cha mẹ
mà không tốt - như bây giờ đang có hiện tượng xã hội xảy ra là cha mẹ có quyền có chức mà cố vơ vét rồi
tham nhũng khi làm quan - thì con cái không thể nên thành được.
…Cho nên, gia đình là cái mốc đầu tiên, gia đình rồi mới tới làng xã, rồi tới môi trường rộng lớn
hơn là xã hội. Xã hội có tốt đẹp hay không thì phải xuất phát từ cái gốc quan trọng nhất là gia đình. Văn
hóa gia đình mà không lo giữ thì xã hội cũng sẽ loạn.
(Nguyễn Sự - Người lớn phải là tấm gương soi chiếu. Dẫn theo Tuổi trẻ online ngày 25.02.2018)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1 (NB). Xác định phương thức biểu đạt của đoạn trích.
Câu 2 (NB). Theo tác giả, nếp nhà là gì?
Câu 3 (TH). Anh/Chị hiểu ý kiến: “Giữ nếp nhà là giữ những điều tốt đẹp, chứ không phải tự
vun vén cho riêng gia đình mình” như thế nào?
Câu 4 (VD). Anh/Chị có đồng tình với quan điểm “Xã hội có tốt đẹp hay không thì phải xuất
phát từ cái gốc quan trọng nhất là gia đình” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ về
cách giữ gìn văn hóa gia đình trong xã hội hiện đại.
Câu 2. (5,0 điểm)
DUNG VAN PL _43
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái
yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hỗ đã có lần vọt từ
bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vửa tắt
phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được
qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa sống cái bị
sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men
gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô sang số ấn ga
cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà
phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi
nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống,
thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn
truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả
mình cả máy quay xuống đáy hút Sông Đà-từ đây cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh
nhautới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng
quay tít, cái máy lia ngược contre-plonggée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông
xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim
cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoát tít đáy, truyền cảm lại cho người xem
phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cốc
pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách nhìn mang
tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân.
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI CHI TIẾT

Phầ Câu/Ý Nội dung Điểm


n
I Đọc hiểu 3.0
1 Phương thức biểu đạt chính: nghị luận. 0,5
2 Nếp nhà là sự gắn bó giữa các thành viên, là những người trong gia đình phải 0, 5
biết yêu thương nhau, nhường nhịn nhau, nhưng đùm bọc không có nghĩa là chấp
nhận những việc làm sai trái của những người trong gia đình mình.
3 Học sinh tự trình bày quan điểm của cá nhân mình về: giữ nếp nhà là giữ những 0,75
điều tốt đẹp, chứ không phải tự vun vén cho riêng gia đình mình.
4 Học sinh có thể trả lời đồng ý hoặc không đồng ý với quan điểm của tác giả. 1,0
Giám khảo cho điểm tùy vào việc giải thích hợp lý, thuyết phục của thí sinh.
Gợi ý: Đồng tình với quan điểm: “Xã hội có tốt đẹp hay không thì phải xuất phát
từ cái gốc quan trọng nhất là gia đình.”.
Vì: Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội. Gia đình bao gồm các thành viên, mỗi
thành viên cũng chính là một công dân. Khi gia đình có nền tảng tốt, có những
thành viên ưu tú thì xã hội sẽ phát triển tốt đẹp. Ngược lại, nếu gia đình đi xuống
thì xã hội cũng sẽ kém phát triển, tụt lùi.
II Làm văn
1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn 2,0
văn khoảng 200 chữ về cách giữ gìn văn hóa gia đình trong xã hội hiện đại.

DUNG VAN PL _44


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -
phân-hợp, song hành hoặc móc xích. 0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: cách
giữ gìn văn hóa gia đình trong xã hội hiện đại.

c. Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn 1,0
đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ cách giữ gìn văn hóa gia đình
trong xã hội hiện đại.
Có thể triển khai theo hướng sau:
- Nếp nhà là gì? Một số quan điểm về nếp nhà
+ “Nhà phải có gia phong”, đó chính là nếp nhà, mà bây giờ nếp nhà được gọi là
văn hóa gia đình.
+ Nếp nhà là rường cột gia đình.
+ Nếp nhà lung lay sẽ khiến đạo đức gia đình xuống cấp, đời sống trong gia đình
theo đó bất ổn.
+ Nếp nhà vững thì gia đình mới ổn định và phát triển.
- Nếp nhà của người Việt: là những cách ứng xử, là lời ăn tiếng nói, là tình yêu
đối với truyền thống văn hóa gia đình. (truyền thống kính trọng người già, tôn sư
trọng đạo, nếp hiếu học, là tình yêu với nghề gia truyền, nét văn hoá kinh doanh,
trách nhiệm với di sản của thế hệ trước để lại...)
- Trong xã hội hiện đại, những tác động từ sự hội nhập phát triển tới gia đình rất
mạnh mẽ, bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực.
+ Tích cực: đời sống gia đình văn minh, tiến bộ, phát triển hơn.
+ Tiêu cực:
 Đó là tình trạng bạo lực gia đình vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức, mức độ
khác nhau, phụ nữ và trẻ em bị xâm hại, bạo hành gia tăng.
 Đời sống hôn nhân bất ổn với tỉ lệ “ly hôn xanh” ngày một nhiều.
 Có không ít gia đình đã thay thế việc giao tiếp với nhau bằng công nghệ;
trong những bữa cơm, cha mẹ, con cái cứ mỗi người một smartphone,
một mối quan tâm riêng.
 Ở ngoài xã hội bỏ rất nhiều công sức để chăm sóc nhân viên, chiều
chuộng sếp, giữ chân khách hàng nhưng về nhà lại không quan tâm chăm
sóc người thân.
 Gia đình bị chi phối mạnh mẽ bởi công nghệ ngày một nhiều...
- Làm thế nào để giữ gìn nếp nhà trước cuộc sống hiện đại?
+ Người lớn trong gia đình cần làm gương để con cái noi theo.
+ Giáo dục, tuyên truyền để mỗi người dân có ý thức giữ gìn, bảo vệ nếp nhà
trong sự hội nhập là cấp thiết.

d. Sáng tạo 0,25


Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
2 Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích. Từ đó, nhận 5,0
xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn thơ (có ý phụ) 0,25
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài
triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích; nhận xét cách nhìn mang tính phát
hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân.
DUNG VAN PL _45
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc
và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
Cụ thể:
3.1.Mở bài
- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị 0,25
trí quan trọng và đóng góp không nhỏ cho văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy
thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm
ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một
phong cách tài hoa, độc đáo.
- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách
mạng tháng Tám 1945.
-Vẻ đẹp dòng sông Đà thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông 0,25
Đà của nhà văn Nguyễn Tuân sau cách mạng.
3.2.Thân bài
a. Khái quát về tuỳ bút, đoạn trích
- Về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm;
- Vị trí, nội dung đoạn trích.
b. Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà trong đoạn trích
b.1. Về nội dung:Vẻ hung bạo, dữ dằn của sông Đà qua đoạn trích
-Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”
+ Hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm
và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của vách núi như thành cao, vực thẳm, như 2,0
hào sâu.
+ Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng
lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá, như mặt
sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay
ném hòn đá qua bên kia vách.
+ Cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu –
động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái “yết hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh
liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở.
+ Miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn
Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc
giác với chi tiết ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao
gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột
ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành
qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt
phụt đèn điện.
- Mặt “ghềnh Hát Loóng”:
+ Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá
xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Câu văn miêu tả
có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ điệp nối
tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức
mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà, trong đó cuồn
cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp ghê rợn trên mặt
ghềnh.
+Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về
việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người
lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm
và cuồng bạo của dòng sông. Qua từ “nợ xuýt”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ
điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo ( nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng
tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người)
DUNG VAN PL _46
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
-Những “cái hút nước” trên sông Đà
+Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra
trong hình ảnh như một cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh của một cửa
cống cái bị sặc, trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị rót dầu sôi.
+Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng
những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc, tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút
nước như một quái vật đang giận dữ tới ghê người.
+Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã
giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men
gần hút nước đáng sợ. Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình
dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay
chiếc thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi... tan xác ở khuỷnh
sông dưới.
+Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay
một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn 0,5
tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống
tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút
nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một
cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng
nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả
cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối
pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.
-Nhận xét: Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh
một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bất sông
Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên,
đất nước.
b.2. Về nghệ thuật
-Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú
vị;
-Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao;
-Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi
thì chậm rãi, trữ tình...
c. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn
Nguyễn Tuân
- Biểu hiện: Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là
con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám
phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp
với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh, đầy ấn tượng.
- Ý nghĩa: Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha
thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm
nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã
chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là phông nền cho
sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong chế độ mới.
3.3.Kết bài
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp hình tượng con sông Đà;
- Nêu cảm nghĩ về vẻ đẹp thiên nhiên và đóng góp của nhà văn sau cách
mạng.
4. Sáng tạo 0,25
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề
nghị luận.

DUNG VAN PL _47


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
5. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

ĐỀ PHÁT TRIỂN ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2021


TỪ ĐỀ MINH HỌA 2021 Môn thi thành phần: Ngữ Văn
CHUẨN CẤU TRÚC Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát
đề

ĐỀ SỐ 19

A. ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ
1. Cấu trúc đề vẫn gồm hai phần, đó là phần Đọc hiểu (3 điểm) và Làm văn (7 điểm).
- Trong đó, câu hỏi Đọc hiểu gồm ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa cùng 4 câu hỏi đọc hiểu theo các
mức độ: Nhận biết/ thông hiểu/ vận dụng. Đó là những dạng câu hỏi quen thuộc với học trò từ nhiều năm
nay.
- Trong phần Làm văn, câu Nghị luận xã hội (2 điểm) với yêu cầu viết một đoạn văn khoảng 200 chữ,
nội dung nghị luận là vấn đề có quan hệ hữu cơ với nội dung trong ngữ liệu đọc hiểu.
2. Nội dung:
- Đề đảm bảo kiến thức cơ bản, và không có kiến thức trong nội dung tinh giản mà Bộ mới công bố ngày
31.3.2021. Đề không khó, vừa sức với học sinh, học sinh trung bình không khó để đạt mức điểm 5 - 6; học
sinh khá đạt 7 - 8. Tuy nhiên để đạt mức điểm 9-10 đòi hỏi học sinh phải phát huy được tư duy phản biện,
các trình bày vấn đề nghị luận sắc bén, thể hiện quan điểm cá nhân mang tính sáng tạo.
- Phần Đọc hiểu trong đề thi sử dụng ngữ liệu nằm ngoài sách giáo khoa, gồm một đoạn trích dẫn cho
trước và 4 câu hỏi. Để trả lời được 4 câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức về Tiếng Việt,
đọc hiểu nội dung và suy ngẫm, đánh giá. Đặc biệt ở câu 3, câu 4 đòi hỏi người làm bài phải hiểu sâu sắc
đoạn trích, câu trích dẫn thì bài làm mới hay, hiểu đúng vấn đề.
- Trong phần Làm văn:
+ Đề thi yêu cầu học sinh viết đoạn văn nghị luận xã hội: Câu này vẫn giữ nguyên tắc ra đề truyền thống,
yêu cầu học sinh viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về một vấn đề được rút ra từ ngữ liệu ở
phần Đọc hiểu.
+ Ở câu nghị luận văn học, nội dung câu hỏi nằm ở phần kiến thức chương trình học kì I lớp 12, không
ra ngoài nội dung tinh giản của Bộ GDĐT, mức độ phù hợp giống với câu nghị luận học trong đề thi chính
thức năm 2019. Và đây là đơn vị kiến thức nhỏ (không phải toàn bộ tác phẩm), phù hợp với dung lượng bài
văn 5 điểm trong thời lượng đề thi 120 phút.
B. MA TRẬN ĐỀ THI
MA TRẬN
PHẦN CÂ CẤP ĐỘ NHẬN THỨC
U Nhận biết Thông hiểu Vận Vận dụng cao
dụng
ĐỌC HIỂU 1 x
2 x
3 x
4 x
LÀM VĂN 1 x
2

C – BIÊN SOẠN ĐỀ THI


I. Đọc hiểu (3 điểm)
DUNG VAN PL _48
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Đọc đoạn trích:
Warren Buffet từng nói: “Không bao giờ có ai giống bạn”. Một ý tưởng rất thâm thúy. Một con
người khôn ngoan. Không bao giờ có ai giống như tôi. Và không bao giờ có ai giống như bạn. Sẽ có người
cố gắng bắt chước cách bạn suy tư, nói năng, hành động. Nhưng dù cố gắng hết sức họ cũng chỉ đứng hàng
thứ hai mà thôi. Vì bạn là duy nhật. Một bản thể duy nhất tồn tại hôm nay. Giữa hàng tỉ người khác. Hãy
dừng lại và suy nghĩ về điều này. Bạn chợt nhận ra rằng mình đặc biệt. Và không thể có ai tranh giành
được.
Thế thì hôm nay, bạn làm gì khi bước vào thế giới cần những con người thể hiện vượt trội trong
cuộc sống từ trước đến giờ? Bạn đã bộc lộ hết mọi khả năng tiềm ẩn chưa? Bạn có là chính mình? Hãy tự
hỏi. Bởi vì không còn lúc nào thể hiện chính mình tốt hơn lúc này. Và nếu không phải bây giờ thi khi nào?
Tôi nhớ đến lời của triết gia Herodotus: “Thà chấp nhận rủi ro phải gánh chịu một nửa những chuyện xấu
mà ta từng dự đoán trước, còn hơn giữ mãi sự vô danh hèn nhát vì sợ những điều có thể xảy ra”. Một lời
nói tuyệt đẹp.
(Trích “Hãy là chính mình” - Robin Sharma)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1 (NB). Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2 (TH). Anh/chị hiểu câu nói: “Không bao giờ có ai giống bạn” thế nào?
Câu 3 (TH). Nêu hiệu quả nghệ thuật của các câu hỏi tu từ trong các câu sau: Thế thì hôm nay, bạn làm gì
khi bước vào thế giới cần những con người thể hiện vượt trội trong cuộc sống từ trước đến giờ? Bạn đã bộc
lộ hết mọi khả năng tiềm ẩn chưa? Bạn có là chính mình?
Câu 4 (VD). Câu nói: “Thà chấp nhận rủi ro phải gánh chịu một nửa những chuyện xấu mà ta từng dự
đoán trước, còn hơn giữ mãi sự vô danh hèn nhát vì sợ những điều có thể xảy ra” gợi cho anh chị suy nghĩ
gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ về việc
ý thức là chính mình của giới trẻ hiện nay.
Câu 2. (5,0 điểm)
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên.
Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ
lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi.
Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục
hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi
lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá
nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung
tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những
tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình
như sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám
hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết
lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá
trông như là sơ hở, nhưng chính là hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận
tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích
ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba là
phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở
chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh
viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm
hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái
thuyền có giỏi thì tiến gần vào. ..
(Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét phong cách tài
hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
DUNG VAN PL _49
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI CHI TIẾT

Phầ Câu/Ý Nội dung Điểm


n
I Đọc hiểu 3.0
1 Phương thức biểu đạt chính: nghị luận. 0,5
2 - Câu nói: “Không bao giờ có ai giống bạn” được hiểu: 0,75
+ Bản thân chúng ta là một bản thể độc lập và duy nhất, không ai có thể giống
như mình, hay bắt chước để giống như mình từ suy nghĩ đến hành động, cách nói
năng hay ngoại hình...
+ Qua đó, tác giả muốn chúng ta phải biết trân trọng bản thân.

3 Các câu hỏi tu từ: Bạn làm gì khi bước vào thế giới cần những người thể hiện 0,75
vượt trội trong cuộc sống từ trước đến giờ? Bạn đã bộc lộ hết mọi khả năng tiềm
ẩn chưa? Bạn đã tiết lộ con người chân thật của mình chưa? Bạn có là chính
mình?
+ Hiệu quả của hàng loạt các câu hỏi tu từ được tác giả sử dụng nhằm tạo giọng
điệu suy tư, trăn trở về việc chúng ta sống còn giấu mình, chưa bộc lộ, chưa phát
huy hết khả năng sẵn có trong con người thực sự của chính mình.
+ Thông qua đó, tác giả nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là giới trẻ sống phải biết phát
huy năng lực, cống hiến hết mình, thể hiện bản thân sao cho xứng đáng.

4 Câu nói: “Thà chấp nhận rủi ro phải gánh chịu một nữa những chuyện xấu mà ta 1,0
từng dự đoán trước, còn hơn giữ mãi sự vô danh hèn nhát vì sợ những điều có thể
xảy ra", gợi suy nghĩ:
- Khi ta xác định “sống là chính mình" hoặc thay đổi cuộc sống, công việc, mục
tiêu hiện tại thì sẽ có những khó khăn, những trở ngại vì phải thích nghi với
những điều mới, làm quen với những điều mà ta chưa từng trải qua. Nhưng:
+ “Thà chấp nhận rủi ro phải gánh chịu một nửa những chuyện xấu mà ta từng
dự đoán trước”; có nghĩa là chúng ta chấp nhận những khó khăn, những rủi ro
thất bại, những vấp ngã để cho ta kinh nghiệm, để giúp ta trưởng thành còn hơn
là đứng yên một chỗ không chịu thay đổi. Những rủi ro, những chuyện xấu mà ta
gánh chịu có thể là một nửa hoặc thậm chí thất bại hoàn toàn, thì ít nhất cũng cho
ta những bài học, Điều đáng quý hơn cả là ta dám chấp nhận rủi ro mà hành
động.
+ “Giữ mãi sự vô danh hèn nhát vì sợ những điều có thể xảy ra”; “những điều có
thể xảy ra" ở đây chính là rủi ro, những khó khăn thất bại, những trở ngại, “Giữ
mãi sự tố danh hèn nhát” là chúng ta không dám thay đổi, không dám vượt qua
mặc cảm của bản thân, không dám sống là chính mình, không tự tin phát huy khả
năng tiềm ẩn, không dám tiết lộ con người chân thật của mình.

II Làm văn
1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn 2,0
văn khoảng 200 chữ về ý thức là chính mình của giới trẻ hiện nay.

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 200 chữ 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng -
phân-hợp, song hành hoặc móc xích. 0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận về một vấn đề xã hội: về ý
thức là chính mình của giới trẻ hiện nay.

DUNG VAN PL _50


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
c. Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận 1,0
theo nhiều cách nhưng phải làm rõ về ý thức là chính mình của giới trẻ hiện
nay.
Có thể triển khai theo hướng sau:
*Mở đoạn: Khi con người hiểu rõ về bản thân mình, sẽ là một trong những yếu
tố quan trọng quyết định thành công có đến với họ hay không. Điều đó như đánh
thức suy nghĩ là chính mình trong chúng ta, đặc biệt là giới trẻ ngày nay.
*Thân đoạn:
1. Giải thích
+ “Chính mình” là sống đúng với tính cách, con người, suy nghĩ, sở thích của
mình; Sống thật với những gì tự nhiên vốn có, không gò ép, không áp đặt, không
sống để làm vui lòng hay chiều theo ý của người khác.
+ “Ý thức là chính mình” nghĩa là bản thân mình phải hiểu, phải xác định được
những gì mình cần, những gì mình thích, những gì mình mong muốn trong cuộc
sống. Nếu bạn mạnh mẽ hãy cứ dũng cảm khoác lên mình những bộ đồ cá tính,
đừng vì “không phù hợp” mà tỏ ra dịu dàng. (Nếu bạn thích trường Đại học
Ngoại thương hãy cứ mạnh dạn đăng ký và quyết tâm để đạt được mục tiêu,
đừng vì lời gièm pha của bạn bè mà từ bỏ.)
2. Phân tích, chứng minh: Tại sao cần “ý thức là chính mình”?
- Bởi xã hội ngày càng phức tạp, để sống là chính mình không phải chuyện dễ
dàng. Chúng ta thường bị đầu hàng trước những nỗi sợ hãi, bị mê hoặc bởi những
cám dỗ hay thiếu bản lĩnh, không có quan điểm rõ ràng, thích chạy theo số đông,
không muốn làm mất lòng người khác...
- Nếu không được sống là chính mình thì chúng ta sẽ chỉ biết sống một cách
gượng ép, hôm nay giống người này, ngày mai giống người kia, hôm nay theo ý
người này, ngày mai theo ý người khác... Như vậy, ta sẽ mãi không tìm được lối
đi riêng.
- Đến lúc tuổi trẻ qua đi, hoặc đã quá mệt mỏi khi phải gồng mình lên sống theo
ý người khác, chúng ta sẽ thấy mệt mỏi, chán nản và thất vọng, và chắc chắn sẽ
phải - sống trong sự tiếc nuối vì đã không sống là chính mình.
- Dẫn chứng chứng minh: Hoa hậu hoàn vũ H'Hen Niê.
Đăng quang ngôi vị cao nhất cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam nhưng không
được công chúng đón nhận. Tuy nhiên cô gái người Ê-đê mạnh mẽ vẫn luôn tự ý
thức được bản thân, ý thức được nhan sắc của mình có thể đáp ứng đầy đủ tiêu
chí của cuộc thi “Hoa hậu Hoàn vũ thế giới” mà H'Hen đã không quản ngày đêm
rèn luyện kỹ năng, trau dồi kiến thức để mang chuông đi đánh xứ người. Kết quả
chung cuộc, H'Hen lọt vào TOP 5 Hoa hậu hoàn vũ thế giới - thành tích cao nhất
mà đại diện Việt Nam từ trước đến nay đạt được. Qua đó, H'Hen Niê đã giúp cho
giới trẻ hiểu rõ hơn về việc “ý thức là chính mình” để tự tin bước vào đời, bước
vào tương lai, cống hiến một phần sức lực nhỏ bé của mình cho sự phát triển của
xã hội của đất nước.
3. Bài học nhận thức và hành động
+ Chúng ta phải xây dựng, học tập, rèn luyện cho mình một cái tâm vững vàng,
một trí tuệ sắc sảo, một nền kiến thức vững vàng, tự hình thành cho mình những
kỹ năng sống, những quan điểm sống rõ ràng.
+ Không chạy theo số đông, không mù quáng tin tưởng, không sống theo ý người
khác, cũng không nên ích kỉ chỉ vì bản thân.
+ Phải xác định rõ: bản thân cần gì, mong muốn gì, mục tiêu trong cuộc sống là
gì để cố gắng theo đuổi, ra sức học tập để đạt được.

d. Sáng tạo 0,25


Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
DUNG VAN PL _51
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. 0,25
2 Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích. Từ đó, nhận 5,0
xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn thơ (có ý phụ) 0,25
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài
triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Hình tượng sông Đà ở đoạn trích; phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn
Nguyễn Tuân.
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc
và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng.
Cụ thể:
3.1.Mở bài
- Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi hiện đại Việt Nam. 0,25
- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách
mạng tháng Tám 1945.
-Vẻ đẹp dòng sông Đà thể hiện rõ phong cách tài hoa uyên bác của Nguyễn
Tuân.
3.2.Thân bài:
a. Khái quát về tuỳ bút, đoạn trích:
- Về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; 0,25
- Vị trí, nội dung đoạn trích.
b. Cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà trong đoạn trích:
- Về nội dung:
+Nước thác trên Sông Đà: Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của
sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Sự liên 2,0
tưởng của tác giả độc đáo ở chỗ: âm thanh của tự nhiên (tiếng thác) được đổi
thành tiếng gầm đau đớn, lồng lộn của hàng ngàn con trâu mộng da cháy bùng
bùng; và còn tài tình ở chỗ tác giả đã đem thủy (thác nước) so sánh với hỏa (rừng
lửa). Sức mạnh hoang dã của tự nhiên qua tài đối sánh, qua trí tưởng tượng
phong phú, độc lạ của Nguyễn Tuân đã gây ấn tượng trong người đọc về sự dữ
dội, y như một trận động rừng hay cháy rừng khủng khiếp của nước thác trên
sông Đà.
+ Thạch trận trên Sông Đà:
++Đội quân thạch giang trên Sông Đà khá hùng hậu, cả một chân trời đá, ngàn
năm vẫn mai phục hết trong lòng sông.
++Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, mỗi hòn đá như có một gương mặt
riêng: hòn thì ngổ ngáo, hiếu chiến (mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt
sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền), hòn thì ngỗ ngược, hòn
thì nhăn nhúm méo mó; mỗi hòn một dáng (nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở
thích tự động của đá to đá bé); mỗi hòn một nhiệm vụ (đám tảng đám hòn chia
làm ba hàng chặn ngang trên sông; hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở,
(...) giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa; những boong-ke chìm
và pháo đài đá nổi (...) phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu
diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác.).
++Để khắc họa từng gương mặt riêng của đá thác Sông Đà, tưởng như Nguyễn
Tuân đã phải lao động cật lực, khổ công quan sát và tung ra trường từ vựng hết
sức giàu có, phong phú về hành động (nhổm cả dậy, vồ lấy, chặn ngang, dụ, đánh
khuýp quật vu hồi, đánh tan, tiêu diệt), tính cách (ngỗ ngược), hình sắc (nhăn
nhúm, méo mó, to, bé), tư thế (đứng, ngồi, nằm).
+Sự phối hợp rất chặt chẽ giữa nước thác và đá thác trên sông:
DUNG VAN PL _52
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
++Từ xa, tiếng nước thác réo gần mãi lại réo to mãi lên, rồi rống lên vừa như phô
trương sức mạnh vừa như uy hiếp, đe dọa con thuyền sắp qua thác nước Sông
Đà.
++Sau đó, đến thác, một chân trời đá hiện hình và bày thạch trận trên sông. Đội
quân thạch giang đủ loại lớn bé, đủ tư thế ngồi, nằm, đứng nhưng hòn nào cũng
nhăn nhúm méo mó và hiếu chiến. Mỗi hòn đá đều nhận đúng vị trí: Đám đá tảng
thì chia làm ba hàng chặn ngang trên sông; hàng tiền vệ có hai hòn canh cửa; ở
tuyến ba là những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi. Với mỗi vị trí là một nhiệm
vụ: Đám đá tảng sẽ ăn chết cái thuyền đơn độc; hai hòn đá canh ở hàng tiền vệ sẽ
dụ cái thuyền đi vào sâu nữa; những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi phải đánh
tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ
ngay ở chân thác. Nhiệm vụ nào của đám thạch giang trên Sông Đà cũng hung
hãn, quyết liệt, cũng thể hiện một quyết tâm tiêu diệt con thuyền đối phương đến
cùng để giành chiến thắng.
+ Nhận xét: Đoạn trích là khúc ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà.
Đó chính là sức mạnh của thiên nhiên mà con người cần chinh phục. Đó cũng
chính là niềm tự hào của tác giả về Tổ quốc hùng vĩ, giàu đẹp.
- Về nghệ thuật:
+Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để dường như thi tài với tạo hoá. Ông dùng
những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp
nhau, dồn dập;
+Nhà văn sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ,
chính xác, thú vị.
+Nhà văn đã vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: địa lý,lịch sử, hội
họa, văn chương và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông Đà.
c. Nhận xét nhận xét phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn
Tuân
- Biểu hiện phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân: Ông
không chấp nhận sự sáo mòn. Ông luôn tìm kiếm những cách thức thể hiện,
những đối tượng mới mẻ. Nhà văn luôn tiếp cận sự vật ở phương diện văn hóa
thẩm mĩ, có ấn tượng với những sự vật gây cảm giác mạnh (Sông Đà là một sinh
thể như vậy). Tác giả bộc lộ sự tinh vi trong mĩ cảm với trường liên tưởng phong
phú, ngôn ngữ vừa phong phú vừa tinh tế.Một cái tôi uyên bác khi huy động mọi 0,5
kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng sông Đà.
- Ý nghĩa: Qua phong cách tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân là là nhà văn có ý
thức tự khẳng định cá tính độc đáo của mình. Chứng tỏ ông là người có một lòng
yêu quê hương đất nước tha thiết, một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh,
một trí thức tâm huyết với nghề. Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất,
cốt cách của con người đáng quý này.
3.3.Kết bài
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp hình tượng con sông Đà;
- Nêu cảm nghĩ về vẻ đẹp thiên nhiên và đóng góp của nhà văn cách mạng
Nguyễn Tuân 0,75
4. Sáng tạo 0,25
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề
nghị luận.
5. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

DUNG VAN PL _53


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

FROM ĐỀ MINH HỌA KÌ THI TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM
Bài thi: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút không kể thời gian phát đề

I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm)


Đọc đoạn trích sau:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn!
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều

Quê hương biết mấy thân yêu


Bao nhiều đời đã chịu nhiều thuơng đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn

Đất nghèo nuôi những anh hùng


Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

Việt Nam đất nắng chan hòa


Hoa thơm cỏ ngọt bốn mùa xanh tươi
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm lòng thủy chung
(Trích Việt Nam quê hương ta - Nguyễn Đinh Thi, dẫn theo Trần Đăng Khoa, Chân dung và đối
thoại, NXB Thanh niên, 1999)
Câu 1. Xác định thể thơ được tác giả sử dụng trong đoạn thơ trên.
Câu 2. Trong bốn dòng thơ đầu, tác giả đã chọn những hình ảnh nào để tái hiện khung cảnh đất nước Việt
Nam?
Câu 3. Đoạn thơ thể hiện những tình cảm gì của tác giả với quê hương, đất nước?
Câu 4. Đọc đoạn thơ, anh/chị cảm nhận được những vẻ đẹp nào của nhân dân,của đất nước Việt Nam?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
của anh/ chị về vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam.
DUNG VAN PL _54
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Câu 2. (5,0 điểm)
Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một
cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai
trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sống hằng năm
và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái
đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh
“Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ
sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen
thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu và nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân đồng xanh ngọc
bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ
lừ chín đỏ như da mặt một người bầu đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội
gì mỗi độ thư về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta
ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2008)
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét nét tài hoa, độc
đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân gửi gắm qua hình tượng sông Đà.

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT

Phần Câu Nội dung Điểm


I ĐỌC HIỂU 3,0
1 Đoạn trích trên được viết theo thể thơ lục bát. 0,75
2 Trong bốn dòng thơ đầu, tác giả đã chọn hình ảnh cánh đồng lúa mênh mông và 0,75
cánh cò "bay lả dập dờn" để tái hiện khung cảnh đất nước Việt Nam êm đềm,
hiền hòa, hùng vĩ, hiên ngang.
3 Qua đoạn thơ, tác giả thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó, lòng tự hào, kiêu 1,0
hãnh ...về nhân dân, đất nước.
4 Câu 4. Đoạn thơ gợi lên những vẻ đẹp về thiên nhiên và con người đất Việt: 0,5
- Thiên nhiên vừa gần gũi, thơ mộng, êm đềm; hùng vĩ, trù phú, tràn trề sức sống.
- Con người vừa hiền hòa, bình dị; vừa bất khuất, hiên ngang; dẫu nếm trải bao
nhiêu khó khăn vất vả, đau thương, mất mát, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong, nhân
hậu, thủy chung...
(Thí sinh có thể trả lời theo cách khác mà phù hợp với nội dung đoạn trích vẫn
được điểm tối đa)

II LÀM VĂN 7,0


1 Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 2,0
200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam.
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết đoạn nghị luận xã hội, đòi hỏi thí sinh phải huy
động những hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày
tỏ thái độ và chính kiến của mình để làm bài.
-Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn
cứ xác đáng; được tự do bày tỏ chủ kiến của mình nhưng phải có thái độ chân
thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Yêu cầu cụ thể
DUNG VAN PL _55
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
Hình thức: 0,25
-Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
-Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Nội dung:
a.Nêu vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam. 0,25
b.Giải thích: 0,25
- "Vẻ đẹp" là nét đẹp được tôi luyện, gìn giữ qua thời gian, qua những thăng trầm
lịch sử.
- Vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam là nét đẹp của dân tộc Việt trên hành trình mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước dù luôn phải đương đầu với những thử thách
nghiệt ngã, phải nếm trải nhiều gian khổ, mất mát, hi sinh vẫn không hề mất đi.
c. Bàn luận: đưa ra lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục. Có thể tham khảo ý sau: 1,0
- Dân tộc Việt Nam đã vượt lên mọi gian nan, thử thách, mất mát đau thương
bằng sức mạnh của tinh thần bất khuất, sức sống mãnh liệt và tâm hồn nhân ái,
bao dung, tình nghĩa.
- Dân tộc Việt Nam mang vẻ đẹp hiền hậu, chất phác trong cuộc sống đời thường.
- Chứng minh: Học sinh lấy dẫn chứng phù hợp, có phân tích ngắn gọn.
- Mở rộng vấn đề:
+ Tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc và con người Việt Nam.
+ Yêu mến quê hương, đất nước Việt.
+ Bên cạnh đó, trong lịch sử dựng nước, giữ nước và trong thời đại ngày nay, còn
nhiều cá nhân bị lôi kéo bởi các thế lực thù địch, làm mất đi vẻ đẹp vốn có của
dân tộc Việt. Đây là những cá nhân đáng lên án.
d. Bài học nhận thức và hành động 0,25
- Nhận thức được ý nghĩa của việc cần phải trân trọng truyền thống vẻ vang tự
hào trong quá khứ chống ngoại xâm của cha ông, có ý thức giữ gìn, phát huy
những phẩm chất đẹp của người Việt.
- Cần tôi luyện ý chí, nghị lực vượt qua nghịch cảnh, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm, dám chịu trách nhiệm với lời nói và hành động của cá nhân.
2 Cảm nhận về đoạn trích trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà" 5,0
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy
động kiến thức về tác phẩm văn học, lí luận văn học, kĩ năng tạo lập văn bản và
khả năng cảm thụ văn chương để làm bài.. .
-Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có
lí lẽ và căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản tác phẩm.
Yêu cầu cụ thể
a Đầy đủ bố cục 3 phần: 0,25
- Mở bài: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà từ
đó thấy được nét độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của nhà văn
Nguyễn Tuân.
-Kết bài: Khẳng định lại vấn đề
b Khái quát về tác giả, tác phẩm 0,25
-Tác giả:
+ “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa” (Nguyễn Minh
Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một
“huyền sử” – huyền sử của một người ưu lối chơi “độc tấu”.
+Là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp.
+ Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mĩ,
thường miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.

DUNG VAN PL _56


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
-Tác phẩm:
+ In trong tập tùy bút Sông Đà (1960)
+ Thành quả của chuyến đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi của Tổ
quốc.
+ Ở đó, nhà văn phát hiện ra chất vàng của thiên nhiên đặc biệt là thứ vàng mười
đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động.
c Cảm nhận đoạn trích
*Góc nhìn từ trên cao (máy bay), Sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân. 1,5
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây
thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người
thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
- Dòng sông mang vẻ đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt và duyên
dáng. Đây không phải là sự phát hiện mới mẻ, sáng tạo bởi lẽ vào khoảng thế kỷ
XV nhà thơ Nguyễn Trãi miêu tả núi Dục Thúy đã viết. Cái hay của Nguyễn
Tuân là vừa mới đây thôi Sông Đà còn làm mình, làm mẩy còn là thứ kẻ thù số
một của con người vậy mà bây giờ chỉ trong chốc lát dòng sông vặn mình hết
thác và sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông Đà lập tức khoác lên mình một
dáng vẻ hoàn toàn mới trở thành một áng tóc trữ tình.
- Dòng Sông Đà như mái tóc đang ôm lấy thân hình trẻ trung, gợi cảm đầy sức
sống của người thiếu nữ Tây Bắc. Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây
Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều.
+ Hoa ban mang màu sắc tinh khiết, hoa gạo màu đỏ rực rỡ chói lọi bung nở điểm
xuyết trên mái tóc trữ tình người thiếu nữ. Sự điểm xuyết ấy lại diễn ra giữa mùa
xuân khi mọi vật sinh sôi, nảy nở cho thấy sức sống mãnh liệt.
+ Khói núi Mèo đốt nương xuân cuồn cuộn. Tạo nên một tấm voan huyền ảo bao
phủ lên cảnh vật ẩn dấu đi khuôn mặt xinh đẹp của dòng sông. Chính vì vậy vẻ
đẹp bí ẩn ấy càng trở nên hấp dẫn.
* Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau:
- Tác giả đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông. Màu
nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng trong cách so sánh rất cụ thể:
+ Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo,
lấp lánh. Tác giả dừng lại giải thích rõ hơn màu xanh không phải xanh canh hến. 1,5
+ Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu
về”.
+ Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như thực dân
Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào”, và gọi bằng cái tên lếu láo
Sông Đen.
=> Thể hiện tình yêu, niềm tự hào trước vẻ đẹp của dòng sông của đất nước, quê
hương, xứ sở.
d Nét tài hoa, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân gửi 0,75
gắm qua hình tượng sông Đà
- Phong cách nghệ thuật được thể hiện qua góc nhìn đa chiều, tài hoa nghệ sĩ:
Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh
khác nhau vừa có tính trí tuệ vừa có tính tạo hình vượt xa những thủ pháp nhân
hóa thông thường. Nếu như ở đoạn đầu Nguyễn Tuân sử dụng góc nhìn của một
nghệ sĩ tài hoa diễn tả từng đoạn thác đá, từng cửa ải trận địa dữ dội của một sông
Đà hung bạo thì tới đây dưới con mắt khám phá sự vật ở phương diện mĩ thuật,
Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà như một công trình nghệ thuật thiên tạo tuyệt
vời. Sông Đà như một “áng tóc trữ tình tuôn dài mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện
DUNG VAN PL _57
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”.
Nguyễn Tuân nhìn dòng sông Đà và truyền cho độc giả nhìn nó qua làn mây mùa
xuân, ánh nắng mùa thu, chăm chú theo dõi những biến đổi sắc màu của nó khi
thì “xanh màu ngọc bích”, khi thì “lừ lừ chín đỏ”. Không chỉ vậy, cách Nguyễn
Tuân miêu tả sông Đà còn vô cùng phong phú khi ông cảm nhận sông Đà không
chỉ dưới góc độ không gian mà còn cảm nhận dòng sông dưới góc độ của thời
gian.
- Phong cách nghệ thuật được thể hiện qua vốn hiểu biết uyên bác của nhà
văn: Hình ảnh lãng mạn, trữ tình của con sông Đà được Nguyễn Tuân tái hiện
bằng cách kết hợp kiến thức hội hoạ và thơ ca.
- Phong cách nghệ thuật được thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ độc đáo của
tác giả: Nhà văn đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ.
Tác giả giống như một vị tướng tài ba chỉ huy đội quân Việt ngữ rất đông đảo.
Ông đã xếp đặt đội quân Việt ngữ vào những vị trí phù hợp để chúng có thể phát
huy tối đa khả năng của mình. Đoạn văn sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, nhân
hóa miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo.
- Nhìn sông Đà ở góc độ của một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa. Dòng sông Đà trong tác
phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo như " kẻ thù số một" của con
người, cũng có lúc hiện lên rất thơ mộng, trữ tình của một con người nồng nàn xúc
cảm.
=> Tình yêu thiên nhiên, tình yêu tiếng Việt -> Biểu hiện tình yêu đất nước thầm
kín.
e Nhận xét, đánh giá 0, 25
– Lối hành văn đầy biến hóa, độc đáo, giàu sức gợi tả và gợi cảm, sông Đà được
Nguyễn Tuân tái hiện bằng cách kết hợp tri thức tổng hợp của hội hoạ và thơ ca.
– Xây dựng thành công vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà qua những hình ảnh so sánh,
nhân hóa miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị.
– Nguyễn Tuân là một định nghĩa đầy đủ về người nghệ sĩ. Ông suốt đời rong
ruổi đi tìm cái đẹp. Đọc văn của ông, người ta thấy một con người tài hoa, uyên
bác.
g Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo qui tắc chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25
h Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn 0,25
đề nghị luận

DUNG VAN PL _58


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT
TRƯỜNG THPT PHÚC LỢI Bài thi: NGỮ VĂN
(Đề gồm 02 trang) Thời gian làm bài: 120 phút.

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Đọc văn bản:
Trong mỗi chú bé đều âm ỉ giấc mơ bay lên. Tôi cũng thế. Em chắc vẫn còn nuôi giấc mơ đó. Nhưng
khi lớn lên, đôi khi những tầng mây thâm thấp thôi cũng khiến ta như bị che khuất tầm nhìn. Tệ hơn, những
tầng mây sũng nước thậm chí có thể che khuất cả những giấc mơ, đè nén khát vọng của mỗi người. Một
ngày mây mù có thể khiến ta yếu ớt và bi lụy. Một chút thất bại cũng giống như mây mù kéo đến, có thể làm
em rút vào tổ kén bi quan. Ai đó nói rằng cách tốt nhất để hóa giải khó khăn là đi xuyên qua nó. Đi xuyên
qua mây mù bằng giấc mơ phi công giữ gìn từ thơ bé. Đi xuyên qua gian khó bằng lòng lạc quan. Đi xuyên
qua u mê bằng khao khát hướng đến trí tuệ, thông sáng. Đi xuyên qua thất bại bằng sự điềm đạm trưởng
thành.
Vì triệu năm đã là như thế, cuộc đời có hôm nắng đẹp, có ngày mưa dầm, có tuần mây đen như đè nặng,
có khoảnh khắc u ám tối dạ, rỗng đầu, nhưng mặt trời vẫn mọc mỗi sớm mai. Không phải ai cũng trở thành
phi công lái Airbus hay Boeing đúng y như giấc mơ tuổi nhỏ. Nhưng ai cũng có thể học cách giữ cho mình
giấc mơ bay xuyên qua những tầng mây, đón nắng rọi sáng tâm hồn khiến nụ cười luôn nở trên môi.
(Dẫn theo Bay xuyên những tầng mây, Hà Nhân, NXB Văn học. 2016, tr. 98)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, làm thế nào để hóa giải những khó khăn trong cuộc sống?
Câu 3. Phát hiện và nêu tác dụng của phép tu từ tiêu biểu trong câu: “Vì triệu năm đã là như thế, cuộc đời
có hôm nắng đẹp, có ngày mưa dầm, có tuần mây đen như đè nặng, có khoảnh khắc u ám tối dạ, rỗng đầu,
nhưng mặt trời vẫn mọc mỗi sớm mai”.
Câu 4. Anh/ chị có đồng ý với ý kiến: “Ai cũng có thể học cách giữ cho mình giấc mơ bay xuyên qua những
tầng mây, đón nắng rọi sáng tâm hồn khiến nụ cười luôn nở trên môi”? Vì sao ?

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)


Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của
anh/ chị về giá trị của giấc mơ trong đời sống của mỗi người.

Câu 2. (5,0 điểm)


…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy
hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà
châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên
tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn
gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ
tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi,
nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn.
Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy cái luồng
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy
quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn
này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những
DUNG VAN PL _59
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không
ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng
thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải
bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
(Trích Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái nhìn
mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

--------------Hết---------------

Họ và tên thí sinh: ………………………………………. Số báo danh…………................


Họ tên và chữ kí của giám thị: ……………………………………………………………….

Giám thị không giải thích gì thêm. Thí sinh không được sử dụng tài liệu.

DUNG VAN PL _60


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

HƯỚNG DẪN CHẤM THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2021
Bài thi: NGỮ VĂN

Câu Nội dung Điểm


ĐỌC HIỂU 3,0
1 Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận. 0 0.5
2 Theo tác giả, để hóa giải những khó khăn là đi xuyên qua nó. Đi xuyên qua mây mù bằng giấc1 0.5
mơ phi công giữ gìn từ thơ bé. Đi xuyên qua gian khó bằng lòng lạc quan. Đi xuyên qua u mê
bằng khao khát hướng đến trí tuệ, thông sáng. Đi xuyên qua thất bại bằng sự điềm đạm
trưởng thành.
3 - Biện pháp liệt kê ( hoặc ẩn dụ ) trong câu “Vì triệu năm đã là như thế, cuộc đời có hôm nắng
đẹp, có ngày mưa dầm, có tuần mây đen như đè nặng, có khoảnh khắc u ám tối dạ, rỗng đầu, 1,0
nhưng mặt trời vẫn mọc mỗi sớm mai”:
Tác dụng:
- Về nghệ thuật:
+ Làm cho câu văn thêm sinh động, gợi hình, gợi cảm…
- Về nội dung:
+ Nhấn mạnh trong cuộc đời của mỗi người có đầy đủ các cung bậc cảm xúc vui khi thành
công (hôm nắng đẹp), buồn khi công việc không như ý (ngày mưa dầm, mây đen đề
nặng…). Nhưng dù thành công hay thất bại thì bạn hãy luôn lạc quan, hãy luôn tin rằng ngày
mai trời lại sáng.
+ Giúp biểu lộ tình cảm niềm tin tưởng của tác giả vào những điều tốt đẹp phía trước.
4 Thí sinh có thể bày tỏ quan điểm cá nhân là đồng ý/ không đồng ý . Có cách lí giải hợp lí. 1,0
Chẳng hạn:
- Đồng ý với câu nói: “Ai cũng có thể học cách giữ cho mình giấc mơ bay xuyên qua những
tầng mây, đón nắng rọi sáng tâm hồn khiến nụ cười luôn nở trên môi”.
- Vì: Mỗi người dù trong hoàn cảnh khó khăn nào cũng đều có thể vượt qua và hướng đến ước
mơ, khát vọng của mình bằng cách chấp nhận, đối diện với khó khăn, thất bại; giữ vững tinh
thần lạc quan, niềm tin cuộc sống…

LÀM VĂN: 7,0


C1.Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)7 2,0
trình bày suy nghĩ của anh/ chị về giá trị của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con
người.
Yêu cầu chung
- Câu này kiểm tra năng lực viết đoạn nghị luận xã hội, đòi hỏi thí sinh phải huy động những
hiểu biết về đời sống xã hội, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ và chính kiến
của mình để làm bài.
-Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng;
được tự do bày tỏ chủ kiến của mình nhưng phải có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp
với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Yêu cầu cụ thể
Hình thức: 0,25
DUNG VAN PL _61
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
-Viết đúng 01 đoạn văn, khoảng 200 từ.
-Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Nội dung 0,25
a. Nêu vấn đề cần nghị luận: Ý nghĩa của giấc mơ trong đời sống hiện thực của con người.

- Giải thích: Giấc mơ? 0,25


Đời sống hiện thực của con người?
- Bàn luận: Thí sinh đưa ra lí lẽ và dẫn chứng hợp lí, thuyết phục. Có thể tham khảo ý sau: 0,75
- Ước mơ chính là động lực thúc đẩy con người hành động, vượt qua những khó khăn thử
thách, vượt qua những giới hạn của bản thân để từng bước, từng bước hoàn thành ước mơ đó.
- Ước mơ giúp con người hoàn thiện bản thân mình hơn, giúp ích cho xã hội.
- Ước mơ giúp ta nhận thức đúng đắn năng lực của bản thân thôi thúc ta biết kiên trì theo
đuổi… Ước mơ giúp con người tìm ra lối đi đúng đắn để đến tương lai
- Bài học nhận thức, hành động 0,25
c.Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận 0,25
d. Diễn đạt : Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.

2 Phân tích hình tượng ông lái đò trong đoạn văn trên, từ đó, bước đầu nhận xét về nghệ 5.0
thuật miêu tả con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
Mở bài giới thiệu vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề 0,2
5
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận 0,5
+ Phân tích nhân vật ông lái đò trong đoạn văn.
+ Nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm.
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận,
kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng, đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu ngắn gọn về 0,5
- Tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút “Người lái đò Sông Đà” và đoạn trích.
- Ông lái đò
*Phân tích hình tượng ông lái đò Sông Đà trong đoạn văn:
a. Vẻ đẹp trí dũng:
- Khắc họa trong tương quan với hình ảnh Sông Đà hung bạo, hùng vĩ: Nghệ thuật tương phản 1,5
đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức.
- Cuộc giao tranh với ba trùng vi thạch trận:
+ Cuộc vượt thác lần một: Sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, sóng thác
đánh những miếng đòn hiểm độc... Ông lái đò như một dũng tướng dù bị thương nhưng vẫn
kiên cường chiến đấu.
+ Cuộc vượt thác lần hai: con Sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con
người với tâm địa độc ác... Ông lái đò linh hoạt thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời để rồi
“những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.
+ Cuộc vượt thác lần ba: con sông bố trí bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Chính giữa
ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác của ông lái
thật tuyệt vời. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”,… để rồi
chiến thắng vinh quang.
Nhận xét: Đó là chiến thắng của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua 0,7
những thử thách khốc liệt của cuộc sống.Đó là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu 5
đến tường tận tính nết của Sông Đà, chiến thắng của sự hiểu biết quy luật thiên nhiên.
b. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ:
+ Tài hoa: Phong thái ung dung, tự do, tự tại khi vượt thác.
DUNG VAN PL _62
NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN
+ Nghệ sĩ: Tay lái ra hoa với những động tác đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, điêu luyện, mỗi động
tác của người lái đò giống như một đường cọ trên bức tranh sông nước mênh mông...
c. Nghệ thuật xây dựng hình tượng ông lái đò trong đoạn trích: 0,5
Nguyễn Tuân tạo nên tình huống đầy thử thách để ông lái đò bộc lộ rõ phẩm chất, năng lực của
mình.
Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ đa dạng, giàu chất tạo hình, kết hợp với trí tưởng tượng
phong phú,… để khắc họa một cách nổi bật hình tượng ông lái đò.
Kết hợp bút pháp hiện thực của thể kí nói chung với bút pháp tự do, phóng túng của thể loại tùy
bút để “chạm khắc” một cách chân thực, sống động và giàu mĩ cảm về con người.
Huy động tri thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau để khắc họa hình tượng con người.
Sử dụng kho từ vựng phong phú, câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu... phù hợp với đặc điểm và
bối cảnh hiện diện của con người.

* Nhận xét về cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn. 0,5
- Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác ông có thiên hướng khắc hoạ con người ở phương
diện tài hoa nghệ sĩ, nét riêng trong phong cách nghệ thuật của ông. Trước cách mạng Nguyễn
Tuân miêu tả hình ảnh con người tài hoa nghệ sĩ qua hình ảnh những nhà nho bất đắc chí như
một nhu cầu chơi ngông trước cuộc đời. Sau cách mạng Nguyễn Tuân khắc hoạ chân dung con
người tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động bình dị nhằm tôn vinh tài năng và lao động,
thể hiện niềm tin tưởng vào sức mạnh và chiến thắng của con người trong công cuộc chinh
phục thiên nhiên.
Ông lái đò là hình đẹp về con người lao động trong xã hội mới, mang trong mình phẩm chất trí
dũng, tài hoa nghệ sĩ, tiêu biểu cho “chất vàng mười, thứ vàng đã qua thử lửa” của con người
lao động Tây Bắc mà Nguyễn Tuân dày công khám phá và thể hiện qua những trang văn của
mình.
- (Lưu ý: Đây là những yêu cầu tối thiểu mà HS có thể rút ra trên cơ sở phân tích hình
tượng ông lái đò trong đoạn văn đã cung cấp, chưa đòi hỏi HS phải nêu những nhận xét khác
từ những nguồn ngoài ngữ liệu nêu trên. Tuy nhiên, GV vẫn có thể chấp nhận những nhận định
khác (nếu có) miễn là HS cung cấp được các dẫn chứng phù hợp)
d.Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,2
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. 5
e.Sáng tạo 0,2
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. 5
Tổng điểm 10.
0

DUNG VAN PL _63


NGƯỜ I LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄ N TUÂN

DUNG VAN PL _64

You might also like