You are on page 1of 3

1.

Người lái đò - một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có
lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa.

- Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những
phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà
văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một
quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết
người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo
và tâm địa của kẻ thù số một.

* Trùng vi thạch trận thứ nhất:

- Những câu văn tả đặc sắc khiến đá sông Đà được nhân hóa như một đội quân: “đá tảng,
đá hòn”..;, “đá tiền vệ” đã bày ra thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh.
Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội
quân đá: “mai phục”, “nhổm cả dậy”, “đứng ngồi nằm tùy theo sở thích”. “ăn chết”, ‘canh
cửa”, “hất hàm’…

- Cộng hưởng với những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: “ngỗ ngược”,
“nhăn nhúm”, “méo mó…Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh
hung tợn, ghê sợ tạo thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương
độc mã để gieo vào lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, “phối
hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá”, tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm
không khí chiến đấu ác liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp
lá cà, đánh khuýp quật vô hồi, đá trái, thúc gối…

=>Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình để kho ngôn từ
phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy không ngừng cả
các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số đậm đặc để cực
tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp ca ngợi chí
dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức chịu đựng
phi thường “ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”…chỉ huy ngắn gọn
kín đáo và ông đã chiến thắng “phá song trùng vi thạch trận thứ nhất”.

*Ở trùng vi thạch trận thứ hai:

Đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn
năm thủy quân không ngớt khiêu khích”…Những động từ mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy
không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so sánh nhân hóa rất độc đáo
giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng thêm sức mạnh đến đỉnh
điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái đò.

- Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến
thuật”, “ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật phục
kích của lũ đá” nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế “cưỡi lên thác sông
Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để mở
đường tiến”. Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của sóng
nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông lái
đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường.

2. Người lái đò – con người tài hoa

* Trùng vi thạch trận thứ ba:


- Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò. Nguyễn Tuân miêu tả
“bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lái đò phải vận dụng tài năng nghề nghiệp
của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô bay trong không trung
để “xuyên qua mặt nước”…những động từ mạnh “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại nhấn mạnh
tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa
cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cam nhận được độ khéo léo của con thuyền trong
hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người
đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề
nghiệp của mình.

=>Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng
ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong
nghề.

- Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu
chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc
sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm
nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn
khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động
trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản
như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình.
Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá
dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi
túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua
nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt
sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình.
Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến
đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó
cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái
đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân”.

- Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, lao động âm thầm, giản dị,
nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện
của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng
sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân
dân Tây Bắc.

- Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là
những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ
thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm.
Trong “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò
nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy
luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.

=> Qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, chúng ta càng phải khẳng định Nguyễn Tuân
đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động
trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò. Người
dân lao động hiện lên với vẻ tài hoa và như một nghệ sĩ thực thụ với nghề của mình.

ĐÁNH GIÁ CHUNG


- Qua đoạn trích miêu tả cuộc sống lao động của người lái đò trên sông Đà, Nguyễn Tuân
đã phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất
vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó
nhà văn ca ngợi đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

- Hình tượng người lái đò sông Đà đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
luôn quan sát và miêu tả con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Qua hình tượng người
lái đò, nhà văn muốn khẳng định: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có
trong cuộc sống lao động thường ngày.

You might also like